Mở đầu: Stress là một.trong những tác nhân có hại cho huyết áp, đặc biệt đối với người mắc bệnh tăng huyết áp (THA). Tỉ lệ ngưòi bị stress ngày càng cao, tỉ lệ người bệnh THA ngày càng tăng nhưng chưa có công bố nào trong nước đánh giá tình trạng stress ở người THA. Mục tiêu: Khảo sát tình trạng stress ở bệnh nhân THA nước ta. Đối tượng và phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả có phân tích trên 414 bệnh nhân khám tại phòng khám tim Bệnh viện Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3/2010 – 8/2011. Dùng thang đánh giá stress PSS-10. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân có điểm stress bình thường, nhẹ, trung bình, nặng lần lượt là 73,2%, 21,7%, 4,8%, 0,2%. Không khác biệt giữa các mức độ stress theo giới tính, nguồn cư trú, học vấn, việc làm, tài chánh, mức độ và biến chứng tăng huyết áp. Điểm stress giảm dần theo tuổi. Tình trạng hôn nhân có ảnh hưởng rõ đến stress. Kết luận: Cần phổ biến cho bệnh nhân THA tác hại sức khoẻ của stress cũng như cách ứng phó với stress để giảm thiểu tình trạng này.
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Stress và tăng huyết áp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 186
STRESS VÀ TĂNG HUYẾT ÁP
Trần Kim Trang*
TÓM TẮT
Mở đầu: Stress là một.trong những tác nhân có hại cho huyết áp, đặc biệt đối với người mắc bệnh tăng
huyết áp (THA). Tỉ lệ ngưòi bị stress ngày càng cao, tỉ lệ người bệnh THA ngày càng tăng nhưng chưa có công
bố nào trong nước đánh giá tình trạng stress ở người THA.
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng stress ở bệnh nhân THA nước ta.
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả có phân tích trên 414 bệnh nhân khám tại phòng
khám tim Bệnh viện Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3/2010 – 8/2011. Dùng thang đánh giá
stress PSS-10.
Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân có điểm stress bình thường, nhẹ, trung bình, nặng lần lượt là 73,2%, 21,7%,
4,8%, 0,2%. Không khác biệt giữa các mức độ stress theo giới tính, nguồn cư trú, học vấn, việc làm, tài chánh,
mức độ và biến chứng tăng huyết áp. Điểm stress giảm dần theo tuổi. Tình trạng hôn nhân có ảnh hưởng rõ đến
stress.
Kết luận: Cần phổ biến cho bệnh nhân THA tác hại sức khoẻ của stress cũng như cách ứng phó với stress để
giảm thiểu tình trạng này.
Từ khóa: Stress, tăng huyết áp.
ABSTRACT
STRESS AND HYPERTENSION
Tran Kim Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 186 - 193
Background: Stress is one of harmful factors of blood pressure, especially in hypertensives. Stress prevalence
is greater, hypertension prevalence is higher but none of issue of stress among the Vietnamese hypertensives is
found.
Objectives: To investigate the state of stress in Vietnamese hypertensive individuals.
Methods: A cross – sectional survey was carried out out during March 2010 – August 2011 to investigate
414 patients with hypertension by using PSS-10.
Results: The prevalence of stress in normal, mild, moderate and severe level was 73.2%, 21.7%, 4.8%,
0.2%, respectively.There were no differencies between stress level with gender, accommodation, educational
attainment, employment, finance, hypertension level or complications. The higher the age, the less the score.
Stress was affected significantly by marital status.
Conclusion: It is nesessary to disseminate stress impact on health to hypertensive patients as well as
strategies for coping with stress to minimize this setting.
Keywords: Stress, hypertension.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ lâu stress đã được xem là yếu tố nguy cơ,
yếu tố thúc đẩy của tăng huyết áp (THA) với cơ
chế bệnh sinh biết rõ. Nhưng stress cũng là một
phần tất yếu không thể không gặp và ngày càng
phổ biến, trở thành một vấn đề quan trọng trong
cuộc sống, nhất là với nhịp sống, cách sống hiện
* Bộ môn nội Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS BS Trần Kim Trang ĐT: 0989694263 Email: bskimtrang@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 187
tại ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Ở
nước ta, còn quá ít những nghiên cứu về mối
liên quan của stress với THA. Do đó, nghiên
cứu này mong muốn góp thêm phần nào vào
bức tranh tổng thể của stress và THA những chi
tiết mà từ đó người bệnh THA càng thấy mức
nguy hiểm của stress để tìm đến những biện
pháp giảm stress, cũng như góp thêm một cái
nhìn vào khía cạnh y xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tình trạng stress ở bệnh nhân tăng
huyết áp.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang mô tả có phân tích.
Nơi thực hiện
Phòng khám tim mạch BV ĐHYD TPHCM.
Thời gian nghiên cứu
Tháng 3/2010 – 8/2011.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân tăng huyết áp chưa hoặc đang
điều trị.
Cở mẫu
Theo công thức tính tỉ lệ lưu hành của 1
quần thể: N= Z21- α/2 P(1-P)/d2.
N: cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra trên người tăng HA =
288.
α: xác suất sai lầm lọai 1, chọn α = 0,05 thì Z1- α/2 = Z0,975:
trị số từ phân phối chuẩn = 1,96.
d: sai số cho phép (độ chính xác mong muốn của ước
lượng) = 0,05.
p: 25% (Hội nghị "Triển khai kế hoạch phòng chống THA
năm 2011": Qua điều tra gần đây nhất của Viện Tim mạch
quốc gia tại 8 tỉnh thành thì tỷ lệ THA của những người ≥
25 tuổi là 25,1%).
Phương pháp chọn mẫu
Liên tiếp.
Tiêu chuẩn lọai trừ
BN > 75 tuổi, không khả năng giao tiếp
chính xác (người Hoa, Campuchia, giảm thính
lực, lú lẫn).
Phương pháp thu thập số liệu
Người thực hiện nghiên cứu chính là bác sĩ
điều trị của bệnh nhân, khám và làm các xét
nghiệm xác định mức độ, giai đọan, biến chứng
của THA; hỏi tiền căn bệnh mạn tính đi kèm; hỏi
bộ câu hỏi PSS 10(4) và điền các dữ liệu vào bảng
thu thập số liệu.
Liệt kê và định nghĩa biến số
Tuổi: biến định tính 6 giá trị (18-24, 25 – 34,
35 – 44, 45-54, 55 – 64, >65 tuổi).
Giới: biến định tính nhị giá (nam & nữ).
Nơi sống: biến định tính nhị giá (nông
thôn/thành thị).
Tình trạng hôn nhân: biến định tính 5 giá trị
(độc thân/ ly dị/ ly thân/ góa/ đủ đôi).
Tình trạng việc làm: biến định tính 3 giá trị
(lao động: chân tay/ trí óc/ mất sức).
Tình trạng tài chánh: biến định tính 3 giá trị
theo tự đánh giá của bệnh nhân (nghèo khó/ đủ
ăn/ khá giả).
Trình độ học vấn: biến định tính 4 giá trị
(tiểu học/ trung học/ đại học/ sau đại học).
Tăng huyết áp: biến định tính nhị giá (2 mức
độ I và II theo JNC VII).
Biến chứng THA: biến định tính nhị giá (có
và không tai biến mạch não, biến chứng tim: suy
tim, dày thất, bệnh mạch vành, thiếu máu cơ
tim, nhồi máu cơ tim).
Stress theo PSS 10 của S. Cohen: biến định
lượng sau đó mã hóa thành biến định tính
(không stress 0-<10, nhẹ 10- <20, trung bình 20-<
30, nặng 30- 40).
Do thang PSS nguyên bản không có điểm
cắt xác định stress, chỉ so sánh mức độ stress
giữa những người trong mẫu nghiên cứu,
điểm càng cao cho thấy stress càng nặng(2).
Nhưng tham khảo bảng sau đây nêu giá trị
bình thường do L. Harris Poll tập hợp từ 2.387
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 188
người ở Mỹ, chúng tôi chọn cách chia điểm
PSS thành 4 giá trị như trên để tiện thống kê.
N Trung bình Độ lệch chuẩn
Giới: Nam
Nữ
926
1406
12,1
13,7
5,9
6,6
Tuổi: 18-29
30-44
45-54
55-64
≥65
645
750
285
282
296
14,2
13,0
12,6
11,9
12,0
6,2
6,2
6,1
6,9
6,3
Phương pháp phân tích số liệu
Nhập liệu bằng Excel.
Xử lý số liệu bằng chương trình Stata 10.0.
Biến số định lượng trình bày dạng trung
bình +/- độ lệch chuẩn, kiểm định bằng T test.
Biến số định tính trình bày dạng tỷ lệ%,
kiểm định bằng chi bình phương Pearson. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Phân tích đa biến: lượng giá đồng thời mối
liên quan giữa các mức độ stress với tăng huyết
áp và các yếu tố liên quan qua mô hình hồi quy
đa biến Poisson.
Phân tích phương sai.
Vấn đề y đức
Nghiên cứu không ảnh hưởng tài chính, sức
khỏe bệnh nhân. Trái lại, qua bảng câu hỏi, bệnh
nhân rất hài lòng vì cảm thấy được thầy thuốc
quan tâm sâu sát.
KẾT QUẢ
Có 414 bệnh nhân tăng huyết áp được khảo
sát.
Bảng 1: Tỉ lệ và mức độ stress ở bệnh nhân tăng
huyết áp
Điểm
PSS
<10
không
stress
10 - <20
stress
nhẹ
20 - < 30
stress trung
bình
30 – 40
stress
nặng
Tổng
n 303 90 20 1 414
% 73,2 21,7 4,8 0,2 100
Điểm PSS thấp nhất: 0, cao nhất: 31, trung
bình: 6,02 ± 6,7.
Bảng 2: Điểm PSS trung bình
N Trung bình ± ĐLC Trung bình sai số chuẩn Điểm thấp nhất – cao nhất p
Giới
Nam
Nữ
414
149
265
6,02 ± 6,7
5,48 ± 6,2
6,32 ± 6,9
0,3
0,51
0,42
0-31
0-25
0-31
0,306
Tuổi
18- 24
25 – 34
35 – 44
45 – 54
55 – 64
> 64
414
2
6
36
106
129
135
6,02 ± 6,7
18 ± 9,8
8,5 ± 4,6
6,8 ± 6,1
7,2 ± 7,4
5,4 ± 6,08
5,09 ± 6,5
0,3
7
1,8
1
0,7
0,5
0,5
0-31
0-25
0-13
0-24
0-31
0-28
0-28
0,011
Hôn nhân
Đủ đôi
Độc thân
Ly dị
Goá
414
322
17
6
69
6 ± 6,7
5,8 ± 6,2
10 ± 9,3
8,4 ± 9,8
5,6 ±7,5
0,3
0,3
2,2
4,4
0,9
0 - 31
0 - 28
0- 28
0- 24
0 - 31
0,06
Việc làm
LĐ chân tay
LĐ trí óc
Mất sức LĐ
414
195
58
161
6 ± 6,7
6,7 ± 6,8
7,3 ± 6,9
4,6 ± 6,2
0,3
0,4
0,9
0,4
0-31
0-29
0-31
0-28
0,04 giữa
nhóm LĐ
chân tay và
mất sức LĐ
Tài chánh
Nghèo khó
Đủ ăn
Khá giả
414
16
300
98
6 ± 6,7
8,3 ± 7,09
6 ± 7
5,5 ± 5,5
0,3
1,7
0,4
0,5
0-31
0-23
0-31
0-20
0,31
Học vấn
Tiểu học
414
226
6 ± 6,7
6,5 ± 6,9
0,3
0,4
0-31
0-29
0,163
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 189
N Trung bình ± ĐLC Trung bình sai số chuẩn Điểm thấp nhất – cao nhất p
Trung học
Đại học
Sau đại học
155
32
1
5,1± 5,9
6,5 ± 8
0,4
1,4
0-25
0-31
Nơi cư trú
Nông thôn
Thành thị
414
147
267
6,02 ± 6,7
6,07 ± 6,95
5,93 ± 6,23
0,33
0,42
0,51
0-31
0-31
0-28
0,84
Độ tăng HA
I
II
414
98
316
6 ± 6,7
6 ± 6,8
6 ± 6,6
0,3
0,6
0,3
0-31
0-31
0-29
0,94
Nhóm 18-24 tuổi chỉ có 2 người, nhóm 25-
34 chỉ có 6 nên gộp chung với nhóm 35-44
tuổi, dùng phép kiểm LSD so sánh từng cặp,
thấy 3 cặp khác nhau có ý nghĩa thống kê: cặp
< 45 tuổi với cặp trên 64 p là 0,031 và cặp 45-
54 với cặp 55-64 p là 0,042 và trên 64 p là
0,013. ANOVA cho P = 0,004.
Phân tích đa biến
Chỉ với yếu tố tuổi là điểm stress khác biệt
có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3: Liên quan giữa mức độ stress với giới tính
Điểm PSS theo
giới
Nam: n
(%)
Nữ: n (%) Tổng p
<10 không stress 110
(73,8%)
193
(72,8%)
303
(73,2%)
0,898
10 – <20 stress
nhẹ
32
(21,5%)
58
(21,9%)
90
(21,7%)
20 - < 30 stress
trung bình
7 (4,7%) 13 (4,9%) 20 (4,8%)
30 – 40 stress
nặng
0 (0%) 1 (0,4%) 1 (0,2%)
Tổng 149
(100%)
265
(100%)
414
(100%)
Bảng 4: Liên quan giữa mức độ stress với tuổi tác
bệnh nhân tăng huyết áp
Điểm PSS
theo tuổi
35 – 44
n (%)
45– 54
n (%)
55 – 64
n (%)
> 65
n (%)
Tổng p
<10 không
stress
29
(65,9%)
68
(64,2%)
98
(76,6%)
108
(79,4%)
303
(73,2%)
0,17
4
10 – <20 stress
nhẹ
13
(29,5%)
30
(28,3%)
26
(20,3%)
21 (15,4%) 90
(21,7%)
20 - < 30 stress
tr/bình
2 (4,5%) 7 (6,6%) 4 (3,1%) 7 (5,1%) 20
(4,8%)
30 – 40 stress
nặng
0 1 (0,9%) 0 0 1 (0,2%)
Tổng 44
(100%)
106
(100%)
128
(100%)
136
(100%)
414
(100%)
Bảng 5: Liên quan giữa stress ở bệnh nhân tăng
huyết áp với tình trạng hôn nhân
Điểm PSS /
Hôn nhân
Đủ đôi
n (%)
Độc
thân
n (%)
Ly dị
n (%)
Góa
n (%)
Tổng p
<10 không stress 236
(73,3%)
10
(58,8%)
3 (60%) 54
(77,1%)
303
(73,2%)
0,008
10 – <20 stress
nhẹ
74 (23%) 3
(17,6%)
1 (20%) 12
(17,1%)
90
(21,7%)
20 - < 30 stress
tr bình
12
(3,7%)
4
(23,5%)
1 (20%) 3 (4,3%) 20
(4,8%)
30 – 40 stress
nặng
0 0 0 1 (1,4%) 1 (0,2%)
Tổng 322
(100%)
17
(100%)
5
(100%)
70
(100%)
414
(100%)
Bảng 6: Liên quan giữa stress ở bệnh nhân tăng
huyết áp với việc làm/ nghề nghiệp
Điểm PSS /
Việc làm
Lao động
chân tay:
n (%)
LĐ trí
óc: n
(%)
Mất sức
LĐ n (%)
Tổng p
<10 không
stress
133
(68,2%)
40
(69%)
130
(80,7%)
303
(73,2%)
0,21
10 – <20
stress nhẹ
53
(27,2%)
13
(22,4%)
24
(14,9%)
90
(21,7%)
20 - < 30
trung bình
9 (4,6%) 4
(6,9%)
7 (4,3%) 20
(4,8%)
30 – 40
stress nặng
0 1
(1,7%)
0 1
(0,2%)
Tổng 195
(100%)
58
(100%)
161
(100%)
414
(100%)
Bảng 7: Liên quan giữa stress ở bệnh nhân tăng
huyết áp với tình hình tài chánh
Điểm PSS /
tài chánh
Nghèo
khó n (%)
Đủ ăn
n (%)
Khá giả
n (%)
Tổng p
<10 không
stress
9 (56,3%) 220
(73,6%)
73
(74,5%)
302
(73,1%)
0,267
10 – <20
stress nhẹ
5 (31,3%) 61
(20,4%)
24
(24,5%)
90
(21,8%)
20 - < 30
stress trung
bình
2 (12,5%) 17
(5,7%)
1 (1%) 20
(4,8%)
30 – 40 0 1 (0,3%) 0 1 (0,2%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 190
Điểm PSS /
tài chánh
Nghèo
khó n (%)
Đủ ăn
n (%)
Khá giả
n (%)
Tổng p
stress nặng
Tổng 16 (100%) 299
(100%)
98 (100%) 413
(100%)
Bảng 8: Liên quan giữa stresss ở bệnh nhân tăng
huyết áp với trình độ học vấn
Điểm
PSS /Học
vấn
Tiểu
học
n (%)
Trung
học
n (%)
Đại
học
n (%)
Sau đại
học
n (%)
Tổng P
<10
không
stress
159
(70,4%)
116
(75,3%)
26
(81,3%)
1 (100%) 302
(73,1%)
0,32
7
10 – <20
stress nhẹ
54
(23,9%)
33
(21,4%)
3
(9,4%)
0 (0%) 90
(21,8%)
20 - < 30
trung bình
13
(5,8%)
5 (3,2%) 2
(6,3%)
0 (0%) 20
(4,8%)
30 – 40
stress
nặng
0 0 1
(3,1%)
0 1
(0,2%)
Tổng 226
(100%)
154
(100%)
32
(100%)
1 (100%) 413
(100%)
Bảng 9: Liên quan giữa stresss ở bệnh nhân tăng
huyết áp với nơi cư trú
Điểm PSS Thành thị:
n (%)
Nông thôn:
n(%)
Tổng p
<10 196 (73,4) 107 (72,8) 303 (73,2) 0,327
10 – <20 54 (20,2) 36(24,5) 90 (21,7)
20 - < 30 16 (6) 4(2,7) 20 (4,8)
30 – 40 1 (0,4) 0 1 (0,2)
Tổng 267(100) 147 (100) 414 (100)
Bảng 10: Liên quan giữa stress và mức độ tăng huyết
áp
Điểm PSS THA I:
n (%)
THA II:
n (%)
Tổng p
<10 74 (75,5) 229 (72,5) 303 (73,2) 0,235
10 – <20 20 (20,4) 70 (22,2) 90 (21,7)
20 - < 30 3 (3,1) 17 (5,4) 20 (4,8)
30 – 40 1 (1) 0 1 (0,2)
Tổng 98 (100) 316 (100) 414 (100)
Bảng 11: Liên quan stress và biến chứng THA
PSS / Biến chứng THA Tim: n (%) Não: n (%)
<10 không stress 119 20
10 – <20 stress nhẹ 42 2
20 - < 30 stress trung bình 8 0
30 – 40 stress nặng 1 0
Tổng 170 22
p 0,39 0,27
Các bệnh mạn tính đi kèm:
125 Rối loạn lipid máu.
94 Suy tuần hoàn não.
67 dạdày- 6 Viêm thực quản trào ngược.
48 Suy tĩnh mạch chân.
37 thoái khớp.
32 Đái tháo đường.
3 Ung thư.
3 COPD 5 hen 1 dãn phế quản.
3 COPD.
BÀN LUẬN
Thang PSS: của Sheldon Cohen hiện là công
cụ được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá sự
nhận biết stress, đo lường mức độ được cho là
stress trong cuộc sống. Các mục được thiết kế
sao người được phỏng vấn nhận thấy cuộc sống
của mình không nói trước được, không kiểm
sóat được và quá tải. Các câu hỏi xoay quanh
những cảm xúc và suy nghĩ trong vòng một
tháng qua.
Có các thang PSS 4 (độ tin cậy r = 0,60), PSS
10 và PSS 14 có độ tin cậy và độ giá trị cao hơn
(cùng có r = 0,85) nên chúng tôi chọn PSS 10.
Nếu sử dụng cho mục đích giáo dục hoặc
nghiên cứu hàn lâm thì không cần xin phép tác
giả(5).
Tỉ lệ người tăng huyết áp bị stress
Một khảo sát do Công ty Hoffmann-La
Roche tiến hành nhằm đánh giá tình trạng stress
ở Việt Nam năm 2002 cho thấy, tỷ lệ bình quân
người bị stress trong cả nước là 52%. Riêng Hà
Nội và TP.HCM, tỷ lệ người bị stress lần lượt là
55% và 52%. Gần 10 năm qua tuy chưa có thêm
những số liệu mới đượccông bố nhưng tỉ lệ trên
rất đáng quan tâm, nhất là với những người
mang bệnh lý mạn tính, như THA(8).
Có tác giả đề xuất như sau khi dùng thang
PSS 10 (0 - 40 đ).
Dưới 24 điểm: Bạn có thể bị stress nhiều
nhưng biết cách chế ngự. Xin hoan hô bạn.24-30
điểm: Bạn bắt đầu bị quá tải vì stress. Bạn chưa
đủ năng lực để kiểm soát các trở ngại bạn gặp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 191
phải. Cần có người hỗ trợ vượt qua stress, nếu
không sẽ dẫn đến hậu quả xấu cho sức
khỏe.Trên 30 điểm: Bạn đã bị stress. Cần được
khám và điều trị.
Theo hướng dẫn trên thì nghiên cứu của
chúng tôi mang lại tín hiệu tốt vì 94,9% bệnh
nhân THA có thang điểm stress rất nhẹ hoặc
không stress, ở mức còn chế ngự và kiểm soát
được. Nhiều bệnh nhân ý thức được các biến
chứng nguy hại của THA nên đã chọn quan
điểm sống và cách sống sao cho bớt lo toan,
căng thẳng để giảm thiểu ảnh hưởng của stress
lên bệnhTHA.
Liên quan stress với các yếu tố dân số học
Kevin qua hơn nữa thế kỷ khảo sát đã cho
biết ngoài stress đóng vai trò quan trọng trong
những đợt kịch phát củaTHA, còn nhiều yếu tố
khác như dân số học, giáo dục, tâm lý, béo phì,
gắng sức, hút thuốc(7).
Qua một nghiên cứu về stress tâm lý (cùng
sử dụng thang PSS 10) trên dân số chung ở
Mỹ tại 3 thời điểm 1983, 2006, 2009, phụ nữ
được ghi nhận stress nhiều hơn nam giới, tuổi
càng tăng stress càng giảm, thể hiện qua điểm
PSS trung bình(1).
Những bệnh nhân THA trong nghiên cứu
của chúng tôi lại không có sự khác biệt tình
trạng stress theo giới tính nhưng có giảm dần
theo tuổi. Điều này rất tốt khi THA vốn được
xem là bệnh lý của người lớn tuổi, nhưng đa
số người ở nhóm tuổi này đã nhẹ lo toan về
cuộc sống, và theo nếp sống quen thuộc của
người Việt Nam thì người lớn tuổi thường
sống chung nhà với con cháu để được chăm
sóc, do đó ít bị stress hơn.
Hầu như bệnh nhân THA nào – dù nam hay
nữ - cũng từng trãi qua cơn THA khi có sang
chấn tâm lý nên đều nỗ lực thực hiện những
biện pháp ứng phó với stress, phải chăng vì vậy
mà những khác biệt về tâm sinh lý của 2 giới
không liên quan đến tỉ lệ stress theo giới tính ở
người THA.
Liên quan stress với các yếu tố xã hội học
Khảo sát 26 năm của Sheldon Cohen và
Denise Janicki-Deverts công bố vào năm 2009
cho thấy stress càng tăng khi mức giáo dục và
thu nhập càng thấp.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu Mỹ đã đo
hàm lượng 3 hormon gây stress - epinephrine,
norepinephrine và cortisol - ở 193 người có
thu nhập hằng năm từ 2.500 USD đến 162.500
USD. Kết quả cho thấy tình trạng kinh tế xã
hội thấp gắn liền với hàm lượng cao ở cả 3
hocmon stress. Sự tương quan này không phụ
thuộc vào chủng tộc, tuổi tác, giới tính hay
mức độ béo phì. Ngoài ra, tình trạng nghèo
khó cũng gắn liền với tỷ lệ hút thuốc cao,
uống rượu nhiều, (đây là 2 hành vi hại cho
huyết áp), không ăn sáng đều đặn và ít có
mạng lưới quan hệ phong phú. Như vậy, trái
với quan niệm thông thường rằng các quan
chức và những ai có thu nhập cao thường bị
stress nhiều hơn những người ở địa vị thấp
trong xã hội(8).
Trong khi đó, kết quả khảo sát qua 7.400
lãnh đạo doanh nghiệp tại 36 quốc gia được
Công ty Grant Thornton công bố ngày 18/3/2010
thì tỉ lệ doanh nhân có mức độ stress tăng dần
qua các năm, riêng nước ta là 72%.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận không
khác biệt tình trạng stress theo học vấn, công
việc, tình trạng kinh tế gia đình, phải chăng do
tâm lý “ quẳng gánh lo đi mà vui sống” của
người tăng huyết áp nhờ vào ảnh hưởng của các
phương tiện giáo dục sức khoẻ đại chúng.
Trong số những tình trạng sức khỏe tâm
thần liên quan stress có yếu tố sống tách biệt
bạn bè gia đình hoặc tình trạng hôn nhân bất
ổn vốn đã được đề cập rất nhiều(14). Điều này
thể hiện trong nghiên cứu của chúng tôi với
sự khác biệt có ý nghĩa giữa điểm stress và
tình trạng hôn nhân.
Liên quan stress với các yếu tố bệnh học
Đã có quan niệm sai lầm phổ biến là stress
gây THA.Nhiều người không hề stress vẫn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 192
THA. Số liệu của chúng tôi cho thấy không có
liên quan giữa mức độ stress và độ THA. Nhiều
nghiên cứu đã đúc kết rằng stress ngắn hạn ảnh
hưởng tiến triển của THA, huyết áp chỉ tăng
thoáng qua rồi về bình thường sau khi hết tình
huống gây stress; còn stress dồn dập hàng ngày,
đều đặn trong thời gian dài gây tăng mức huyết
áp - chứ không là nguyên nhân trực tiếp gây
bệnh THA - thông qua kích thích thần kinh làm
tăng tiết một lượng lớn hormone gây co mạch.
Những yếu tố ảnh hưởng huyết áp thông qua
stress gồm có THA áo trắng, nghề nghiệp căng
thẳng, chạy đua với các hạn chót, xếp