Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá kết quả, độ an toàn, tính khả thi của phẫu thuật làm rộng bàng quang
bằng hồi tràng qua nội soi ổ bụng trong bàng quang co nhỏ do lao qua 11 trường hợp đầu tiên.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ 1/2005 đến hết 12/2011, có 11 bệnh nhân bàng
quang co nhỏ do lao niệu được mổ tạo hình làm rộng bàng quang bằng hồi tràng qua nội soi ổ bụng tại khoa Niệu
B và Niệu C bệnh viện Bình Dân. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc kháng lao trước mổ tối thiểu 2 tháng. Nội
soi ổ bụng dùng 4 trocar, cắt dây chằng rốn giữa, xẻ phúc mạc thành trước vào khoang trước bàng quang, phẫu
tích những chỗ dính quanh bàng quang. Cắt mở bàng quang ở vùng chóp theo đường ngang vòng nhẹ ra mặt
trước bàng quang, dùng một đoạn hồi tràng dài 15‐20cm, đưa ra ngoài cơ thể qua đường mở rộng trocar rốn 4‐5
cm, xẻ ống ruột và xếp ruột kiểu Goodwin (cup‐patch), khâu nối hồi tràng‐bàng quang trong cơ thể. Đánh giá kết
quả phẫu thuật trong thời kỳ hậu phẫu và thời gian sau mổ 6 tháng.
Kết quả: Có 11 bệnh nhân: 6 nam và 5 nữ với tuổi trung bình: 43,45 (27‐61). Có 4 trường hợp (36,4%) có
lao phổi kết hợp, 1 trường hợp lao mào tinh kết hợp (9%). Dung tích bàng quang trung bình trước mổ: 47,3 mL
(40‐50). Tổn thương phối hợp: hẹp niệu quản hai bên: 1/11 (9%), hẹp niệu quản một bên phải: 1/11 (9%), hẹp
niệu quản trái, trào ngược bàng quang niệu quản hai bên: 1 /11 (9%), thận mất chức năng một bên phải: 1 /11
(9%), thận mất chức năng một bên trái: 8/11 (72,7%), trào ngược bàng quang niệu quản hai bên: 2/11 (18,2%),
trào ngược bàng quang niệu quản một bên phải: 4 /11 (36,4%), trào ngược bàng quang niệu quản một bên trái:
2 /11 (18,2%). Có 4/11 trường hợp có creatinin máu trên 120 μmol/l trước mổ (36,4%). Kỹ thuật mổ phối hợp
với làm rộng bàng quang: cắm lại niệu quản phải vào bàng quang: 6/11 (54,5%), cắm lại niệu quản trái vào bàng
quang: 1/11 (9%), đặt thông JJ một bên: 2 /11 (18,2%). Thời gian mổ trung bình: 430 phút (330‐480). Ước
lượng máu mất trung bình: 480 mL (400–600). Chuyển mổ mở: 3 /11 trường hợp (27,3%). Nằm viện sau mổ
trung bình: 11,9 ngày (6‐20). Biến chứng sau mổ: một bệnh nhân bị bán tắc ruột ngày hậu phẫu 14, điều trị bảo
tồn, một bệnh nhân bị hẹp chỗ cắm niệu quản thận độc nhất vào bàng quang ruột phải mở niệu quản ra da sau
mổ 1 tháng. Kết quả sau mổ 6 tháng (10 bệnh nhân): dung tích bàng quang trung bình (chụp bàng quang cản
quang): 252 mL (160‐300), không có trào ngược bàng quang niệu quản trên cả 3 bệnh nhân có cắm lại niệu quản
vào bàng quang, nước tiểu tồn lưu sau đi tiểu trung bình: 58 mL (10‐80). Tất cả các bệnh nhân có cải thiện triệu
chứng đi tiểu nhiều lần và đau hạ vị. Không có trường hợp nào són nước tiển ban ngày và ban đêm
10 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình làm rộng bàng quang qua nội soi ổ bụng trong bàng quang co nhỏ do lao: Kinh nghiệm qua 11 trường hợp đầu tiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 247
TẠO HÌNH LÀM RỘNG BÀNG QUANG QUA NỘI SOI Ổ BỤNG
TRONG BÀNG QUANG CO NHỎ DO LAO:
KINH NGHIỆM QUA 11 TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Lê Văn Hiếu Nhân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá kết quả, độ an toàn, tính khả thi của phẫu thuật làm rộng bàng quang
bằng hồi tràng qua nội soi ổ bụng trong bàng quang co nhỏ do lao qua 11 trường hợp đầu tiên.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ 1/2005 đến hết 12/2011, có 11 bệnh nhân bàng
quang co nhỏ do lao niệu được mổ tạo hình làm rộng bàng quang bằng hồi tràng qua nội soi ổ bụng tại khoa Niệu
B và Niệu C bệnh viện Bình Dân. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc kháng lao trước mổ tối thiểu 2 tháng. Nội
soi ổ bụng dùng 4 trocar, cắt dây chằng rốn giữa, xẻ phúc mạc thành trước vào khoang trước bàng quang, phẫu
tích những chỗ dính quanh bàng quang. Cắt mở bàng quang ở vùng chóp theo đường ngang vòng nhẹ ra mặt
trước bàng quang, dùng một đoạn hồi tràng dài 15‐20cm, đưa ra ngoài cơ thể qua đường mở rộng trocar rốn 4‐5
cm, xẻ ống ruột và xếp ruột kiểu Goodwin (cup‐patch), khâu nối hồi tràng‐bàng quang trong cơ thể. Đánh giá kết
quả phẫu thuật trong thời kỳ hậu phẫu và thời gian sau mổ 6 tháng.
Kết quả: Có 11 bệnh nhân: 6 nam và 5 nữ với tuổi trung bình: 43,45 (27‐61). Có 4 trường hợp (36,4%) có
lao phổi kết hợp, 1 trường hợp lao mào tinh kết hợp (9%). Dung tích bàng quang trung bình trước mổ: 47,3 mL
(40‐50). Tổn thương phối hợp: hẹp niệu quản hai bên: 1/11 (9%), hẹp niệu quản một bên phải: 1/11 (9%), hẹp
niệu quản trái, trào ngược bàng quang niệu quản hai bên: 1 /11 (9%), thận mất chức năng một bên phải: 1 /11
(9%), thận mất chức năng một bên trái: 8/11 (72,7%), trào ngược bàng quang niệu quản hai bên: 2/11 (18,2%),
trào ngược bàng quang niệu quản một bên phải: 4 /11 (36,4%), trào ngược bàng quang niệu quản một bên trái:
2 /11 (18,2%). Có 4/11 trường hợp có creatinin máu trên 120 μmol/l trước mổ (36,4%). Kỹ thuật mổ phối hợp
với làm rộng bàng quang: cắm lại niệu quản phải vào bàng quang: 6/11 (54,5%), cắm lại niệu quản trái vào bàng
quang: 1/11 (9%), đặt thông JJ một bên: 2 /11 (18,2%). Thời gian mổ trung bình: 430 phút (330‐480). Ước
lượng máu mất trung bình: 480 mL (400–600). Chuyển mổ mở: 3 /11 trường hợp (27,3%). Nằm viện sau mổ
trung bình: 11,9 ngày (6‐20). Biến chứng sau mổ: một bệnh nhân bị bán tắc ruột ngày hậu phẫu 14, điều trị bảo
tồn, một bệnh nhân bị hẹp chỗ cắm niệu quản thận độc nhất vào bàng quang ruột phải mở niệu quản ra da sau
mổ 1 tháng. Kết quả sau mổ 6 tháng (10 bệnh nhân): dung tích bàng quang trung bình (chụp bàng quang cản
quang): 252 mL (160‐300), không có trào ngược bàng quang niệu quản trên cả 3 bệnh nhân có cắm lại niệu quản
vào bàng quang, nước tiểu tồn lưu sau đi tiểu trung bình: 58 mL (10‐80). Tất cả các bệnh nhân có cải thiện triệu
chứng đi tiểu nhiều lần và đau hạ vị. Không có trường hợp nào són nước tiển ban ngày và ban đêm.
Kết luận: Qua 11 trường hợp đầu tiên của chúng tôi cho thấy nội soi ổ bụng làm rộng bàng quang bằng hồi
tràng trong bàng quang co nhỏ do lao là khả thi, an tòan, có kết quả gần rất khả quan về cả chức năng và hình thể
đường tiểu đồng thời đã mang lại cho bệnh nhân lợi ích của phẫu thuật ít xâm lấn.
Từ khóa: Lao niệu sinh dục (LNSD); Hẹp niệu quản do lao; Bàng quang co nhỏ do lao
ABSTRACT
Khoa Niệu B bệnh viện Bình Dân ** Khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng ĐT: 0913719346 Email: npchoang@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 248
LAPAROSCOPIC AUGMENTATION ILEOCYSTOPLASTY FOR TUBERCULOUS
CONTRACTED BLADDER: INITIAL EXPERIENCE
Nguyen Phuc Cam Hoang, Le van Hieu Nhan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 247 ‐ 256
Introduction and objective: Assess the outcomes, safety, and the feasibility of laparoscopic augmentation
ileocystoplasty for tuberculous (TB) contracted bladder by our first 11 cases.
Materials and method: From January 2005 to December 2011, eleven patients suffering from TB
contracted bladder underwent laparoscopic augmentation ileocystoplasty at the Department of Urology B and C
of Binh Dan hospital. All patients received antituberculous drugs at least 2 months preoperatively. Four ports
were used. Division of the middle umbilical ligament to enter the prevesical space. The contracted bladder is
dissected off the paravesical adhesions and incised at the dome in a transverse incision slightly curved to the
anterior aspect of the bladder. An ileal loop of 15 ‐ 20 cm was isolated, exteriorized through an extended umbilical
port incision of 4 ‐ 5 cm, then detubularized and sutured into a cup patch according to Goodwin. Intracorporeal
vesico‐ileal anastomosis was used to form a neobladder. We assess the operative outcomes in postoperative period
and 6 months postoperatively.
Results: There were 11 patients: 6 males and 5 females with mean age: 43.45 (27‐61). Four cases (36.4%)
with associated pulmonary tuberculosis, one case (9%) with epidydymal tuberculosis. Preoperative mean bladder
capacity: 47.3 mL (40‐50). Associated urinary tree deformities: bilateral ureteric strictures: 1/11 (9%), right
ureteric stricture: 1/11 (9%), left ureteric stricture, bilateral vesicoureteral reflux (VUR): 1 /11 (9%), right non‐
functioning kidney: 1 /11 (9%), left non‐functioning kidney: 8/11 (72.7%), bilateral VUR: 2/11 (18.2%), right
VUR: 4 /11 (36.4%), left VUR: 2 /11 (18.2%). Four out of eleven cases (36.4%) had preoperative serum creatinin
above 120 μmol/L. Associated operative techniques: right neovesicoureteral reimplantation: 6/11 (54.5%), left
neovesicoureteral reimplantation: 1/11 (9%), unilateral placement of a Double‐J stent 2 /11 (18.2%). Mean
operative time: 430 minutes (330‐480). Estimated blood loss: 480 mL (400–600). Conversion to open surgery: 3
/11 (27.3%). Mean postoperative hospital stay: 11.9 days (6‐20). Postoperative morbidity: one patient had bowel
semi‐occlusion in day 14 post‐op which was managed conservatively, one patient had stricture of the
neovesicoureteral reimplantation in a solitary functioning kidney one month postop necessitating a cutaneous
ureterostomy. Follow‐up at 6 months post‐op (10 patients): mean bladder capacity (on VCUG): 252 mL (160‐
300), no VUR detected in all 3 patients having neovesicoureteral reimplantation, mean post‐voiding residual
urine: 58 mL (10‐80). All patients had improvement of day‐time and night‐time urinary frequency and lower
abdominal discomfort and/or pain. No cases of day‐time and night‐time urinary incontinence documented.
Conclusion: By our 11 initial cases we realize that laparoscopic augmentation ileocystoplasty for TB
contracted bladder is feasible, safe, and have satisfactory short‐term functional and radiological outcomes. It could
help to bring in advantages of MIS to our patients.
Key words: Genitourinary tuberculosis (GUTB); Tuberculous ureteric stricture, Tuberculous
contracted bladder
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bàng quang co nhỏ là di chứng biến thể
đường tiểu ít gặp trong lao niệu‐sinh dục(6,10), với
tỉ lệ gặp khoảng 7,2%(14), trong những năm qua
đã được mổ tạo hình làm rộng bằng hồi tràng
qua mổ mở với kết quả trung bình(11). Trong trào
lưu phẫu thuật ít xâm hại trong phẫu thuật tạo
hình đường tiểu, một số tác giả nước ngòai đã
báo cáo một số trường hợp thực hiện qua nội soi
ổ bụng(3,4,16). Bài viết này báo cáo lại 11 trường
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 249
hợp đầu tiên tạo hình làm rộng bàng quang
bằng hồi tràng qua nội soi đã được thực hiện
trong thời gian vừa qua.
Mục tiêu
Đánh giá kết quả, độ an toàn, tính khả thi
của phẫu thuật làm rộng bàng quang bằng hồi
tràng qua nội soi ổ bụng trong bàng quang co
nhỏ do lao qua 11 trường hợp đầu tiên.
TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tư liệu nghiên cứu
Từ 1/2005 đến 12/2011, 11 bệnh nhân lao
niệu được chẩn đoán bàng quang co nhỏ do
lao niệu được mổ tạo hình làm rộng bằng hồi
tràng qua nội soi ổ bụng, thực hiện tại Khoa
Niệu B và Niệu C, bệnh viện Bình Dân. Có vết
mổ cũ vùng bụng không là chống chỉ định của
nội soi. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc
kháng lao trước mổ tạo hình tối thiểu 2 tháng
tấn công (2SRHZ/ 6HE).
Phương pháp nghiên cứu
Xét nghiệm chẩn đoán lao niệu
‐ Xét nghiệm nước tiểu: là chủ lực để chẩn
đoán lao niệu. Tại bệnh viện Bình Dân thực hiện
phối hợp thường quy cả ba xét nghiệm tìm trực
khuẩn lao trong nước tiểu.
+ Tìm vi khuẩn kháng acid‐cồn (AFB) trực
tiếp bằng nhuộm Ziehl.
+ Phản ứng PCR nước tiểu tìm BK (phản
ứng IS6110‐PCR) tìm M.tuberculosis.
+ Cấy nước tiểu trên môi trường
Lowenstein‐Jensen tìm M.tuberculosis hay M.
nontuberculosis.
Xét nghiệm lao chung
+ VS, IDR.
+ X quang phổi ± Vi khuẩn kháng acid‐cồn
trong đàm.
Chẩn đoán hình ảnh
Để chấn đoán biến chứng biến thể đường tiểu.
‐ Siêu âm (Hình 1.A): độ ứ nước thận, niệu
quản; hình dạng, dung tích bàng quang.
‐ UIV (Hình 1.B.C): độ ứ nước thận niệu
quản, chức năng thận, hình thể và dung tích
bàng quang.
A B C
Hình 1. A. Siêu âm: hình ảnh thận ứ nước. B. UIV: Thận P mất chức năng, bàng quang co nhỏ. C. UIV: Thận T
mất chức năng, bàng quang co nhỏ
‐ Chụp niệu đạo‐bàng quang ngược dòng
(Hình 2.A): xem dung tích, hình thể bàng quang,
biến chứng ngược dòng bàng quang‐niệu quản.
‐ CT/MSCT (Hình 2 B.C): xem toàn thể hệ
niệu về chức năng và hình thể, đặc biệt là chức
năng hai thận.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 250
Nội soi bàng quang (Hình 3): xem niêm mạc
bàng quang, lỗ niệu quản, dung tích bàng
quang, chú ý có hẹp cổ bàng quang không?
A B C
Hình 2. A. Chụp bàng quang niệu đạo ngược dòng: trào ngược hai bên. B. C. CT/MSCT: hai thận ứ nước, chức
năng giảm
A B C
Hình 3. A. Niêm mạc bàng quang “như nhung”. B. Cổ bàng quang. C. Miệng niệu quản chít hẹp
Chỉ định mổ tạo hình
Khi dung tích bàng quang < 100 mL sẽ mổ
tạo hình làm rộng bàng quang. Nếu có hẹp cổ
bàng quang: xẻ rộng cổ bàng quang qua nội
soi trước.
Hẹp niệu quản sát bàng quang: cắm lại
niệu quản vào bàng quang ruột.
Trào ngược bàng quang‐niệu quản (VUR):
từ độ III trở lên sẽ cắm lại niệu quản vào bàng
quang ruột. Chỉ cắm lại niệu quản khi chức năng
thận liên hệ còn bảo tồn.
Kỹ thuật mổ (Hình 4, 5)
Nội soi ổ bụng trong phúc mạc dùng 4 trocar,
đặt ở vùng rốn và hai bên hố chậu. Sẹo mổ cũ
vùng bụng không là chống chỉ định nội soi.
Cắt dây chằng rốn giữa, xẻ phúc mạc thành
trước vào khoang trước bàng quang. Phẫu tích
quanh bàng quang, tách những chỗ dính quanh
bàng quang thường gặp trong lao niệu. Cắt mở
bàng quang ở chóp theo đường ngang vòng nhẹ
ra mặt trước bàng quang.
Cô lập một đoạn hồi tràng dài 15‐20cm, đưa
ra ngoài cơ thể qua đường mở rộng trocar rốn dài
4‐5 cm, xẻ ống ruột, xếp ruột kiểu Goodwin
(cup‐patch). Nếu cần cắm lại niệu quản thì đem
đầu niệu quản ra ngoài cơ thể cắm lại vào bàng
quang ruột theo kỹ thuật LeDuc. Đưa đoạn hồi
tràng đã xếp hình chữ U ngược vào lại trong cơ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 251
thể, khâu nối hồi tràng‐bàng quang, thường
khâu nối từ mặt sau ra mặt trước, dùng mũi
khâu vắt.
Đánh giá kết quả thời kỳ hậu phẫu và tái
khám sau mổ 6 tháng
Tổng phân tích nước tiểu: xem có khuẩn
niệu, mủ niệu?
Siêu âm bụng: có cải thiện ứ nước thận, đo
lượng nước tiểu tồn lưu sau khi đi tiểu.
Chức năng thận: US, creatinin máu, ion
đồ/máu, dự trữ kiềm.
Chụp UIV hoặc MSCT có tiêm thuốc cản
quang, chụp bàng quang ngược chiều. xem hình
thể dung tích bàng quang sau mổ.
A B C
D E F
Hình 4. A. B. Kỹ thuật 4 trocar. C. Cắt mở bàng quang. D.E. Khâu nối hồi tràng‐bàng quang. F. Phẫu thuật
hoàn thành
A B C D
Hình 5. A. Đoạn hồi tràng đem ra ngoài cơ thể. B.C. Đoạn ruột cô lập, xẻ ống và khâu xếp hình U ngược. D.
Khâu nối ruột‐bàng quang trong cơ thể
KẾT QUẢ
Từ 1/2005 đến 12/2011 có 11 bệnh nhân được
mổ tạo hình làm rộng bàng quang bằng hồi
tràng qua nội soi ổ bụng:
Bệnh nhân
Tuổi trung bình: 43,45 (27‐61.)
Giới: 6 nam (54,5%), 5 nữ (45,5%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 252
Lao kết hợp: 4 trường hợp lao phổi (36,4%),
1 trường hợp lao mào tinh (9%).
Chức năng thận trước mổ: 4/11 trường hợp
có creatinin/máu > 120 μmol/L trước mổ (36,4%).
Biến thể đường tiết niệu trước mổ
‐ Dung tích bàng quang trung bình trước
mổ: 47,3 mL (40‐50).
‐ Tổn thương đường tiết niệu trên phối hợp.
+ Hẹp niệu quản 2 bên: 1/11 (9%).
+ Hẹp niệu quản 1 bên P: 1/11 (9%).
+ Hẹp niệu quản T, VUR 2 bên: 1 /11 (9%).
+ Thận mất chức năng 1 bên P: 1 /11 (9%).
+ Thận mất chức năng 1 bên T: 8/11 (72,7%).
+ VUR 2 bên: 2/11 (18,2%).
+ VUR 1 bên P: 4 /11 (36,4%).
+ VUR 1 bên T: 2 /11 (18,2%).
Kỹ thuật mổ kết hợp
+ Cắm lại niệu quản P: 6/11 (54,5%).
+ Cắm lại niệu quản T: 1/11 (9%).
+ Đặt thông JJ một bên: 2 /11 (18,2%).
Thông số cuộc mổ
+ Thời gian mổ trung bình: 430 phút (330‐480).
+ Lượng máu mất trung bình: 480 mL
(400–600).
+ Chuyển mổ mở: 3 /11 TH (27,3%).
+ Nằm viện sau mổ trung bình: 11,9 ngày
(6‐20).
+ Biến chứng sau mổ: 1 bệnh nhân bị bán tắc
ruột ngày hậu phẫu 14, điều trị bảo tồn; 1 bệnh
nhân bị hẹp chỗ cắm niệu quản thận độc nhất
vào bàng quang ruột phải mở niệu quản ra da
sau mổ 1 tháng.
Kết quả sau mổ tạo hình 6 tháng (10 bệnh
nhân, vì 1 bệnh nhân phải mổ lại mở niệu quản
ra da).
+ Dung tích bàng quang tạo hình: 252 mL
(160‐300).
+ Không có trào ngược trên cả 6 bệnh nhân
có cắm lại niệu quản còn lại.
+ Nước tiểu tồn lưu sau khi đi tiểu: 58 mL
(10‐80).
+ Tất cả bệnh nhân cải thiện triệu chứng tiểu
nhiều lần/đau hạ vị.
+ Không có trường hợp nào són nước tiểu
ban ngày hoặc ban đêm.
BÀN LUẬN
Tình huống xảy đến
Biến chứng bàng quang co nhỏ có thể xảy
đến sau khi ngưng điều trị kháng lao (di chứng)
hay ngay trong thời gian dùng thuốc lao tấn
công (xơ hóa cấp do lành sẹo(15)). Trong loạt này,
chúng tôi thấy có 3/11 trường hợp xảy ra trong
thời gian điều trị lao tấn công. Bác sĩ Tiết niệu
trong quá trình theo dõi bệnh nhân nên chú ý
diễn biến có phần cấp tính này.
Chỉ định tạo hình làm rộng bàng quang
Khi dung tích bàng quang chỉ còn 30 ‐ 150
mL. Làm bàng quang thay thế nối thẳng
(orthotopic neobladder) khi dung tích bàng
quang < 30 mL và dùng dạ dày khi có suy thận,
dùng đại tràng sigma và hồi manh tràng khi cần
cắm lại niệu quản vào bàng quang tân tạo. Cần
giữ lại phần bàng quang lành càng nhiều càng
tốt vì phần này có vai trò trong tống xuất nước
tiểu(1,5,6).
Chống chỉ định: Suy thận không phải là
chống chỉ định. Chỉ chống chỉ định khi độ
thanh thải creatinin < 15mL/phút. Các tác giả
dùng mảnh ghép dạ dày khi có suy thận(1,5,6).
Trong loạt này có 4/11 trường hợp (36,4%) có
suy thận nhẹ.
Trong loạt này chúng tôi không gặp trường
hợp nào phải xẻ rộng cổ bàng quang vì hẹp cổ
bàng quang.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 253
Trong nhiều năm qua tại Khoa‐Bộ môn Tiết
niệu bệnh viện Bình Dân đã giải quyết di chứng
này bằng tạo hình làm rộng bàng quang dùng
hồi tràng qua mổ mở(11). Tham khảo y văn thấy có
rất ít bài báo gốc về chủ đề này.
Kinh nghiệm tạo hình bàng quang bằng
ruột tại bệnh viện Bình Dân là dùng mảnh
ghép hồi tràng vì:
(1) Kỹ thuật tương đối đơn giản, dễ thực
hiện (2) Ứng dụng trong phẫu thuật nội soi
dùng hồi tràng thuận tiện khi chọn đoạn ruột và
đem ruột ra ngoài cơ thể (3) Có rất ít rối loạn
nước‐điện giải khi theo dõi lâu dài(2,13) (4) Khi
cần cắm lại niệu quản, kỹ thuật LeDuc đã được
chứng minh là mang lại kết quả tốt(2).
Cách cắt mở bàng quang co nhỏ là một chi
tiết kỹ thuật cần lưu ý: chúng tôi theo kỹ thuật
của bệnh viện Cleveland(16): cắt mở bàng quang
ở chóp theo đường ngang vòng nhẹ ra mặt trước
bàng quang. Ưu điểm: kỹ thuật này giúp thì khâu
nối ruột‐bàng quang dễ dàng, nhất là ở mặt sau.
Trong phẫu thuật nội soi ổ bụng, chúng tôi
thấy không cần thiết khâu nối ruột hoàn toàn
trong cơ thể vì kỹ thuật phức tạp và làm thời
gian mổ kéo dài.
Khi nào cần cắm lại niệu quản vào bàng
quang ruột?
Chúng tôi chủ trương chỉ cắm lại niệu quản
khi có hẹp niệu quản, trào ngược bàng quang‐
niệu quản nặng (từ độ III) (7/11 trường hợp).
Nếu hẹp niệu quản nhẹ chỉ cần đặt thông JJ lưu
3 tháng (2/11 trường hợp), nếu trào ngược nhẹ
chỉ cần làm rộng bàng quang (2/11 trường hợp).
Cần lưu ý khi một thận mất chức năng thì
không cắm lại niệu quản bên đó và đây là
trường hợp nguy cơ cao vì tạo hình trên bệnh
nhân thận độc nhất chức năng (9/11 trường
hợp).
Kinh nghiệm của các tác giả
Kerr và cs.(9) báo cáo 12 trường hợp mổ mở
với kết quả “rất tốt“. Tuy nhiên, ông chủ trương
cắt hết vùng chóp bàng quang nhằm cải thiện triệu
chứng tiểu nhiều lần và làm giảm lượng nước
tiểu tồn lưu. Nếu có trào ngược bàng quang‐
niệu quản, ông khuyến cáo dùng hồi tràng với
cắm lại niệu quản vào đầu gần của quai ruột,
đầu xa quai ruột nối với tam giác‐cổ bàng
quang. Kết quả: bệnh nhân đi tiểu mỗi 2‐6 giờ, 1
trường hợp còn tiểu nhiều lần, 2 trường hợp có
lượng nước tiểu tồn lưu quan trọng, 1 trường
hợp có biến chứng hạ Kali/máu.
Hình 6. BN Lê Thị M., SN 1955. MSCT trước mổ
(có thông bàng quang ra da)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 254
A B
Hình 7. BN Lương Thái S., SN 1947. A. MSCT trước mổ B. MSCT sau mổ
A B
C D
Hình 8. BN Đinh Thị Tr., SN 1949. A. MSCT trước mổ. B. MSCT sau mổ. C. Chụp bàng quang trước mổ. D.
Chụp bàng quang sau mổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 255
Ngô Gia Hy và cs.(11) báo cáo 8 trường hợp:
7 trường hợp có kết quả “trung bình“, 1
trường hợp tử vong do nhiễm trùng huyết. Tác
giả cho rằng phẫu thuật tạo hình chỉ làm đỡ
phần nào rối loạn đi tiểu. Phẫu thuật đã làm
giảm bớt hoặc loại bỏ nước tiểu tồn lưu với tỉ
lệ thành công là 50%.
Trong loạt 11 trường hợp này
1 trường hợp biến chứng nặng sau mổ: hẹp
chỗ cắm niệu quản/thận độc I vào bàng quang ruột
gây thiểu niệu sau rút thông JJ sau mổ 1 tháng,
phải mở niệu quản ra da.
Kết quả sau mổ 6 tháng: Dung tích bàng
quang tạo hình đạt gần bình thường: 252 mL.
Cần lưu ý rằng theo thời gian, dung tích bàng
quang ruột có khuynh hướng tăng dần(2). Kết
quả cắm lại niệu quản: 1 trường hợp hẹp chỗ
cắm lại (nêu trên) phải mở niệu quản ra da, 6
trường hợp còn lại đều không có trào ngược
bàng quang niệu quản. Lượng nước tiểu tồn lưu
là chấp nhận được (10‐80 mL).
Triệu chứng cơ năng cải thiện hẳn: bệnh
nhân đi tiểu mỗi 2–4 giờ (ban ngày), tiểu đêm 2 ‐
3 lần/đêm, hết đau hạ vị và tiểu gấp. Tất cả bệnh
nhân không có són nước tiểu cả b