Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát sự tăng trưởng sọ mặt của trẻ em Việt Nam từ 10 đến
14 tuổi theo phân tích Ricketts.
Đối tượng và phương pháp: Đây là một nghiên cứu dọc thuần túy được thực hiện bằng cách đo đạc và
chồng phim trên 117 phim sọ nghiêng của 39 trẻ em Việt Nam (19 nam, 20 nữ) ở ba độ tuổi 10, 12 và 14 tuổi.
Các số đo đường thẳng và góc độ (26 số đo) được đo đạc và các bản vẽ nét trên phim của mỗi đối tượng được
chồng theo phương pháp của Ricketts.
Kết quả: Sự tăng trưởng của phức hợp sọ mặt ở giai đoạn từ 10 đến 12 tuổi diễn ra mạnh hơn ở giai đoạn
từ 12 đến 14 tuổi; trong đó, nữ tăng trưởng mạnh hơn nam trong giai đoạn từ 10 đến 12 tuổi, trong khi nam
tăng trưởng mạnh hơn nữ trong giai đoạn từ 12 đến 14 tuổi. Hầu hết các số đo về kích thước ở từng lứa tuổi của
nam lớn hơn nữ: chiều dài nền sọ trước, khoảng cách từ khớp thái dương hàm đến mặt phẳng chân bướm, chiều
dài cành ngang xương hàm dưới. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về các số đo còn lại ở cả ba độ tuổi. Từ
10 đến 14 tuổi, hướng tăng trưởng chung của mặt tương đối ổn định theo hướng xuống dưới và ra trước do góc
trục mặt thay đổi không có ý nghĩa; cằm nhô ra trước (góc mặt tăng); xương hàm dưới xoay ra trước (góc mặt
phẳng hàm dưới giảm và góc cung hàm dưới tăng); xương hàm trên duy trì tương quan với nền sọ và với xương
hàm dưới tương đối ổn định (góc Ba-N-A và độ lồi mặt không đổi); tỷ lệ chiều cao giữa các tầng mặt không thay
đổi; khối sọ mặt tiếp tục gia tăng kích thước (chiều dài nền sọ, chiều cao mặt phía sau, chiều dài cành ngang
xương hàm dưới đều tăng). Khi chồng phim tại điểm trung tâm Pt theo mặt phẳng Ba-N, các trục mặt của ba độ
tuổi trùng nhau và các điểm mốc của cấu trúc sọ mặt tăng trưởng theo mọi hướng, ngày càng xa Pt. Kết quả
chồng phim phù hợp và bổ sung cho kết quả đo đạc các giá trị của các đặc điểm nghiên cứu.
Kết luận: Ở trẻ em Việt Nam từ 10 đến 14 tuổi, không có sự khác biệt về hình dạng của phức hợp sọ mặt
giữa nam và nữ, tuy nhiên kích thước sọ mặt của nam lớn hơn nữ. Đồng thời, khối sọ mặt tăng trưởng theo mọi
hướng so với tâm tăng trưởng Pt.
10 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự tăng trưởng sọ mặt ở trẻ em Việt Nam từ 10 đến 14 tuổi theo phân tích Ricketts, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 21
SỰ TĂNG TRƯỞNG SỌ MẶT Ở TRẺ EM VIỆT NAM TỪ 10 ĐẾN 14 TUỔI
THEO PHÂN TÍCH RICKETTS
Lê Võ Yến Nhi*, Hoàng Tử Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát sự tăng trưởng sọ mặt của trẻ em Việt Nam từ 10 đến
14 tuổi theo phân tích Ricketts.
Đối tượng và phương pháp: Đây là một nghiên cứu dọc thuần túy được thực hiện bằng cách đo đạc và
chồng phim trên 117 phim sọ nghiêng của 39 trẻ em Việt Nam (19 nam, 20 nữ) ở ba độ tuổi 10, 12 và 14 tuổi.
Các số đo đường thẳng và góc độ (26 số đo) được đo đạc và các bản vẽ nét trên phim của mỗi đối tượng được
chồng theo phương pháp của Ricketts.
Kết quả: Sự tăng trưởng của phức hợp sọ mặt ở giai đoạn từ 10 đến 12 tuổi diễn ra mạnh hơn ở giai đoạn
từ 12 đến 14 tuổi; trong đó, nữ tăng trưởng mạnh hơn nam trong giai đoạn từ 10 đến 12 tuổi, trong khi nam
tăng trưởng mạnh hơn nữ trong giai đoạn từ 12 đến 14 tuổi. Hầu hết các số đo về kích thước ở từng lứa tuổi của
nam lớn hơn nữ: chiều dài nền sọ trước, khoảng cách từ khớp thái dương hàm đến mặt phẳng chân bướm, chiều
dài cành ngang xương hàm dưới. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về các số đo còn lại ở cả ba độ tuổi. Từ
10 đến 14 tuổi, hướng tăng trưởng chung của mặt tương đối ổn định theo hướng xuống dưới và ra trước do góc
trục mặt thay đổi không có ý nghĩa; cằm nhô ra trước (góc mặt tăng); xương hàm dưới xoay ra trước (góc mặt
phẳng hàm dưới giảm và góc cung hàm dưới tăng); xương hàm trên duy trì tương quan với nền sọ và với xương
hàm dưới tương đối ổn định (góc Ba-N-A và độ lồi mặt không đổi); tỷ lệ chiều cao giữa các tầng mặt không thay
đổi; khối sọ mặt tiếp tục gia tăng kích thước (chiều dài nền sọ, chiều cao mặt phía sau, chiều dài cành ngang
xương hàm dưới đều tăng). Khi chồng phim tại điểm trung tâm Pt theo mặt phẳng Ba-N, các trục mặt của ba độ
tuổi trùng nhau và các điểm mốc của cấu trúc sọ mặt tăng trưởng theo mọi hướng, ngày càng xa Pt. Kết quả
chồng phim phù hợp và bổ sung cho kết quả đo đạc các giá trị của các đặc điểm nghiên cứu.
Kết luận: Ở trẻ em Việt Nam từ 10 đến 14 tuổi, không có sự khác biệt về hình dạng của phức hợp sọ mặt
giữa nam và nữ, tuy nhiên kích thước sọ mặt của nam lớn hơn nữ. Đồng thời, khối sọ mặt tăng trưởng theo mọi
hướng so với tâm tăng trưởng Pt.
Từ khóa: Chiều dài nền sọ trước, chiều dài cành ngang xương hàm dưới, góc mặt, góc mặt phẳng hàm
dưới, góc cung hàm dưới, độ lồi mặt, trục mặt, cao mặt toàn bộ, cao mặt dưới.
ABSTRACT
THE CRANIOFACIAL GROWTH OF VIETNAMESE CHILDREN AGED 10 TO 14 YEARS
ACCORDING TO RICKETTS ANALYSIS
Le Vo Yen Nhi, Hoang Tu Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 21 - 30
Objectives: This study was to investigate into the craniofacial growth of Vietnamese children aged 10 to 14
years according to Ricketts analysis.
Materials and method: This pure longitudinal study was conducted on 39 Vietnamese children (19 males,
20 females) at 10, 12 and 14 years-old. Linear and angular measurements (26 measurements) were performed on
* Khoa RHM, Đại học Y dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Lê Võ Yến Nhi ĐT: 0918595956 Email: yennhi_le@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 22
lateral cephalometric tracings and the tracings were superimposed according to Ricketts’ method.
Results: The study results showed that the growth of craniofacial complex in the period from 10 to 12 years
of age was more than that in the period from 12 to 14 years. Females experienced more growth during the period
from 10 to 12 years-old, and vice versa in the later period from 12 to 14 years-old. Most dimensional
measurements were higher in male such as the anterior cranial length, the distance from TMJ to PTV (pterygoid
vertical plane) and the corpus length. There was no difference between male and female on the rest of
measurements at all studied ages. From 10 to 14 years, growth was relatively stable in downward-forward
direction due to insignificant alteration of the facial axis; the chin protruded (increased facial depth); the mandible
rotated forward (reduced mandibular plane angle and increased mandibular arch); the maxilla remained
unchanged relative to cranial base and the mandible was relatively stable (no change in Ba-N-A angle and
convexity was observed). The ratio between facial thirds was stable; and the craniofacial complex continued to
increase in size (cranial length, the posterior facial height, and the corpus length). Superimposition on Ba-N plane
registered at Pt showed that the facial axis at three ages coincided and the landmarks of craniofacial structure
grew in every direction increasingly away from Pt. The superimposition results were in accordance with and
were complementary to the measurements values of the studied characteristics.
Conclusion: there was no difference in craniofacial morphology between Vietnamese male and female from
10 to 14 years old. However, craniofacial dimensions were larger in male. Also, the craniofacial growth was in all
directions from the growth center Pt.
Key words: Anterior cranial length, corpus length, facial angle, mandibular plane angle, mandibular arch,
convexity, facial axis, total facial height, lower facial height.
MỞ ĐẦU
Sự tăng trưởng ở tuổi nhỏ và dậy thì có một
vai trò quan trọng trong sự phát triển răng mặt
với sự thay đổi từ bộ răng hỗn hợp sang bộ răng
vĩnh viễn, sự gia tăng tốc độ tăng trưởng của
mặt và sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng của
xương hàm trên và xương hàm dưới. Cách tốt
nhất để nghiên cứu sự tăng trưởng là theo dõi
dọc. Có nhiều phương pháp phân tích sọ mặt
được áp dụng, trong đó, phân tích Ricketts
(1960) là một trong những công cụ phục vụ đắc
lực cho nghiên cứu dọc. Ricketts đã xây dựng
một phương pháp đơn giản, có thể áp dụng vào
thực hành lâm sàng hàng ngày để mô tả, đánh
giá các đặc điểm của răng, xương và mô mềm,
đồng thời có thể dự báo sự tăng trưởng của
chúng trong tương lai gần và xa. Các tâm điểm
hình học (CC, Pt, Xi) được dùng làm điểm tham
chiếu, giúp phân tích này có nhiều ưu điểm hơn
những phân tích sọ mặt khác do đây là những
điểm ít thay đổi nhất trong quá trình tăng
trưởng của hệ thống sọ mặt và có thể xác định
khá chính xác(7,5,4,16,19,20,27).
Trên thế giới đã có nhiều tác giả sử dụng
phân tích Ricketts trong nghiên cứu và thực
hành để để khảo sát các đặc điểm hình thái cũng
như dự đoán sự tăng trưởng của sọ mặt như Li
(2001), Matias (2004), Valdes (2004), Valente
(2003). Ở Việt Nam, Lê Nguyên Lâm (2007) đã
áp dụng phân tích Ricketts trên phim sọ nghiêng
để nghiên cứu đặc điểm sọ mặt của trẻ 12 tuổi
với 10 đặc điểm nghiên cứu(11,30,13,29,12).
Nhằm xác định mẫu tăng trưởng ở tuổi dậy
thì của trẻ em Việt Nam và khai thác thế mạnh
của phân tích Ricketts trong nghiên cứu và dự
đoán tăng trưởng, chúng tôi tiến hành thực hiện
đề tài này theo giả thuyết nghiên cứu: Không có
sự khác biệt về đặc điểm hình thái nghiên cứu
trên phim sọ nghiêng giữa trẻ 14 tuổi so với trẻ
10 tuổi.
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát sự tăng trưởng sọ mặt của trẻ em
Việt Nam từ 10 đến 14 tuổi theo phân tích
Ricketts.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 23
Mục tiêu chuyên biệt
(1) Xác định mẫu tăng trưởng qua so sánh
các số đo sọ mặt theo phân tích Ricketts trên trẻ
em Việt Nam theo giới tính và theo độ tuổi 10,
12 và 14, (2) công bố hình ảnh chồng phim và
kết quả về hướng tăng trưởng của các cấu trúc
sọ mặt theo các vị trí chồng phim của hai giới ở
các độ tuổi 10, 12 và 14.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 39 trẻ (19 nam và 20
nữ) tương ứng với tổng số phim nghiên cứu là
117 phim sọ nghiêng (57 phim của nam và 60
phim của nữ). Các đối tượng nghiên cứu phải có
cha mẹ là người Việt, dân tộc Kinh, tuổi từ 10
đến 14, sức khỏe bình thường, có khớp cắn hạng
I, không có chấn thương hàm mặt, sự bất hài
hòa của mặt, thói quen xấu và không có răng
mọc chen chúc. Mỗi đối tượng nghiên cứu phải
có đủ cả ba phim sọ nghiêng (năm 10, 12 và 14
tuổi) đạt các tiêu chuẩn: chất lượng tốt, thấy rõ
hình ảnh của mô cứng, có đầy đủ răng và mầm
răng trên phim, răng ở tư thế lồng múi tối đa và
môi ở vị trí thư giản tự nhiên.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu dọc thuần túy trên 39 trẻ em từ
10 đến 14 tuổi.
Phương pháp theo dõi dọc, định kỳ mỗi 2
năm lúc 10, 12 và 14 tuổi.
Phương pháp thu thập số liệu
Tất cả phim được chụp bởi một kỹ thuật
viên tại Bộ môn Tia X, Khoa Răng Hàm Mặt,
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Kỹ
thuật chụp phim sọ nghiêng được chuẩn hóa
để có thể so sánh các phim đầu tiên với các
phim kế tiếp của cùng một bệnh nhân với
nhau. Việc vẽ nét theo phương pháp đã được
thống nhất trên thế giới, việc xác định điểm
mốc, mặt phẳng và trục theo phân tích Ricketts
được thực hiện bởi một người duy nhất. Các
đặc điểm được khảo sát trong nghiên cứu:
chiều dài nền sọ trước, chiều dài nền sọ sau về
phía bên, vị trí Porion, mặt phẳng khẩu cái, độ
lồi mặt, góc trục mặt, góc mặt, góc mặt phẳng
hàm dưới, góc mặt phẳng khớp cắn, góc cành
đứng, góc cung hàm dưới, chiều dài cành
ngang xương hàm dưới, cao mặt toàn bộ, cao
mặt dưới, chiều cao mặt phía sau, vị trí của răng
cối lớn hàm trên, độ nhô của răng cửa hàm
dưới, độ nghiêng của răng cửa hàm dưới, độ
nhô của răng cửa hàm trên, độ nghiêng của
răng cửa hàm trên, góc răng cửa.
Đối với các kích thước, dùng thước kẹp điện
tử có độ nhạy 0,01mm. Đối với các số đo góc,
dùng thước đo góc chuyên dụng (Hiệu Ormco
Sybron) trong chỉnh hình răng mặt. Các phim sọ
nghiêng của mỗi đối tượng được chồng phim
theo phương pháp của Ricketts tại điểm Pt theo
mặt phẳng Ba-N.
Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được nhập vào máy tính, lưu giữ
và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Số trung
bình, độ lệch chuẩn của các số đo được tính theo
mỗi độ tuổi và theo giới tính. Kiểm định t-test
cho hai mẫu độc lập được dùng để xác định sự
khác biệt nếu có giữa các đặc tính nghiên cứu
giữa: (1) nam và nữ Việt Nam ở từng thời điểm
10 tuổi, 12 tuổi và 14 tuổi, (2) nam và nữ Việt
Nam với các nhóm trẻ tương ứng của các nghiên
cứu khác ở cùng độ tuổi, (3) nam và nữ Việt
Nam về mức độ thay đổi vị trí của các điểm mốc
khi chồng phim giữa 10 và 12 tuổi, giữa 12 và 14
tuổi. Sự thay đổi các tham số đo lường của trẻ ở
các độ tuổi khác nhau được đánh giá bằng phân
tích ANOVA một yếu tố có lặp lại kết hợp
phương pháp Greenhouse-Geisser, t-test bắt cặp
kết hợp phương pháp Bonferroni trong đo
lường một yếu tố có lặp với p(T)<0,017.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Mức độ tăng trưởng sọ mặt theo tuổi và
theo giới
Chiều dài nền sọ trước (Cc-N) và nền sọ sau
về phía bên đều tăng có ý nghĩa thống kê ở cả
nam và nữ (p<0,017) ở cả ba giai đoạn từ 10 đến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 24
12 tuổi, từ 12 đến 14 tuổi và từ 10 đến 14 tuổi.
Chiều dài nền sọ trước tăng chủ yếu nhờ sự hình
thành xoang trán và sự đắp xương ở mặt ngoài
xương trán, đẩy điểm Nasion về phía trước ra xa
điểm Cc. Nền sọ sau về phía bên (Cp⊥PtV) tăng
tổng cộng 2,97mm ở nam và 3,58mm ở nữ về
chiều dài trong thời gian từ 10 đến 14 tuổi. Do
hoạt động đắp xương ở bờ sau cành đứng,
xương hàm dưới tăng trưởng ra sau mang theo
lồi cầu, làm tăng khoảng cách giữa lồi cầu và
mặt phẳng chân bướm.
Góc trục mặt tăng không có ý nghĩa ở nam
và nữ (p ≥ 0,017) trong thời gian từ 10 đến 14
tuổi, cho thấy mặt tăng trưởng ra trước và
xuống dưới theo một hướng không đổi và duy
trì tương quan ổn định với nền sọ. Tương tự kết
quả nghiên cứu của Valdes (2004) trên trẻ em
Cuba, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về góc trục mặt giữa nhóm 12 và 14 tuổi
(p>0,017) (Bảng 1)(12). Kết quả này khác với kết
quả nghiên cứu của Li và cộng sự (2001), góc
trục mặt có thay đổi theo tuổi và ở nhóm người
trưởng thành 19 tuổi (93,22°) thấp hơn có ý
nghĩa so với góc này ở nhóm trẻ em 12 tuổi
(95,56°) (p<0,017)(12).
Góc mặt tăng có ý nghĩa ở nam, nữ và chung
cho cả hai giới từ 10 đến 14 tuổi (p<0,017) cho
thấy cằm ngày càng nhô ra trước hơn. Theo
Ricketts, góc mặt tăng 0,33° mỗi năm. Khác với
kết quả nghiên cứu của Valdes (2004), góc mặt ở
trẻ em Cuba tăng không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu của Li (2001) trên người
Trung Quốc cũng không phát hiện sự thay đổi
có ý nghĩa của góc mặt từ 12 đến 19 tuổi(29,12).
Bảng 1: Thay đổi trung bình các số đo chiều dài nền sọ và khoảng cách từ khớp thái dương hàm đến mặt phẳng
chân bướm ở trẻ em Việt Nam từ 10 đến 12 và 14 tuổi.
(1) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
(2) Kiểm định t bắt cặp với ngưỡng xác suất có ý nghĩa khi p(T)<0,017 (phương pháp Bonferroni).
Bảng 2: Thay đổi trung bình các số đo góc trục mặt và góc mặt ở trẻ em Việt Nam từ 10 đến 12, và 14 tuổi.
(1) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
(2) Kiểm định t bắt cặp với ngưỡng xác suất có ý nghĩa khi p(T)<0,017 (phương pháp Bonferroni).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 25
Bảng 3: Thay đổi trung bình các số đo ở vùng xương hàm dưới của trẻ em Việt Nam từ 10 đến 12 và 14 tuổi.
(1) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
(2) Kiểm định t bắt cặp với ngưỡng xác suất có ý nghĩa khi p(T)<0,017 (phương pháp Bonferroni).
Góc giữa mặt phẳng hàm dưới và mặt
phẳng Frankfort giảm có ý nghĩa ở nam, nữ và
chung cho cả hai giới (p<0,017) (Bảng 2 và 3).
Hoạt động đắp xương ở bờ dưới xương hàm
dưới diễn ra ở vùng phía sau nhiều hơn phía
trước, nhất là vùng góc hàm góp phần làm giảm
độ nghiêng của mặt phẳng hàm dưới so với mặt
phẳng Frankfort. Kết quả nghiên cứu của
Ricketts trên trẻ người Âu cũng cho kết quả
tương tự, góc mặt phẳng hàm dưới giảm 0,3°
mỗi năm. Khác với kết quả nghiên cứu của
Valdes (2004) và Li (2001), không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về góc mặt phẳng hàm dưới
giữa các nhóm tuổi nghiên cứu ở Cuba và Trung
Quốc(29,12).
Góc cung hàm dưới tăng có ý nghĩa ở nam,
nữ và chung cho cả hai giới (p<0,017). Như vậy,
độ phân kỳ của trục lồi cầu và trục cành ngang
xương hàm dưới giảm, xương hàm dưới càng
“vuông” hơn. Nghiên cứu của Ricketts cũng cho
kết quả tương tự với góc cung hàm dưới tăng
0,5° mỗi năm. Kết quả nghiên cứu của Li ở
Trung Quốc cũng cho thấy góc cung hàm dưới ở
người trưởng thành 19 tuổi (24,95°) lớn hơn có ý
nghĩa so với trẻ 12 tuổi (17,77°) (p<0,05)(12).
Góc giữa mặt phẳng khớp cắn và trục càng
ngang xương hàm dưới (Xi-Pm) tăng ở nam, nữ
và chung cho cả hai giới (p<0,017), chứng tỏ mặt
phẳng khớp cắn tăng độ nghiêng so với nền
xương hàm dưới. Nghiên cứu của Ricketts cũng
cho kết quả tương tự, độ nghiêng của mặt phẳng
khớp cắn tăng có ý nghĩa với 0,5° mỗi năm(24).
Chiều dài cành ngang xương hàm dưới tăng
có ý nghĩa ở nam và ở nữ (p<0,017) từ 10 đến 14
tuổi (Bảng 4), chứng tỏ có sự tiêu xương ở bờ
trước đi kèm với sự đắp xương ở bờ sau cành
đứng làm tăng chiều dài của cành ngang và
cung cấp chỗ trống cho các răng sau mọc. Trong
nghiên cứu của Ricketts, chiều dài này cũng tăng
khoảng 1,6mm mỗi năm.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 26
Bảng 4: Thay đổi trung bình các số đo ở vùng xương hàm trên của trẻ em Việt Nam từ 10 đến 12 và 14 tuổi.
(1) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
(2) Kiểm định t bắt cặp với ngưỡng xác suất có ý nghĩa khi p(T)<0,017 (phương pháp Bonferroni).
Độ lồi mặt thay đổi không có ý nghĩa ở nam,
nữ và chung cho cả hai giới (p>0,017) (Bảng 4),
chứng tỏ xương hàm trên và xương hàm dưới di
chuyển ra trước và xuống dưới cùng mức độ
như nhau và duy trì ổn định tương quan hai
hàm trong giai đoạn từ 10 đến 14 tuổi. Khác với
kết quả nghiên cứu của Ricketts, độ lồi mặt giảm
0,2mm mỗi năm ở trẻ người Âu từ 3 đến 44 tuổi.
Valdes thì ghi nhận độ lồi mặt tăng có ý nghĩa ở
trẻ Cuba từ 12 đến 14 tuổi. Ngược lại, Li nghiên
cứu trên người Trung Quốc thấy độ lồi mặt của
nhóm 12 tuổi lớn hơn có ý nghĩa so với nhóm 19
tuổi(2,3,9,29,12).
Khoảng cách từ mặt xa răng cối lớn thứ nhất
hàm trên đến mặt phẳng chân bướm tăng có ý
nghĩa thống kê (p<0,017) trong thời gian từ 10
đến 14 tuổi (Bảng 4). Điều này cho thấy có sự
đắp xương ở lồi củ, làm xương hàm trên gia
tăng kích thước về chiều dài để cung cấp khoảng
trống cần thiết cho răng cối lớn thứ hai và thứ ba
mọc lên. Nghiên cứu của Valdes (2004) trên trẻ
em Cuba ở độ tuổi 12 và 14 và Li (2001) trên trẻ
em Trung Quốc ở độ tuổi 12 và 19 cũng cho kết
quả tương tự.
Bảng 5: Thay đổi trung bình các số đo chiều cao các tầng mặt ở trẻ em Việt Nam từ 10, đến 12 và 14 tuổi.
(1) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập. (2) Kiểm định t bắt cặp với ngưỡng xác suất có ý nghĩa khi p(T)<0,017 (phương pháp Bonferroni).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 27
Cao mặt toàn bộ và cao mặt dưới thay đổi
không có ý nghĩa ở nam, nữ và chung cho hai
giới (p>0,017) trong thời gian từ 10 đến 12 tuổi,
12 đến 14 tuổi và 10 đến 14 tuổi (Bảng 5). Đánh
giá sự thay đổi chiều cao các tầng mặt không thể
thực hiện qua việc khảo sát riêng rẻ cao mặt toàn
bộ hay cao mặt dưới. Do hai góc này có chung
một cạnh tham chiếu là Xi-Pm, nên tỷ lệ giữa
chúng phản ánh chiều cao của tầng mặt dưới so
với chiều cao toàn mặt. Theo Ricketts, chiều cao
tầng mặt dưới chiếm khoảng 76% chiều cao toàn
bộ mặt và tỷ lệ này được duy trì trong suốt quá
trình tăng trưởng bình thường của mặt. Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ giữa góc tầng mặt dưới và
góc toàn mặt là từ 77-78%, tương đối ổn định
trong thời gian từ 10 đến 14 tuổi. Tỷ lệ này gợi ý
chiều cao tầng mặt dưới ở trẻ em Việt Nam lớn
hơn trẻ em châu Âu(23,24,25).
Răng cửa hàm trên tăng độ nhô có ý nghĩa
từ 10 đến 12 tuổi và từ 10 đến 14 tuổi (p<0,017).
Răng cửa hàm dưới tăng có ý nghĩa về độ
nghiêng trong giai đoạn từ 12 đến 14 tuổi và từ
10 đến 14 tuổi (p<0,017) (Bảng 6). Kết quả của sự
thay đổi độ nhô và độ nghiêng của các răng này
là góc tạo bởi trục của răng cửa trên và dưới
giảm có ý nghĩa thống kê với p<0,017 (Bảng 6).
Bảng 6: Thay đổi trung bình các số đo thể hiện tương quan của răng ở trẻ em Việt Nam từ 10 đến 12, và 14 tuổi.
(1) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập. (2) Kiểm định t bắt cặp với ngưỡng xác suất có ý nghĩa khi p(T)<0,017 (phương pháp Bonferroni).
Ngoài ra, khi so sánh giữa nam và nữ ở từng
độ tuổi, hầu hết các số đo về kích thước của nam
lớn hơn nữ (p<0,05): chiều dài nền sọ trước,
khoảng cách từ khớp thái dương hàm đến mặt
phẳng chân bướm, chiều dài cành ngang xương
hàm dưới. Không có sự khác biệt về hình dạng
của phức hợp sọ-mặt-răng giữa nam và nữ
(p>0,05) ở cả ba độ tuổi: hướng tăng trưởng
chung của mặt ra trước và xuống dưới ở nam và
nữ như nhau; xương hàm trên của nam và nữ có
cùng độ nhô ra trước so với xương hàm dưới;
hình dạng xương hàm dưới ở nam và nữ tương
tự nhau với cùng độ gập và xoay ra trước; các
răng cửa ở nam và nữ có cùng độ nhô, nghiêng
và trồi.
Sự thay đổi do tăng trưởng thể hiện qua
chồng phim
Theo phương pháp chồng phim của Ricketts,
việc chồng phim được thực hiện tại điểm Pt theo
mặt phẳng Ba-N, sao cho các mặt phẳng Ba-N
song song hoặc trùng nhau. Hình ảnh chồng
phim cho thấy khối sọ mặt tăng trưởng theo mọi
hướng và các điểm mốc trên các cấu trúc sọ mặt
thay đổi vị trí theo hướng ngày càng xa điểm Pt.
Càng gần điểm này, sự thay đổi do tăng trưởng
càng ít; càng ra xa điểm trung tâm, sự tăng
trưởng càng nhiều, sự thay đổi càng lớn. Đồng
thời, các