Tác dụng của hít nitrít oxít (NO) trên sự phát triển của phổi chuột sau đẻ

Mở đầu: Hít khí nitrít oxít (NO) trong điều trị bệnh lý ở trẻ sơ sinh và sinh non đã được biết đến từ nhiều năm nay. Tuy nhiên ảnh hưởng của hít NO trên sự phát triển của phổi vẫn chưa được nghiên cứu. Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của hít NO liều thấp và liều cao trên sự phát triển của phổi chuột mới đẻ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chuột con Sprague-Dawley mới đẻ được cho hít NO trong vòng 7 ngày. Phổi chuột được mổ lấy vào ngày thứ 7 và thứ 14 để đo trọng lượng, mật độ mạch máu (biểu hiện của CD34) đếm số lượng và kích thước phế nang. Kết quả: Hít NO không làm thay đổi có ý nghĩa trọng lượng phổi và tỷ lệ trọng lượng phổi/trọng lượng cơ thể. Hít NO liều thấp (5 ppm) và liều cao (20 ppm) đều có tác dụng làm tăng mật độ mạch máu phổi (P<0,05). Tuy nhiên chỉ có hít NO liều cao mới có tác dụng làm tăng sự tạo phế nang. Tác dụng của hít NO mất đi sau khi ngưng sử dụng. Kết luận: Tác dụng của hít NO trên sự phát triển của phổi tùy thuộc vào liều dùng và thời gian dùng. Tuy nhiên, cơ chế tác dụng của hít NO trên sự phát triển phổi rất phức tạp và cần phải được nghiên cứu thêm.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng của hít nitrít oxít (NO) trên sự phát triển của phổi chuột sau đẻ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học 85 mẫu qui mô hơn để rút ra những kết luận thuyết phục hơn. Chân thành cám ơn Ban Giám Đốc và các Bác sĩ, các anh chị Cử nhân, Điều dưỡng khoa Xét nghiệm Ký sinh-Vi nấm, Nhiễm E, Nghiên cứu Sốt rét đã hỗ trợ tạo điều kiện cho nghiên cứu này được thực hiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diamond R. D., and Bennett, J. E. (1974) Prognostic factors in cryptococcal meningitis: a study of 111 cases. Ann. Intern. Med., 80:176 – 181. 2. Kwon – Chung KJ, and Bennett JE (1984). Epidemiologic differences between the two varieties of C. neoformans. Am. J. Epidemiol. 120:123 – 130. 3. Lê Hà Vân Anh. (1986) Tổng luận về Cryptococcosis nhân 3 trường hợp VMN do Cr. neoformans tại bệnh viện Chợ Quán TPHCM. Luận văn Tốt nghiệp Phó Trợ Lý, khóa 1982 – 1985, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 4. Lê Minh (1995). VNMN do C. neoformans. Đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị qua khảo sát hồi cứu 12 trường hợp tại TPHCM. Luận văn chuyên khoa cấp II chuyên ngành thần kinh. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 5. Mitchell DH, Sorrell TC, Allworth AM, Health CH, McGregor AR, Papahaoum K, M. J. Richards and T. Gottlieb (1995). Cryptococcal disease of the CNS in immunocompetent hosts: influence of cryptococcal variety on clinical manifestations and outcome. Clin. Infect. Dis. 20:611 – 616. 6. Nguyễn Quang Trung (2005). VMN nấm C. neoformans ở bệnh nhân AIDS tại bệnh viện Nhiệt Đới 2004. Luận Văn tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 7. Nguyễn Trần Chính, Nguyễn Hữu Chí, Võ Minh Quang & cs. (2004). Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng nhiễm HIV/AIDS tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới năm 2003. Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TPHCM. Báo cáo tổng kết về tình hình nhiễm trùng cơ hội trên bệnh nhân HIV/AIDS tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TPHCM năm 2003. 8. Nhữ Thị Hoa (2002). Phân bố Cr. neoformans var. neoformans và Cr. neoformans var. gattii trên 35 bệnh nhân điều trị tại TP.HCM 1996-1997. Tuyển tập Công trình Khoa học Chuyên đề Ký Sinh Trùng., trường Đại Học Y Hà Nội, tập 1, tr. 80 – 84. 9. Powerly WG. (1993). Cryptococcal meningitis and AIDS Clinical Infectious Diseases. 17:837 – 842. 10. Speed B., and Dunt D. (1995). Clinical and host differences between infections with the two varieties of Cryptococcus neoformans. Clin. Infect. Dis. 21:28 – 34. 11. Swinne D, Nkurikiyinfura JB, and Muyembe TL (1986). Clinical isolates of C. neoformans from Zaire. Eur. J. Clin. Microbiol. 5:50 – 51. TÁC DỤNG CỦA HÍT NITRÍT OXÍT (NO) TRÊN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHỔI CHUỘT SAU ĐẺ Dương Qúy Sỹ*,** TÓM TẮT Mở đầu: Hít khí nitrít oxít (NO) trong điều trị bệnh lý ở trẻ sơ sinh và sinh non đã được biết đến từ nhiều năm nay. Tuy nhiên ảnh hưởng của hít NO trên sự phát triển của phổi vẫn chưa được nghiên cứu. Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của hít NO liều thấp và liều cao trên sự phát triển của phổi chuột mới đẻ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chuột con Sprague-Dawley mới đẻ được cho hít NO trong vòng 7 ngày. Phổi chuột được mổ lấy vào ngày thứ 7 và thứ 14 để đo trọng lượng, mật độ mạch máu (biểu hiện của CD34) đếm số lượng và kích thước phế nang. Kết quả: Hít NO không làm thay đổi có ý nghĩa trọng lượng phổi và tỷ lệ trọng lượng phổi/trọng lượng cơ thể. Hít NO liều thấp (5 ppm) và liều cao (20 ppm) đều có tác dụng làm tăng mật độ mạch máu phổi (P<0,05). Tuy nhiên chỉ có hít NO liều cao mới có tác dụng làm tăng sự tạo phế nang. Tác dụng của hít NO mất đi sau khi ngưng sử dụng. Kết luận: Tác dụng của hít NO trên sự phát triển của phổi tùy thuộc vào liều dùng và thời gian dùng. Tuy nhiên, cơ chế tác dụng của hít NO trên sự phát triển phổi rất phức tạp và cần phải được nghiên cứu thêm. Từ khóa: NO, hít NO, CD34, tạo mạch máu, tạo phế nang * Trung tâm nghiên cứu Bệnh lý Hô hấp-UPRES 2511 - Đại học Paris Descartes.– CH Pháp ** Trường Cao Đẳng Y tế Lâm Đồng. Tác giả liên lạc: TS.BS Dương Quý Sỹ ĐT: 0918.413813 Email: sduongquy.jfvp@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 86 ABSTRACT EFFECT OF INHALED NITRIC OXIDE (NO) ON POSTNATAL LUNG GROWTH IN NEWBORN RATS Duong-Quy Sy * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No.2 – 2012: 85 - 91 Introduction: Inhaled nitric oxide (NO) has been used since many years in the treatment of pathologies of newborns and premature-newborns. Objective: Evaluate the effect of inhaled NO with low and high doses on lung growth of newborn rats. Material and methods: Inhaled NO had been introduced to newborn Sprague-Dawley rats after birth during 7 days. Rat lungs had been taken at day 7th and 14th to measure its weights, vascular densities (expression of CD34), and radial alveolar counts and mean linear intercepts. Results: Lung weights and lung weights/body weights ratios have not been changed in newborn rats with inhaled NO. Inhaled NO with low (5 ppm) and high (20 ppm) doses increased pulmonary vascular densities (P<0.05). Inhaled NO with high dose also increased the alveolarization. The effect of inhaled NO has been abolished after inhaled NO withdrawal. Conclusion: The effect of inhaled NO on lung growth has been depended on the dose and exposure time of NO. However, the mechanism by which inhaled NO having the effect on lung growth is still complex and needed further studies to elucidate. Key-words: NO, inhaled NO, CD34, vascularization, alveolarization ĐẶT VẤN ĐỀ Việc sử dụng chất khí nitrít oxít (NO) trong điều trị bệnh lý sau sanh ở trẻ nhủ nhi đã được thực hiện gần 20 năm nay. Ban đầu, NO được dùng trong điều trị tăng áp động mạch phổi ở trẻ sơ sinh(8). Những nghiên cứu gần đây cho thấy hít NO có hiệu quả trong điều trị nhiều bệnh lý khác nhau ỏ trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở trẻ sinh non. Thật vậy, dùng chất NO bằng đường hít có thể làm giảm đáng kể nguy cơ xuất hiện bệnh lý hô hấp liên quan đến sự chưa trưởng thành của phổi trong quá trình phát triển của trẻ sơ sinh như là bệnh loạn sản phế quản - phổi. Trong các nghiên cứu in vivo về mô hình loạn sản phế quản - phổi, hít NO có tác dụng trực tiếp trên sự phát triển của phổi ngay từ những ngày đầu sau sanh, khi mà sự tạo thành phế nang vẫn chưa kết thúc(9). Sự tham gia NO vào giai đoạn này liên quan đến một số cơ chế sinh học phân tử, đặc biệt là sự tương tác giữa NO và các yếu tố tăng trưởng. Ở người, hệ thống tín hiệu VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor: yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu) và eNOS (endothelial Nitric Oxide Synthase: men sản xuất NO phụ thuộc tế bào nội mô) có vai trò quan trọng trong sự hình thành mạch máu và sự tạo phế nang trong qúa trình phát triển của phổi bình thường và bệnh lý. Tuy nhiên ngoài những tác dụng có lợi của việc hít NO trong điều trị những bệnh lý hô hấp ở trẻ sơ sinh, một số nghiên cứu cho rằng hít NO có thể sẽ gây ra những tổn thương ở phổi do bởi sự tạo ra các gốc oxít hóa có tác dụng ức chế hoạt tính của chất surfactant hoặc gây ra các phản ứng viêm. Do vậy sự lo ngại liên quan đến liều dùng và hiệu quả của hít NO trong điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ sơ sinh luôn là mối quan tâm của các bác sĩ lâm sàng. Ở trẻ sơ sinh, liều hít NO trong điều trị là từ 5 – 80 ppm (parts per million: phần triệu phân tử)(7). Liều ban đầu thường là tùy theo kinh nghiệm (liều thấp hoặc liều cao) nhằm đạt được tác dụng điều trị và sau đó điều chỉnh liều tùy theo diễn tiến lâm sàng. Trong quá trình phát triển của phổi, tác dụng của việc hít NO với liều dùng khác nhau ở trẻ sơ sinh vẫn chưa được xác định. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm đánh giá tác dụng của việc hít NO trên sự phát triển của phổi ở Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học 87 loài chuột mới đẻ ra với liều hít NO thấp (5 ppm) và cao (20 ppm). Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá tác dụng của hít NO liều thấp và liều cao trên sự phát triển của phổi chuột mới đẻ thông qua: 1) Sự thay đổi trọng lượng phổi theo trọng lượng cơ thể; 2) Sự hình thành mạch máu đánh giá bởi đo mật độ mạch máu phổi; 3) Sự tạo phế nang đánh giá qua đếm số lượng và đường kính phế nang. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Loài chuột Sprague-Dawley đang mang thai được nuôi dưỡng theo quy định chuẩn động vật nghiên cứu. Điều kiện nhiệt độ duy trì ở 24°C với chu kỳ ngày đêm là 24 giờ và chuột nuôi có khả năng tự do tiếp cận nguồn thức ăn và nước uống. Nguồn khí NO trong môi trường nuôi được duy trì nhờ vào máy (BioSpherix, Redfield, IL, USA) gồm một nguồn cung cấp NO với lưu lượng thay đổi và một buồng kín có bộ phận giúp theo dõi được thành phần các khí (N2, O2, NO, CO2). Chuột mẹ mang thai được chia làm 3 nhóm: nhóm chứng, nhóm hít NO liều thấp (5 ppb), nhóm hít NO liều cao (20 ppm). Chúng được nuôi dưỡng trong điều kiện như nhau cho đến ngày đẻ con và việc hít NO được bắt đầu vào thời gian chuột chuẩn bị đẻ nhằm đảm bảo cho chuột con vừa được sanh ra đã hít ngay NO. Chuột con sinh ra được nuôi dưỡng bởi chuột mẹ trong cùng điều kiện môi trường trong vòng 7 ngày, 14 ngày và chỉ được hít NO trong vòng 7 ngày đầu sau đẻ ra. Nghiên cứu được thực hiện với sự cho phép của Hội đồng đạo đức Viện Nghiên cứu Quốc gia về Sức khỏe và Nghiên cứu Y học Pháp. Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Bệnh lý Hô hấp - UPRES2511- Đại học Paris Descartes. Phương pháp nghiên cứu Phổi chuột con của các nhóm nghiên cứu được mổ lấy vào ngày thứ 7 và ngày thứ 14 và được giữ trong dung dịch para-formaldéhyde 4% trong vòng 48 giờ trước khi đóng khối vào paraffin. Mẫu mô phổi sau đó được cắt theo những lát mỏng 5 µm và được cố định trên tiêu bản (SuperFrost Ultra Plus®, Braunschweig, Đức) để thực hiện việc nghiên cứu về hình thể học. Nghiên cứu về mật độ mạch máu Sự hình thành mạch máu ở chuột sơ sinh được đánh giá qua sự tạo thành những mạch máu mới nhờ vào việc sử dụng chất chỉ điểm cho tiền thân của tế bào nội mô (CD34). Chất chỉ điểm hoá miễn dịch đặc hiệu của protêin này cho phép đếm các mạch máu mới hình thành nhằm so sánh mật độ mạch máu giữa các nhóm chuột nghiên cứu. Tiêu bản mô phổi được khử parraffin trong dung dịch xylen và ethanol với nồng độ giảm dần (100%, 95%, 80% và 50%). Để làm lộ rõ kháng nguyên đặc hiệu, tiêu bản mô phổi sau đó được đun nóng (750 watt) trong dung dịch citrat với pH = 6 trong vòng 5 phút; sau đó làm lạnh trong vòng 20 phút. Mô phổi được ủ với kháng thể đơn dòng kháng CD34 của chuột (sc- 52478, Santa Cruz, Issy-les-Moulineaux, Pháp) với độ pha loãng là 1/100 trong vòng 30 phút ở nhiệt độ phòng. Kháng thể hóa miễn dịch được phát hiện nhờ vào bộ nhuộm màu ABC (Avidin- Biotin Chromogen, sc-2019, Santa Cruz, Issy-les- Moulineaux, Pháp) sau khi đã được ủ với kháng thể thứ cấp. Sau khi các kháng thể đặc hiệu nhuộm màu (màu nâu; Hình 1), mẫu mô được nhuộm đối kháng với Hematoxylin và sau đó được làm khô bằng dung dịch alcool và xylen trước khi được cố định với lamelle. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 88 Hình 1. Các mạch máu nhỏ nhuộm hoá miễn dịch dương tính vói CD34 (x10). Nghiên cứu về sự tạo phế nang Sự phế nang hóa được đánh giá nhờ vào nhuộm tiêu bản mô phổi với Hematoxylin – Eosin và sau đó đếm số lượng phế nang trung bình từ các tiểu phế quản tận và đường kính trung bình của phế nang trên các hình ảnh tiêu bản mô chụp qua camera kính hiển vi và lưu lại trên máy tính. * Đếm số lượng phế nang từ phế quản tận được thực hiện theo phương pháp được mô tả bởi Emery và Mital(3). Kỹ thuật đếm được thực hiện bằng cách kẻ một đường thẳng từ trung tâm của tiểu phế quản tận vuông góc với màng phổi tạng trên mô phổi ở vị trí gần nhất. Sau đó đếm số phế nang được cắt ngang trên đường thẳng này (Hình 2). Trung bình khoảng 10 đường thằng như vậy được thực hiện để đếm số phế nang trung bình trên một tiêu bản. * Đo kích thước trung bình của phế nang được thực hiện theo phương pháp mô tả bởi Dunnil(2). Dựa trên hình ảnh ghi nhận được vi tính hoá, một bản giấy trong gồm những đường kẻ ngang và dọc có chiều dài cho sẵn được đặt chồng lên hình ảnh mô phổi thu được và số phế nang trên các đường thẳng này được đếm. Kích thước trung bình của phế nang là thương số giữa chiều dài các đường kẻ và số phế nang đếm được trên đường kẻ đó (Hình 3). Hình ảnh các phế quản, các tiểu phế quản lớn hoặc mạch máu nằm trên những đường kẻ sẽ bị loại ra. Trung bình mỗi mô phổi sẽ có 10 hình ảnh được chọn. Hình 2. Phương pháp đếm số lượng phế nang bắt nguồn từ trung tâm tiểu phế quản tận (x10) Hình 3. Phương pháp đo kích thước trung bình của phế nang (x10) Phân tích thống kê Phân tích thống kê được thực hiện nhờ vào phần mềm SPSS, phiên bản 16.0. Các thông số định lượng được biểu diễn dưới dạng: trung bình ± độ lệch. So sánh thống kê được thực hiện nhờ vào phép kiểm t-Student. Giá trị P < 0,05 được xem như có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Phân nhóm chuột nghiên cứu Tổng cộng có 30 chuột mới đẻ được chọn vào nghiên cứu và chia làm 6 nhóm; mỗi nhóm có 5 chuột con được chọn ngẫu nhiên: Nhóm 1: nhóm chứng; Nhóm 2: chuột hít NO với liều 5 ppm; Nhóm 3: chuột hít NO với liều 20 ppm. Mô phổi của nhóm 1, 2 và 3 được nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học 89 vào ngày thứ 7. Nhóm 4, 5 và 6 tương ứng với nhóm chứng, nhóm hít NO với liều 5 ppm và 20 ppm, mô phổi được nghiên cứu vào ngày thứ 14. Đặc điểm trọng lượng các nhóm chuột nghiên cứu Trọng lượng chuột và tỷ lệ trọng lượng phổi/trọng lượng chuột được trình bày ở Bảng 1. Trọng lượng chuột tăng nhẹ ở nhóm hít NO nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ trọng lượng phổi/trọng lượng chuột thì như nhau giữa các nhóm. Bảng 1. So sánh trọng lượng cơ thể và tỷ lệ trọng lượng phổi/cơ thể chuột nghiên cứu Trọng lượng chuột (gram) Tỷ lệ Phổi/Cơ thể P (so với chứng) Nhóm chứng 15,9 ± 0,3 0,019 ± 0,001 Hít NO – 5 ppm 16,4 ± 0,2 0,019 ± 0,001 > 0,05 Chuột 7 ngày Hít NO – 20 ppm 16,9 ± 0,5 0,020 ± 0,003 > 0,05 Nhóm chứng 34,9 ± 1,4 0,014 ± 0,001 Hít NO – 5 ppm 34,6 ± 2,2 0,014 ± 0,002 > 0,05 Chuột 14 ngày Hít NO – 20 ppm 37,2 ± 2,5 0,014 ± 0,001 > 0,05 Đo mật độ mạch máu phổi Mạch máu được nhận diện và đếm là những cấu trúc mạch máu có lòng mạch rỏ ràng có chứa hồng cầu hoặc không và có biểu hiện bắt màu nhuộm CD34 (màu nâu). Mật độ mạch máu được thể hiện bởi số lượng mạch máu trung bình quan sát được trên 1mm2 của mô phổi. Kết quả so sánh mật độ mạch máu phổi giữa các nhóm ở ngày thứ 7 và thứ 14 được trình bày tại Bảng 2. Mật độ mạch máu phổi tăng có ý nghĩa ở các nhóm chuột hít NO vào ngày thứ 7 so với nhóm chứng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 3 nhóm ở ngày thứ 14. Bảng 2. Đánh giá mật độ mạch máu qua biểu hiện của CD34 Mật độ mạch máu (số mạch máu/mm²) P (so với chứng) Nhóm chứng 10,0 ± 4,3 Hít NO – 5 ppm 13,2 ± 5,4 < 0,01 Chuột 7 ngày Hít NO – 20 ppm 13,7 ± 5,7 < 0,01 Nhóm chứng 15,2 ± 5,6 Hít NO – 5 ppm 15,2 ± 6,7 > 0,05 Chuột 14 ngày Hít NO – 20 ppm 14,7 ± 7,1 > 0,05 Đánh giá sự phế nang hóa Sự gia tăng khả năng tạo phế nang trong qúa trình phát triển của phổi được khẳng định khi co sự gia tăng số lượng phế nang và giảm kích thước phế nang. Số lượng phế nang trung bình đo được tính từ trung tâm tiểu phế quản tận ra đến ngoại vi gần nhất. Kết quả cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa số lượng phế nang trên nhóm chuột hít NO với liều 20 ppm so với nhóm chứng vào ngày thứ 7. Không có sự khác biệt giữa nhóm chuột hít NO với liều 5 ppm so với nhóm chứng (Bảng 3). Ở ngày thứ 14, không có sự khác biệt giữa 3 nhóm về số phế nang trung bình đo được (Bảng 3). * Kích thước trung bình của phế nang: Kết quả cho thấy kích thước phế nang nhỏ hơn ở nhóm chuột hít NO với liều 20 ppm so với nhóm chứng ở ngày thứ 7 và thứ 14. Ngoài ra không có sự khác biệt giữa nhóm hít NO với liều 5 ppm so với nhóm chứng ở ngày thứ 7 và thứ 14 (Bảng 3). Bảng 3. Đánh giá sự tạo phế nang qua đếm số phế nang ngoại vi và kích thước trung bình phế nang RAC MLI (µm) Nhóm chứng 3,7 ± 0,9 60,4 ± 5,1 Hít NO – 5 ppm 3,8 ± 0,7 58,8 ± 3,6 Chuột 7 ngày Hít NO – 20 ppm 4,4 ± 0,9* 54,9 ± 4,1** Nhóm chứng 5,5 ± 1,2 54,7 ± 4,0 Hít NO – 5 ppm 5,4 ± 1,3 53,6 ± 4,2 Chuột 14 ngày Hít NO – 20 ppm 6,0 ± 1,2 50,2 ± 3,1 P (so với nhóm chứng) (*): < 0,05 (**): < 0,001 BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: 1) Hít NO với liều thấp (5 ppm) và liều cao (20 ppm) trong Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 90 vòng 7 ngày không làm thay đổi trọng lượng phổi và trọng lượng cơ thể của chuột mới đẻ; 2) Hít NO (5 ppm và 20 ppm) làm tăng một cách có ý nghĩa mật độ mạch máu phổi ở chuột 7 ngày tuổi; 3) Hít NO với liều cao (20 ppm) làm tăng một cách có ý nghĩa quá trình tạo phế nang vào ngày thứ 7; 4) Tác dụng của hít NO trên sự hình thành mạch máu và sự tạo phế nang xảy ra ở giai đoạn sớm (tuần đầu sau sanh) và mất đi sau khi ngưng hít NO. Tương tự như các nghiên cứu trước đây, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng với liều điều trị (5 – 20 ppm), hít NO không có tác dụng trên sự thay đổi trọng lượng của phổi và đặc biệt là trọng lượng cơ thể (Bảng 1). Kết quả này cho thấy hít NO không có tác dụng gây phản ứng viêm làm thay đổi tính thấm của mạch máu và gây ra tình trạng phù phổi do tổn thương với hậu quả là làm tăng trọng lượng phổi. Dù rằng trọng lượng phổi không thay đổi giữa các nhóm chuột nghiên cứu, việc đánh giá mật độ mạch máu phổi bằng chất đánh dấu CD34 đã cho thấy có sự gia tăng có ý nghĩa về số lượng các vi mạch máu ở chuột con hít NO với các liều khác nhau (Bảng 2). Tuy nhiên tác dụng này chỉ tồn tại trong khi hít NO (ngày thứ 7) và mất đi sau khi ngưng hít NO (ngày thứ 14). Điều rất thú vị là ở ngày thứ 14, mật độ mạch máu thì như nhau giữa 3 nhóm chuột nghiên cứu. Sự gia tăng mật độ mạch máu dưới tác dụng của việc hít NO đã dược chứng minh bởi nhiều nghiên cứu trước đó (4, 5). Thật vậy, trong qúa trình phát triển của phổi, chất NO nội sinh có nguồn gốc từ tế bào nội mô hoặc biểu mô, cũng như là NO ngoại sinh (hít NO) có vai trò quan trọng trong sự hình thành mạch máu phổi. Kết quả các nghiên cứu in vivo cho thấy rằng sự hình thành mạch máu giảm đi rất mạnh ở chuột bị làm mất men NOS phụ thuộc tế bào nội mô (eNOS: endothelial nitride oxide synthase) có tác dụng sản xuất ra NO vào giai đoạn bào thai và cũng như sau khi sanh. Ở người, vai trò của NO trong sự hình thành mạch máu chịu sự kiểm soát của chất VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor: yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu) thông qua thụ thể VEGF-2 (flk-1). Tuy nhiên cơ chế kiểm soát sự hình thành mạch máu trong qúa trình phát triển của phổi thì rất phức tạp với sự tham gia của rất nhiều hệ thống tín hiệu khác nhau như là PDGF (Platelet Derived Growth Factor: yếu tố tăng trưởng từ tiểu cầu), EGF (Epithelial Growth Factor: yếu tố tăng trưởng biểu mô) và nhiều yếu tố tạo máu khác (9). Cơ chế sinh học phân tử tham gia vào qúa trình hình thành các mạch máu tân tạo dưới tác dụng của hít NO là chủ đề của một nghiên cứu khác sẽ được thực hiện. Trong qúa trình phát triển của phổi sau sanh, sự gia tăng qúa trình hình thành mạch máu là nguồn gốc của sự gia tăng việc tạo phế nang để đảm bảo qúa trình trao đổi khí (9). Trong nghiên cứu này, sự tạo phế nang được đánh giá bằng phương pháp chuẩn được mô tả bởi Emery và Dunnill, có cải biên bởi Cooney và Thurlbeck (1), dựa trên việc đếm số lượng phế nang và kích thước trung bình của phế nang. Sự gia tăng qúa trình phế nang hoá được đặc trưng bởi sự gia tăng số lượng phế nang đ
Tài liệu liên quan