Tần suất rối loạn cương ở những bệnh nhân nam bị bướu lành tuyến tiền liệt trước khi cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo

Đặt vấn đề và mục tiêu: Rối loạn cương (RLC) ngày càng được phát hiện nhiều hơn đặc biệt ở nam giới lớn tuổi. Bên cạnh đó, bướu lành tuyến tiền liệt (TTL) cũng là một bệnh rất phổ biến trên các đối tượng này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối tương quan của hai bệnh trên. Công trình nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác định tần suất RLC ở những bệnh nhân nam bị bướu lành TTL trước khi cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo. Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012 tại khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh nhân nam bị bướu lành TTL có chỉ định cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo. Trước khi phẫu thuật, chúng tôi tiến hành thăm khám tổng quát, thăm khám trực tràng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác để đánh giá yếu tố nguy cơ của RLC như bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, suy thận, tăng huyết áp Đặc biệt, chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi IPSS và IIEF‐15 để đánh giá về triệu chứng đường tiết niệu dưới cũng như chức năng cương của bệnh nhân. Từ đó chúng tôi rút ra kết luận về mối liên quan giữa RLC và bướu lành TTL cũng như các yếu tố nguy cơ khác. Kết quả: Nghiên cứu trên 358 bệnh nhân bị bướu lành TTL, tuổi trung bình là 74,8. Tần suất RLC là 93,4%, trong đó RLC nhẹ là 22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 33,3%. Theo thang điểm đánh giá IPSS thì mức độ rối loạn trong IPSS tỉ lệ thuận với mức độ RLC. Ngoài ra, các yếu tố khác như bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, suy thận cũng có liên quan đáng kể đến RLC. Kết luận: Bướu lành TTL và RLC có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ rối loạn của thang điểm IPSS càng cao thì mức độ RLC càng cao. Bên cạnh đó, các bệnh kèm theo cũng góp phần làm tăng tần suất của bệnh RLC.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tần suất rối loạn cương ở những bệnh nhân nam bị bướu lành tuyến tiền liệt trước khi cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  345 TẦN SUẤT RỐI LOẠN CƯƠNG Ở NHỮNG BỆNH NHÂN NAM BỊ BƯỚU LÀNH  TUYẾN TIỀN LIỆT TRƯỚC KHI CẮT ĐỐT NỘI SOI TUYẾN TIỀN LIỆT  QUA NGàNIỆU ĐẠO  Cao Hữu Triều Giang*, Đàm Văn Cương**, Vũ Hồng Thịnh***  TÓM TẮT  Đặt vấn đề và mục tiêu: Rối loạn cương (RLC) ngày càng được phát hiện nhiều hơn đặc biệt ở nam giới  lớn tuổi. Bên cạnh đó, bướu lành tuyến tiền liệt (TTL) cũng là một bệnh rất phổ biến trên các đối tượng này. Đã  có nhiều công trình nghiên cứu về mối tương quan của hai bệnh trên. Công trình nghiên cứu của chúng tôi  nhằm xác định tần suất RLC ở những bệnh nhân nam bị bướu lành TTL trước khi cắt đốt nội soi TTL qua ngã  niệu đạo.  Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012 tại khoa Ngoại Tiết  Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh nhân nam bị bướu lành TTL có chỉ định cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu  đạo. Trước khi phẫu thuật, chúng tôi tiến hành thăm khám tổng quát, thăm khám trực tràng và các xét nghiệm  cận lâm sàng khác để đánh giá yếu tố nguy cơ của RLC như bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, suy thận, tăng  huyết ápĐặc biệt, chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi IPSS và IIEF‐15 để đánh giá về triệu chứng đường tiết niệu  dưới cũng như chức năng cương của bệnh nhân. Từ đó chúng tôi rút ra kết luận về mối liên quan giữa RLC và  bướu lành TTL cũng như các yếu tố nguy cơ khác.  Kết quả: Nghiên cứu trên 358 bệnh nhân bị bướu  lành TTL, tuổi trung bình  là 74,8. Tần suất RLC  là  93,4%, trong đó RLC nhẹ là 22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 33,3%. Theo thang điểm đánh  giá IPSS thì mức độ rối loạn trong IPSS tỉ lệ thuận với mức độ RLC. Ngoài ra, các yếu tố khác như bệnh tiểu  đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, suy thậncũng có liên quan đáng kể đến RLC.  Kết luận: Bướu lành TTL và RLC có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ rối loạn của thang điểm IPSS  càng cao thì mức độ RLC càng cao. Bên cạnh đó, các bệnh kèm theo cũng góp phần làm tăng tần suất của bệnh  RLC.  Từ khóa: Bướu  lành  tuyến  tiền  liệt, rối  loạn cương,  thang điểm  IPSS,  thang điểm  IIEF, cắt đốt nội soi  tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo.  ABSTRACT  THE INCIDENCE OF ERECTILE DYSFUNCTION IN PATIENTS WITH BENIGN PROSTATIC  HYPERPLASIA BEFORE TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE  Cao Huu Trieu Giang, Dam Van Cuong, Vu Hong Thinh   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 345 ‐ 350  Introduction and objective: To determine the incidence of erectile dysfunction, urinary symptoms and risk  factors  in  patients  with  benign  prostatic  hyperplasia  (BPH)  before  Transurethral  Resection  of  the  Prostate  (TURP), using the International Index of Erectile Function (IIEF‐15) and the International Prostate Symptom  Score (IPSS) questionnaires.  Patients and methods: Between September 2009 and December 2012, 258 BPH patients in Department of  Urology  in  Cho  Ray  hospital  underwent  total  examination,  digial  rectal  examination.  In  addition,  urinary  symptoms and erectile function were evaluated by IPSS and IIEF‐15 questionnaires before TURP. These patients  * Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ  ** Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ  *** Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM  Tác giả liên lạc: BS Cao Hữu Triều Giang   ĐT:0989237073     Email: trieugiang75@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  346 were also  identified potential risk  factors  for erectile dysfunction (ED) such as coronary heart disease, diabetes  mellitus, renal failure, hypertension  Result: The analysis included 258 BPH men with mean age of 74.8 years. The incidence of ED was 93.4%.  Of the patients, 22.9% had mild ED, 37.2% had moderate ED and 33.3% had severe ED. Logistic regression  analysis showed  that greater age, hypertension, diabetes mellitus, renal  failure were  significantly associated  with ED.  Conclusion: BPH is associated with ED. The results of this study highlight the importance of assessing the  sexual health of men presenting with BPH.  Keywords:  Benign  Prostatic Hyperplasia,  Erectile  dysfunction,  International  Prostate  Symptom  Score,  Transurethral Resection of the Prostate, International Index of Erectile Function.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Triệu  chứng  đường  tiết  niệu  dưới  (LUTS)  đặc biệt do nguyên nhân bướu  lành  tuyến  tiền  liệt  (TTL) có  liên quan mật  thiết với chức năng  cương  ở  những  bệnh  nhân  (BN)  lớn  tuổi  (12).  LUST và rối loạn cương đều ảnh hưởng nặng nề  đến chất lượng sống của nam giới cũng như gia  đình của họ(8,11).  Cắt  đốt  nội  soi  TTL  qua  ngã  niệu  đạo  (TURP)  đến  nay  vẫn  là  phẫu  thuật  được  lựa  chọn hàng đầu cho những BN có chỉ định phẫu  thuật vì tính hiệu quả, tính an toàn cũng như chi  phí điều trị của nó (9,17).  Đa số các BN bị bướu lành TTL thường lớn  tuổi, nhiều bệnh kết hợp, chất  lượng cuộc sống  giảm và chức năng cương bị rối loạn ở các mức  độ khác nhau(9).  Trong  bài  báo  này,  chúng  tôi  tập  trung  nghiên  cứu  về  tần  suất  rối  loạn  cương  (RLC)  trên những BN nam bị bướu lành TTL trước khi  được CĐNS TTL qua ngã niệu đạo.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Là  tất cả BN nam bị bướu  lành TTL có chỉ  định CĐNS qua ngã niệu đạo.  Loại  trừ: Những  BN  bị  ung  thư  TTL,  BN  chống chỉ định CĐNS và những BN không đồng  ý tham gia nghiên cứu.  Phương pháp  Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang.  BN nằm  trong nhóm đối  tượng nghiên cứu  sẽ  được  đánh  giá  trước  phẫu  thuật  bằng  các  bảng IPSS, IIEF‐15, các bệnh kèm theo cũng như  thuốc đã sử dụng trước khi phẫu thuật.  Phân loại BN dựa theo các mức độ nhẹ, vừa,  nặng  của  bảng  IPSS  và  IIEF‐15.  Cụ  thể:  bảng  IPSS  có  7  câu  hỏi, mỗi  câu  hỏi  thấp  nhất  là  0  điểm, nhiều nhất là 5 điểm. Tổng số điểm dưới 8  điểm là rối loạn nhẹ, 8‐19 điểm là rối loạn trung  bình,  từ 20 điểm  trở  lên  là rối  loạn nặng. Bảng  IIEF‐15 gồm có 15 câu hỏi. Mỗi câu hỏi có điểm  từ  0‐5.  Tổng  số  điểm  từ  20  trở  xuống  là RLC  nặng, 21‐30 là RLC trung bình, 31‐59 là RLC nhẹ  và từ 60 trở lên là không RLC.  Đánh giá mối tương quan giữa IPSS, IIEF‐15,  thuốc sử dụng cũng như các bệnh kèm theo.  Phần mềm  thống  kê  được  sử  dụng:  SPSS  16.0.  KẾT QUẢ  Từ  tháng 9/2009 đến  tháng 12/2012, ở khoa  Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh  nhân nam bị bướu  lành TTL  có  chỉ  định phẫu  thuật CĐNS TTL qua ngã niệu  đạo và  đồng ý  tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân này được  chúng tiến hành phỏng vấn đánh giá theo thang  điểm IPSS và IIEF‐15 cũng như các thăm khám  lâm sàng và cận lâm sàng khác. Kết quả là:  Tuổi bệnh nhân  Tổng số BN: 258.  Tuổi nhỏ nhất: 55.  Tuổi lớn nhất: 95.  Tuổi trung bình: 74,8.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  347 Tuổi trên 80: 67 BN (26%).  Tuổi từ 71‐ 80: 102 BN (40%).  Tuổi từ 61‐70: 70 BN (27%).  Tuổi từ 60 trở xuống: 19 BN (7%).  Biểu đồ 1. Số lượng bệnh nhân.  Rối  loạn cương  (đánh giá  theo bảng  IIEF‐ 15)  Tổng  số  BN  bị  RLC:  241/258  BN  chiếm  93,4%.  Không bị RLC: 17 BN chiếm 6,6%.  RLC nhẹ: 59 BN chiếm 22,9%.  RLC trung bình: 96 BN chiếm 37,2%.  RLC nặng: 86 BN chiếm 33,3%.  Biểu đồ 2. Tỉ lệ các mứa độ RLC theo IIEF‐15.  Đánh giá theo thang điểm IPSS  Rối loạn nhẹ: 37 BN chiếm 14,3%.  Rối loạn TB: 96 BN chiếm 37,2%.  Rối loạn nặng: 125 BN chiếm 48,5%.  Biểu đồ 3. Tỉ lệ các mứa độ RL đi tiểu theo IPSS.  Bệnh kèm theo  Trong 258 BN bị bướu lành TTL có chỉ định  CĐNS TTL qua ngã niệu đạo thì 219 BN có bệnh  khác kèm  theo chiếm 85%. Cụ  thể  là: Bệnh  tim  mạch:  62  BN  (24%),  bệnh  tiểu  đường:  96  BN  (37,2%), tăng huyết áp: 74 BN (28,7%), suy thận:  27  BN  (10,5%),  bệnh  tiết  niệu  khác:  57  BN  (22,1%), các bệnh khác: 35 BN (13,6%).  Biểu đồ 4. Các bệnh kèm theo  Thuốc đã sử dụng  57 BN sử dụng thuốc tim mạch.  73 BN sử dụng thuốc điều trị tiểu đường.  122 BN sử dụng thuốc ức chế α.  34 BN sử dụng thuốc ức chế 5α‐reductase.  54 BN sử dụng Tadenan.  Bảng 1. Liên quan giữa mức độ RLC và tuổi.  P<0,05 RLC Nhẹ (59) TB (96) Nặng (86) Tuổi <= 60 (10) 5 (8,5%) 3 (3,1%) 2 (2,3%) 61- 70 (64) 20 (33,9%) 34 (35,4%) 10 (11,6%) 71- 80 (100) 32 (54,2%) 49 (51%) 19 (22,1%) >80 (67) 2 (3,4%) 10 (10,5%) 55 (64%) Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  348 Bảng 2. Liên quan giữa mức độ RLC và thang điểm  IPSS.  P<0,05 IPSS Nhẹ TB Nặng RLC Nhẹ (59) 12 (20,3%) 16 (27,2%) 31 (52,5%) TB (96) 16 (16,7%) 28 (29,2%) 52 (54,1%) Nặng (86) 5 (5,9%) 25 (29,1%) 56 (65%) Bảng 3. Liên quan giữa mức độ RLC các bệnh kèm  theo.  RLC P Nhẹ (59) TB (96) Nặng (86) Tiểu đường Có 15 (25,4%) 32 (33,3%) 49 (57%) <0,0 5 Không 44 (74,6%) 64 (66,7%) 37 (43%) Tim mạch Có 9 (15,3%) 17 (17,7%) 29 (33,7%) <0,0 5 Không 50 (84,7%) 79 (82,3%) 57 (66,3%) THA Có 8 (13,6%) 25 (26%) 41 (47,7%) <0,0 5 Không 51 (86,4%) 71 (74%) 45 (42,3%) Suy thận Có 5 (9,3%) 10 (10,4%) 14 (14%) <0,0 5 Không 54 (90,7%) 86 (89,6%) 72(86%) BÀN LUẬN  Bướu  lành TTL  là bệnh rất phổ biến ở nam  giới  cao  tuổi  và  có  liên  quan  đến  chức  năng  cương  cũng  như  chức  năng  tình  dục  của  BN.  Điều trị nội khoa hay điều trị phẫu thuật bướu  lành TTL cũng  ảnh hưởng  đến chức năng  tình  dục đặc biệt là rối loạn xuất tinh của BN (1,3,9).  Tuổi và RLC  Tần  suất RLC  ở  những  BN  nam  theo  tuổi  được báo cáo rất khác nhau nhưng đều có một  điểm  chung  là  tuổi  càng  cao  thì  tần  suất RLC  càng tăng(4). Đều này càng thể hiện rõ khi BN có  thêm bướu lành TTL(5).  Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ RLC ở  BN có tuổi dưới 60 là 10/19 BN chiếm 52,6%. Tỉ  lệ này tăng lên đến 100% (67/67 BN) khi BN trên  80 tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với các y văn  trong và ngoài nước  (4,5,6). Kết quả của chúng tôi  cao hơn các kết quả khác có lẽ do các triệu chứng  đường tiểu dưới (LUTS) ảnh hưởng nặng nề đến  chất lượng cuộc sống của BN.  IPSS và RLC  Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy  có mối liên quan mật thiết giữa mức độ RLC và  mức  độ  rối  loạn  theo  thang  điểm  IPSS.  Trong  nhóm RLC nhẹ,  IPSS rối  loạn nhẹ chỉ có 20,3%  nhưng tăng dần theo đến IPSS rối  loạn nặng  là  52,5%. Tương tự, trong nhóm RLC trung bình và  RLC nặng  thì  tỉ  lệ  cũng  tăng dần khi  IPSS  rối  loạn nặng dần.  Kết  quả  của  chúng  tôi  cũng  phù  hợp  với  các kết quả khác đã được báo cáo như Vassilis  Poulakis  báo  cáo  trên  522  BN  bị  bướu  lành  TTL có chỉ  định phẫu  thuật  (17,18). Nghiên  cứu  Alf‐One  của Hartung R và  cs  trên 3230 BN  ở  Nga, Trung Đông, Châu Mỹ Latinh và Châu Á  cũng có kết quả tương tự (7). Trong nghiên cứu  ‘Cologne  Male  Survey’  trên  8000  nam  giới,  Braun M báo cáo tỉ lệ LUST ở những BN RLC  là 72,2%  trong khi  tỉ  lệ LUTS  ở những người  không bị RLC chỉ có 37,7%(2).  Kết quả này  cho  thấy RLC  tỉ  lệ  thuận với  mức  độ  rối  loạn  đánh  giá  theo  thang  điểm  IPSS(13).  RLC và bệnh tiểu đường  Trong nghiên cứu của chúng  tôi, nhóm BN  bị RLC nhẹ có tiểu đường chỉ có 25,4% nhưng tỉ  lệ này tăng lên đáng kể ở nhóm RLC trung bình  có tiểu đường là 33,3% và ở nhóm RLC nặng có  tiểu  đường  thì  tỉ  lệ  này  là  57%.  Điều  này  cho  thấy mức độ liên quan tỉ lệ thuận giữa hai bệnh  này.  Theo nghiên cứu của Vũ Lê Chuyên trên 211  BN bị RLC thì trong bệnh nội khoa phối hợp có  12%  tiểu  đường.  Tiểu  đường  chỉ  gặp  ở  nhóm  trên  40  tuổi,  cao  nhất  ở  nhóm  51‐60  tuổi  là  30%(20).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tuổi  trung bình của BN cao hơn (74,8), có nhiều bệnh  phối hợp hơn nên tỉ lệ cao hơn là hợp lí.  Theo nghiên cứu của Felman  (4), RLC xảy ra  ít nhất là 50% những BN đã được chẩn đoán là  tiểu đường trong 10 năm.  Theo  báo  cáo  của  Nguyễn  Thành  Như(10)  trong  chuyên  đề  hội  nghị  khoa  học  kỹ  thuật  bệnh viện Bình Dân 2004 thì RLC có thể xảy ra  trên ít nhất là 50% BN tiểu đường và tới 12% BN  đến khám đầu tiên vì RLC được phát hiện có bị  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  349 tiểu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỉ  lệ tương tự với các báo cáo này(18).  RLC và suy thận  Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm RLC  nhẹ có suy thận là 9,3%, trong nhóm RLC trung  bình  là 10.4% và nhóm RLC nặng  là 14%. Mặc  dù tỉ lệ thấp (27/258 BN) nhưng cũng phản ánh  được mối liên quan tỉ lệ thuận giữa RLC và suy  thận.  Theo Trần Quán Anh  (16)  thì suy giảm chức  năng  cương dương vật  chiếm  45%  trên những  nam giới bị suy thận mạn.  Theo  Nguyễn  Thành  Như(10)  thì  khoảng  50% BN  suy  thận cần  lọc máu bị RLC nhưng  nhiều BN có chức năng cương cải thiện sau khi  ghép thận.  Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  tỉ  lệ  thấp hơn vì chúng tôi nghiên cứu tỉ lệ suy thận  trong  nhóm BN  bị RLC  trong  khi  các  báo  cáo  trên thì nghiên cứu tỉ lệ BN bị RLC trong nhóm  BN suy  thận. Mặc dù kết quả khác biệt nhưng  cũng phản ánh  được  sự  tương quan giữa RLC  và suy thận(18).  RLC và bệnh tim mạch  Trong  kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  nhóm  BN  bị  RLC  nhẹ  có  bệnh  tim  mạch  là  15,3%, trong nhóm RLC trung bình  là 17,7% và  trong nhóm RLC nặng là 33,7%. Kết quả này cho  thấy mối  liên quan của hai  loại bệnh này. Tỉ  lệ  tăng dần từ nhóm RLC nhẹ đến RLC nặng. Tỉ lệ  này cũng phù hợp với các báo cáo và y văn đã  được công bố.  Theo Trần Quán Anh(16), các bệnh tim mạch  có liên quan đến nguyên nhân gây RLC. Những  cản  trỡ  cơ  giới  từ  thành mạch  hoặc  từ  những  thay đổi áp lực động mạch làm cho lượng máu  tưới  vào  dương  vật  không  đủ.  Bệnh  xơ  vữa  thành mạch là nguyên nhân của khoảng 40% các  trường hợp RLC ở nam giới trên 50 tuổi.  Theo  Felman(4),  có  tới  39%  nam  giới  đang  điều trị bệnh tim, 15% đang điều trị THA, 9,6%  đang  điều  trị  các bệnh  tim mạch khác bị RLC.  Kết quả nghiên cứu của chúng  tôi cũng có  tỉ  lệ  tương tự như các báo cáo này.  KẾT LUẬN  RLC là một bệnh ngày càng gặp nhiều hơn.  Từ  trước  đến  nay,  chúng  ta  thường  chú  ý  về  RLC ở những nam giới trẻ để tiến hành điều trị  mà bỏ quên một đối tượng khác  là những nam  giới lớn tuổi có LUTS đặc biệt là bướu lành TTL.  Trong  những  thập  niên  gần  đây,  đã  có  nhiều  báo cáo về mối  liên hệ giữa RLC và bướu  lành  TTL trong đó bướu lành TTL được xem là yếu tố  nguy cơ cao của RLC.  Kết quả nghiên cứu được báo cáo trong bài  này cho thấy tần suất RLC ở những BN nam bị  bướu  lành TTL rất cao. Cụ  thể  là  trong  tổng số  258 BN, tỉ lệ RLC là 93,4%, trong đó RLC nhẹ là  22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là  33,3%.  Bên  cạnh  đó,  các  yếu  tố  nguy  cơ  khác  như bệnh tim mạch, tiểu đường, suy thậncũng  làm  tăng  tần  suất  của  RLC.  Bướu  lành  TTL  không chỉ ảnh hưởng đến chức năng cương của  BN mà còn ảnh hưởng đến chức năng tình dục  khác như  xuất  tinh,  giảm ham muốn,  rối  loạn  khoái cảm  Kết quả báo cáo của bài báo này góp phần  làm rõ thêm về mối liên hệ của hai bệnh trên từ  đó có chính sách chăm sóc và điều trị hợp lí cho  những BN này.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Boyle  P.(2003),  The  association  between  lower  urinary  tract  symptoms and erectile dysfunction in four centres: the UrEpik  study. BJU Int:234‐87.  2. Braun MH. (2003), Lower urinary tract symptoms and erectile  dysfunction:  co‐morbidity  or  typical  “Cologne Male  Survey.  Eur Urol: 145‐65.  3. Chung WS.  (2004), Lower urinary  tract  symptoms and  sexual  dysfunction in community‐dwelling men. Mayo Clin Proc:245‐ 67.  4. Feldman  HA.  (1994),  Impotence  and  its  medical  and  psychosocial correlates: result of the Massachusetts Male Aging  Study. J Urol 1994:236‐48  5. Frankel  SJ.  (1998),  Sexual  dysfunction  in  men  with  lower  urinary tract symptoms. J Clin Epidemiol.  6. Jeroen  van Moorselaar.,(2003),  LUST  and  sexual  dysfunction:  Implications for managament of BPH. Eur Urol Supplements 2:  347‐78  7. Hartung R. (2003), Sexual dysfunction in 3,230 men with LUST  suggestive of BPH  in Europe, Russia,  the Middle East, Latinh  American and Asia.: 346‐57.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  350 8. McVary K  (2006),  Lower  urinary  tract  symptoms  and  sexual  dysfunction: epidemiology and pathophysiology. BJU  Int.:467‐ 78.   9. Michael Muntener.  (2007),  Sexual  function  after  transurethral  resection  of  the  prostate  (TURP):  Results  of  an  Independent  prospective Multicentre Assessment of outcome. EAU: 345‐67.  10. Nguyễn Thành Như  (2004),  “Một  số  đặc  điểm dịch  tễ học  ở  những bệnh nhân bị rối  loạn được điều trị tại bệnh viện Bình  Dân trong ba năm (2000‐2001‐2002)”, Chuyên đề hội nghị khoa  học bệnh viện Bình Dân, tr. 176‐179  11. Rosen  R.  (2005),  Sexual  dysfunction  and  lower  urinary  tract  symptoms (LUST) associated with benign prostatic hyperplasia  (BPH). Eur Urol.: 589‐91.  12. Rosen R et al. (2003), Lower urinary tract symptoms and male  sexual dysfunction: the multinational survey of the aging male  (MSAM‐7). Eur Urol.:124‐35.   13. Rosen  R.  (2006),  Update  on  the  relationship  between  sexual  dysfuction and lower urinary tract symptoms/ benign prostatic  hyperplasia. Curr Opin Urol.: 125‐36.  14. Rosen R.  (2005),  Lower  urinary  tract  symptoms  severity  and  International Prostate Symptom Score bother question correlate  with measures  of  erectile  and  ejaculation  in  benign  prostatic  hyperplasia. J Urol:321‐34.  15. Rosen RC. (2008), Validated questionnaires for assesing sexual  dysfunction  and  BPH/LUST:  solidifying  the  common  pathophysiologic link. Int J of Impotence Reseach.: 234‐46.  16. Trần Quán Anh (2002), Rối loạn cương, Bệnh học giới tính nam,  Nhà xuất bản Y học, tr. 379‐449.  17. Vassilis  P.  (2006),  Erectile  dysfunction  after  transurethral  prostatectomy for lower urinary tract symptoms: result from a  center with over 500 patients. Asian J Androl.:133‐ 36.  18. Vallancien G (2003), Sexual dysfunction in 1,274 European men  suffering from lower urinary tract symptoms. J Urol.: 122‐125.  19. Van  Dijk  M.  (2005),  The  association  between  lower  tract  symptoms and  sexual dysfunction:  fact or  fiction?. Curr Opin  Urol.: 145‐49.  20. Vũ Lê Chuyên (2000), “Khảo sát tình hình bệnh nhân rối  loạn  cương ở TP HCM”, Y học TP HCM, tr. 263‐269.  Ngày nhận bài báo      16‐05‐2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo:  10‐06‐2013  Ngày bài báo được đăng:     15‐07‐2013