Mục tiêu: Báo cáo kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca được chẩn đoán tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành
và điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 01 năm 2010 đến tháng 03 năm 2013.
Kết quả: 7 bệnh nhi (2 non tháng và 5 đủ tháng). Biểu hiện lâm sàng: 5 trường hợp tắc ruột sơ sinh, 1
trường hợp viêm phúc mạc sơ sinh, 1 trường hợp tiêu bón mãn tính sau đó tắc ruột lúc 3 tháng tuổi. Tất cả bệnh
nhi được phẫu thuật mở hồi tràng ra da. Sang thương trong mổ tương tự bệnh Hirschsprung. Tế bào hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành được xác định bởi giải phẫu bệnh cho tất cả trường hợp. X quang đại tràng cho
thấy có nhu động và đào thải cản quang sau 24 giờ: 5 bệnh nhi lúc 12‐13 tháng tuổi, 1 bệnh nhi lúc 7 tháng tuổi,
1 bệnh nhi lúc 16 tháng tuổi. Phẫu thuật đóng hồi tràng được thực hiện sau đó. Một trường hợp phải mở lại
hỗng tràng ra da vì tắc ruột do dính và tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành. Những bệnh nhi còn lại có
kết quả tốt.
Kết luận: Tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành có biểu hiện tương tự bệnh Hirschsprung. Cần có
sự phối hợp giữa các nhà lâm sàng và giải phẫu bệnh để có chẩn đoán chính xác và điều trị thích hợp. Xác định
thời điểm đóng hồi tràng có vai trò quan trọng cho thành công của phẫu thuật.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành: Kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 62
TẾ BÀO HẠCH THẦN KINH RUỘT CHƯA TRƯỞNG THÀNH:
KINH NGHIỆM CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
Tạ Huy Cần*, Phạm Lê Huy Lãm*, Trần Đại Phú*, Đào Trung Hiếu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Báo cáo kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca được chẩn đoán tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành
và điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 01 năm 2010 đến tháng 03 năm 2013.
Kết quả: 7 bệnh nhi (2 non tháng và 5 đủ tháng). Biểu hiện lâm sàng: 5 trường hợp tắc ruột sơ sinh, 1
trường hợp viêm phúc mạc sơ sinh, 1 trường hợp tiêu bón mãn tính sau đó tắc ruột lúc 3 tháng tuổi. Tất cả bệnh
nhi được phẫu thuật mở hồi tràng ra da. Sang thương trong mổ tương tự bệnh Hirschsprung. Tế bào hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành được xác định bởi giải phẫu bệnh cho tất cả trường hợp. X quang đại tràng cho
thấy có nhu động và đào thải cản quang sau 24 giờ: 5 bệnh nhi lúc 12‐13 tháng tuổi, 1 bệnh nhi lúc 7 tháng tuổi,
1 bệnh nhi lúc 16 tháng tuổi. Phẫu thuật đóng hồi tràng được thực hiện sau đó. Một trường hợp phải mở lại
hỗng tràng ra da vì tắc ruột do dính và tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành. Những bệnh nhi còn lại có
kết quả tốt.
Kết luận: Tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành có biểu hiện tương tự bệnh Hirschsprung. Cần có
sự phối hợp giữa các nhà lâm sàng và giải phẫu bệnh để có chẩn đoán chính xác và điều trị thích hợp. Xác định
thời điểm đóng hồi tràng có vai trò quan trọng cho thành công của phẫu thuật.
Từ khóa: Tế bào hạch thần kinh chưa trưởng thành, biến thể bệnh Hirschsprung.
ABSTRACT
IMMATURE GANGLION CELLS: EXPERIENCE IN DIAGNOSIS AND TREATMENT
Ta Huy Can, Pham Le Huy Lam, Tran Dai Phu, Dao Trung Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 61 ‐ 66
Objectives: To report experience in diagnosis and treatment of immature ganglion cells.
Methods: Case series report all patients who have been diagnosed immature ganglion cells and treated in
children’s hospital 1 from January 2010 to March 2013.
Results: 7 patients (2 preterm and 5 full term). Clinical manifestations: 5 cases of neonatal intestinal
obstruction, 1 case of neonatal peritonitis, 1 case of chronic constipation and bowel obstruction at 3 months old.
All patients underwent surgery to create the ileostomy.
Intra‐operative intestinal lesions similar to Hirschsprungʹs disease. Immature ganglion cells was determined
by pathology for all cases. Barium enema study showed the presence of peristalsis and evacuation of the barium
after 24 giờ: 5 patients at 12 ‐13 months old, 1 patient at 7 months old and 1 patient at 16 months old. Closure of
the ileostomy was then performed. One patient required re‐operative for mechanical adhesive ileus and immature
ganglion cells. The remaining patients had good result.
Conclusions: Manifestations of immature ganglion cells are similar to Hirschsprung’s disease. There
should be coordination between the clinician and pathologist for correct diagnosis and appropriate treatment.
* Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: Ths BS Tạ Huy Cần ĐT: 0975649090 Email: huycansurg@gmail.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 63
Determining the timing of ileostomy closure play an important role for the success of the surgery.
Key words: Immature ganglion cells, variant Hirschsprung’ s disease.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bất thường bẩm sinh của hệ thống thần
kinh ruột được chia thành: Không có hạch thần
kinh (bệnh Hirschsprung), tăng hạch thần kinh
(loạn sản thần kinh ruột), thiểu hạch, tế bào hạch
thần kinh chưa trưởng thành, dạng kết hợp và
một số dạng không phân loại được(1).
Tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành cũng như các dạng bất thường hệ thống
thần kinh ruột khác có triệu chứng lâm sàng gần
giống nhau, được xem là các biến thể của bệnh
Hirschsprung (5,6). Việc chẩn đoán chính xác thể
loại không thể chỉ dựa vào lâm sàng mà phải
phối hợp nhiều phương tiện cận lâm sàng, đặc
biệt là giải phẫu bệnh. Chẩn đoán đúng giúp
chúng ta có thái độ xử trí thích hợp nhằm hạn
chế biến chứng và đạt được kết quả điều trị tốt
nhất (1,3).
Cho đến nay, trên thế giới chưa có nhiều bài
viết về tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành. Tại Việt Nam, khái niệm này vẫn còn khá
mới và chưa có báo nào được ghi nhận. Chính vì
thế, chúng tôi báo cáo 7 trường hợp, nhằm đưa
ra những kinh nghiệm bước đầu trong chẩn
đoán và điều trị tế bào hạch thần kinh ruột chưa
trưởng thành.
Mục tiêu nghiên cứu
Báo cáo kinh nghiệm trong chẩn đoán và
điều trị tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Báo cáo loạt 7 trường hợp tế bào hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành được chẩn đoán và
điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 1, từ tháng 01
năm 2010 đến tháng 03 năm 2013.
KẾT QUẢ
Chúng tôi có 5 trường với hợp biểu hiện lâm
sàng là tắc ruột sơ sinh: Nôn dịch mật, bụng
trướng, không đi tiêu. Trong số đó, 4 trường hợp
chậm đi tiêu phân su sau 24 giờ và 1 trường hợp
đi tiêu phân su vài giờ đầu sau sinh. Tất cả đều
có hình ảnh tắc ruột thấp trên X quang bụng
không sửa soạn: Trướng hơi ruột non, vắng hơi
vùng tiểu khung, 2 trường hợp có mức nước hơi
phân tầng. Chẩn đoán được đặt ra cho những
trường hợp này là theo dõi bệnh Hirschsprung
vô hạch toàn bộ đại tràng và có chỉ định phẫu
thuật. Trong lúc mổ, sang thương cũng khá
tương tự giũa các bệnh nhi này: hình ảnh toàn
bộ khung đại tràng có khẩu kính nhỏ, đoạn cuối
hồi tràng nhỏ, hồi tràng phía trên dãn to, chứa
nhiều hơi và dịch tiêu hóa, cũng tương tự như
bệnh Hirschsprung. Hồi tràng được mở ra da
cho cả 5 trường hợp cùng với sinh thiết khung
đại tràng và đoạn cuối hồi tràng. Kết quả giải
phẫu bệnh cho thấy hình ảnh tế bào hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành, không có tế bào
hạch thần kinh trưởng thành và sợi thần kinh
phì đại ở đoạn ruột hẹp, có tế bào hạch trưởng
thành ở chỗ mở hồi tràng ra da.
Bệnh nhi thứ 6 vào viện với bệnh cảnh tắc
ruột sơ sinh kèm biểu hiện viêm phúc mạc. Phẫu
thuật ghi nhận đây là trường hợp viêm phúc
mạc bào thai thể kết bọc do thủng đoạn cuối hồi
tràng. Bé cũng được mở hồi tràng ra da và kết
quả sinh thiết cho thấy tế bào hạch thần kinh
ruột chưa trưởng thành toàn bộ khung đại tràng
Trường hợp thứ 7 không ghi nhận chậm đi
tiêu phân su, có biểu hiện đi tiêu bón và bụng
trướng nhẹ từ sau sinh. Đến 3 tháng tuổi, bé
nhập viện trong bệnh cảnh tắc ruột kèm nhiễm
khuẩn: Sốt, nôn dịch mật, không đi tiêu, bụng
trướng to. Trong phẫu thuật ghi nhận khẩu kính
khung đại tràng tương đối nhỏ, 30 cm đoạn cuối
hồi tràng khẩu kính nhỏ, hồi tràng phía trên dãn
to nhưng thành không dày, chứa nhiều dịch tiêu
hóa dạng viêm ruột. Bé được mở hỗng tràng ra
da và sinh thiết. Kết quả giải phẫu bệnh cho
thấy tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành ở đại tràng và hồi tràng đoạn khẩu kính
nhỏ, có tế bào hạch thần kinh trưởng thành ở
chỗ mở hồi tràng ra da.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 64
Trong 7 trường hợp, có 3 trai, 4 gái, 2 bệnh
nhi sinh non tháng, 5 bệnh nhi còn lại sinh đủ
tháng.
Để đánh giá hoạt động của đại tràng, chúng
tôi thực hiện X quang đại tràng cản quang cho
tất cả các trường hợp, 6 bệnh nhi đầu khi trẻ đủ
12 tháng tuổi, bệnh nhi thứ 7 khi trẻ được 7
tháng tuổi. Cả 7 bệnh nhi đều có dấu hiệu hoạt
động của đại tràng trên X quang: Có nhu động
của đại tràng và 5 trường hợp đầu có đào thải
cản quang sau 24 giờ. Phẫu thuật đóng hồi tràng
được thực hiện ngay sau đó.
Kết quả sau mổ cho thấy: 5 bệnh nhi đầu có
diễn tiến khá tốt, ăn lại đường miệng tốt, bụng
xẹp, tự đi tiêu được mỗi ngày. Tuy nhiên, trong
những ngày đầu hậu phẫu, bệnh biểu hiện như
một trường hợp tắc ruột với bụng trướng, dịch
dạ dày xanh dù có ít phân qua thông trực tràng.
Thời điểm đạt được sự tháo lưu tốt của đường
tiêu hóa thường muộn, sau phẫu thuật trung
bình khoảng 10 ngày (7 – 13 ngày). Bệnh nhi thứ
6 có biểu hiện tắc ruột kéo dài đến ngày hậu
phẫu thứ 15 kèm theo tình trạng nhiễm trùng
nên được phẫu thuật lại. Trong lúc mổ ghi nhận
tắc ruột do dính phía trên chỗ đóng hồi tràng và
khẩu kính khung đại tràng nhỏ, được mở lại hồi
tràng. Kết quả sinh thiết lại cho tế bào hạch thần
kinh ruột vẫn chưa trưởng thành. Trường hợp
thứ 7 được mở lại hỗng tràng kiểu Bishop koop.
Sau phẫu thuật 5 ngày, bệnh nhi có thể ăn hoàn
toàn bằng đường miệng, bụng xẹp và đi tiêu
mỗi ngày qua hậu môn thật mà không qua chỗ
mở hỗng tràng.
BÀN LUẬN
Ngoài bệnh Hirschsprung, các bất thường
khác của hệ thống thần kinh ruột cũng có triệu
chứng lâm sàng tương tự(1,3,4,5) Chính vì thế, khi
trẻ sơ sinh có biểu hiện tắc ruột chức năng,
chúng ta cần phải phân biệt giữa nguyên nhân
thường gặp là không có tế bào hạch thần kinh
ruột với các bệnh lý hiếm gặp hơn như loạn sản
thần kinh ruột, tế bào hạch thần kinh ruột chưa
trưởng thành, ruột thiểu hạch, cơ thắt trong
không dãn để có thái độ xử trí thích hợp nhất.
Tuy nhiên, cho đến nay, chẩn đoán và xử trí
chúng vẫn còn là thách thức của các nhà lâm
sàng(2,5,6).
Vấn đề thứ nhất đặt ra là tế bào hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành là gì và chẩn đoán
như thế nào ?
Hệ thống thần kinh ruột là một mạng lưới
liên kết các tế bào thần kinh trong thành ruột, có
vai trò kiểm soát vận động, điều hòa chế tiết
nhầy, lưu lượng máu cũng như cảm giác cho
ruột.
Tế bào hạch thần kinh là thành phần chính
trong hệ thống thần kinh ruột, có nguồn gốc từ
mào thần kinh và đi vào thành ruột theo hướng
đầu đuôi.
Chúng xuất hiện đầu tiên ở thực quản vào
tuần thứ 6 ‐ 7 của thai kỳ và đến tuần thứ 10 có
thể tìm thấy dọc đường tiêu hóa bao gồm cả trực
tràng. Tuy nhiên, ban đầu các tế bào này chưa
trưởng thành, chưa thể đảm nhiệm chức năng
của nó. Theo thời gian, chúng dần trưởng thành,
cũng theo hướng đầu – đuôi.
Quá trình trưởng thành của hệ thống thần
kinh ruột diễn ra trong thai kỳ và còn tiếp tục sau
sinh(1,8,3). Vì vậy, theo lý thuyết nhiều khả năng
bệnh sẽ gặp nhiều ở trẻ sinh non. Tuy nhiên, theo
nhiều tác giả(1,8,3), hầu hết các trường hợp là trẻ đủ
tháng. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự, chỉ
có 2 trường hợp sinh non được ghi nhận.
Hầu hết các tác giả thấy rằng biểu hiện của
bệnh cũng giống như các trường hợp tắc ruột sơ
sinh khác, với chậm tiêu phân su sau 24 ‐ 48 giờ,
nôn dịch mật và bụng trướng(1,8,3). Một số trẻ
không biểu hiện ở sơ sinh mà có biểu hiện tiêu
bón kéo dài(1) Chúng tôi cũng ghi nhận các triệu
chứng tương tự với chậm tiêu phân su, nôn dịch
mật, bụng trướng, tiêu bón .
Vì không có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu
nên cần phải có các phương tiện khác giúp xác
định chẩn đoán. Cũng như lâm sàng, X quang
bụng không sửa soạn không giúp xác định bệnh,
chỉ cho phép chẩn đoán tắc ruột với trướng hơi
ruột non, mức khí dịch, vắng hơi vùng tiểu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 65
khung(1,8,3). Chúng tôi cũng ghi nhận tương tự.
Theo Hayakawa(8) các dấu hiệu trên X quang đại
tràng cản quang giúp nghi ngờ tế bào hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành: khung đại tràng
không bị ngắn lại, không mất đi hình dạng bình
thường. Chúng tôi cũng ghi nhận hình ảnh
tương tự trong lô nghiên cứu.
A
B
Hình 1:
A. X quang bụng không sữa soạn lúc sơ sinh: trướng
hơi ruột non, vắng hơi tiểu khung
B. X quang đại tràng cản quang: khung đại tràng dài,
có nhu động
Dù vậy, giải phẫu bệnh vẫn là xét nghiệm có
giá trị nhất để chẩn đoán. Mẫu bệnh phẩm có
thể được lấy qua sinh thiết hút trực tràng trên
những bệnh nhi có biểu hiện tắc ruột chức năng
hoặc khi mở hỗng hay đại tràng ra da do tắc
ruột(1,8,2,3). Chúng tôi chưa có điều kiện thực hiện
sinh thiết hút nên các bệnh phẩm được lất lúc
phẫu thuật. Hầu hết các tác giả cho rằng với
phương pháp nhuộm HE có thể xác định được
tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành(1,8,2,3). Trên giải phẫu bệnh, tế bào hạch
thần kinh trưởng thành là tế bào lớn thứ hai
trong cơ thể, có nhân to, hạt nhân rõ, bào tương
và nhân bắt màu nhạt. Trái lại, tế bào hạch chưa
trưởng thành có kích thướt nhỏ hơn, nhân vón,
không thấy hạt nhân, nhân và bào tương sậm
màu(1,8,3).
A
B
Hình 2
A. Tế bào hạch thần kinh ruột trưởng thành: kích
thước to, nhân to, hạt nhân rõ, bào tương nhạt
B. Tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành:
nhân nhỏ, không thấy hạt nhân, sậm màu
Vấn đề thứ hai là khi nào tế bào hạch thần
kinh ruột trưởng thành và xác định thời điểm đó
như thế nào?
Sự trưởng thành của tế bào hạch thần kinh
ruột là một quá trình và rất khó để xác định
chính xác thời điểm, có trường hợp chỉ trong 3
tháng đầu, nhưng cũng có trường hợp phải đợi
đến 3 tuổi(1,8,3). Tuy nhiên, hầu hết các tác giả ghi
nhận quá trình này sẽ hoàn thành trong vòng
một năm đầu sau khi sinh(1,8,3). Chúng tôi ghi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 66
nhận 5 trường hợp ruột trưởng thành trong
khoảng 12‐14 tháng tuổi, 1 trường hợp lúc 7
tháng và 1 trường hợp tế bào hạch chưa trưởng
thành lúc 16 tháng tuổi.
Để xác định thời điểm này, cũng có nhiều
quan điểm khác nhau nhưng chính xác nhất vẫn
là tiêu chuẩn giải phẫu bệnh(1,8,3). Tuy nhiên, đây
là một phương pháp xâm lấn vì cần phải sinh
thiết hút trực tràng định kỳ. Ngoài ra, đo áp lực
hậu môn trực tràng cũng giúp cho chẩn đoán.
Tương tự như bệnh Hirschsprung, phản xạ ức
chế hậu môn trực tràng bị mất khi hạch thần
kinh ruột chưa trưởng thành và khi nó xuất hiện
trở lại có nghĩa là hệ thống tế bào hạch thần kinh
ruột đã hoàn thiện(3). Do hạn chế về phương tiện,
chúng tôi sử dụng X quang đại tràng cản quang
để giúp xác định sự hoạt động của ruột. Theo
Kijewska(3), sự hoàn thiện về chức năng sẽ xảy ra
trước khi tế bào hạch thần kinh ruột trưởng
thành hoàn toàn trên giải phẫu bệnh. X quang
đại tràng giúp xác định nhu động trên đoạn cuối
ống tiêu hóa và đánh giá khả năng đào thải cản
quang sau đó. Trong tất cả trường hợp, chúng
tôi ghi nhận có các dấu hiệu x quang gợi ý tế bào
hạch thần kinh ruột đã trưởng thành.
Vấn đề thứ ba là xử trí các trường hợp tế bào
hạch thần kinh ruột chưa trưởng thành như thế
nào?
Theo Burki(1) trong các trường hợp tắc ruột
chức năng ở sơ sinh, chưa trưởng thành tế bào
hạch thần kinh cần phải lưu ý để có hướng chẩn
đoán và điều trị thích hợp. Qua sinh thiết hút
trực tràng, tác giả chẩn đoán xác định bệnh và
nhiều trường được điều trị bảo tồn thành công
bằng thuốc nhuận trường hay thụt tháo. Chúng
tôi và một số tác giả khác không thực hiện sinh
thiết hút ở sơ sinh mà ghi nhận những trường
hợp được phẫu thuật do tắc ruột không thể điều
trị bảo tồn. Vì thế, có thể chúng tôi đã bỏ qua
những trường hợp nhẹ mà việc điều trị có thể
không cần phải mổ.
Nhiều tác giả(1,8,3) thấy rằng hình ảnh đại thể
trong lúc mổ cũng tương tự một trường hợp
bệnh Hirschsprung vô hạch toàn bộ đại tràng
với khẩu kính đại tràng nhỏ và dãn to đoạn ruột
phía trên. Ruột dãn sẽ được mở ra ngoài để tháo
lưu cho đường tiêu hóa và sẽ đóng lại khi chức
năng ruột hoàn thiện. Chúng tôi cũng thực hiện
tương tự.
Vấn đề thứ tư là có lưu ý gì đặc biệt khi điều
trị những trường hợp này ?
Thời điểm hoạt động hiệu quả của đường
tiêu hóa sau đóng hồi tràng thay đổi từ 7 đến 13
ngày. Hoạt động được cho là hiệu quả khi có sự
lưu thông tốt của đường tiêu hóa với các dấu
hiệu: thông dạ dày ra dịch trong hay không ra
gì, bụng xẹp, đi tiêu được. Tuy nhiên, chúng tôi
ghi nhận trong tất cả trường hợp, diễn tiến
những ngày đầu hậu phẫu giống như một
trường hợp tắc ruột với bụng trướng to, quai
ruột nổi, thông dạ dày ra dịch xanh. Một điểm
khác biệt duy nhất là có ít phân qua thông trực
tràng với số lượng tăng dần. Chính vì thế, bệnh
nhi cần phải được nuôi ăn tĩnh mạch và chăm
sóc, theo dõi như một trường hợp tắc ruột thật
sự, đặc biệt là các vấn đề về nước và điện giải.
Chúng tôi có một trường hợp phải can thiệp
phẫu thuật lại mở hỗng tràng ra da vì trong quá
trình chờ đợi, bệnh nhân có biểu hiện tắc ruột
kèm với nhiễm trùng.
Vấn đề thứ năm là có hậu quả gì nếu chẩn
đoán nhầm bệnh Hirschsprung vô hạch toàn bộ
đại tràng?
Biểu hiện của bệnh có nhiều điểm tương
đồng với bệnh Hirschsprung, đặc biệt là các
trường hợp vô hạch toàn bộ đại tràng được mở
hỗng tràng ra da(1,8,3). Vì thế, chẩn đoán nhầm giữa
hai trường hợp này hoàn toàn có thể xảy ra nếu
không có sự phối hợp tốt giữa các nhà lâm sàng
và giải phẫu bệnh. Theo Burki(1), không phải lúc
nào các nhà giải phẫu bệnh cũng quan tâm đến
vấn đề tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành, đặc biệt khi không có sự lưu ý của các nhà
lâm sàng. Chúng tôi có một trường hợp chẩn
đoán bệnh Hirschsprung vô hạch toàn bộ đại
tràng trên giải phẫu bệnh nhưng trên lâm sàng và
X quang đại tràng cho thấy có sự vận động và lưu
thông của đại tràng. Chúng tôi đã hội chẩn với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 67
các nhà giải phẫu bệnh để xem lại mẫu bệnh
phẩm và đi đến kết luận tế bào hạch thần kinh
ruột chưa trưởng thành. Bệnh nhân đã giữ lại
được đại tràng và kết quả sau phẫu thuật tốt.
Như chúng ta đã biết, đại tràng có vai trò rất
quan trọng trong sự tái hấp thu nước và điện
giải, góp phần cho sự ổn định nội môi, tổng hợp
Vitamin. Cho nên, việc chẩn đoán chính xác cho
phép bảo tồn được đại tràng và chức năng của
nó. Bên cạnh đó, chẩn đoán đúng còn tránh
được các biến chứng của phẫu thuật điều trị
bệnh Hirschsprung như: Xì dò, hẹp miệng nối,
són phân, tiêu lỏng, tiêu không tự chủ...Điều này
không những giúp cho việc chăm sóc được tốt
hơn, còn giúp giảm bớt gánh nặng về kinh tế, về
tâm lý cho gia đình và bệnh nhi.
KẾT LUẬN
Tế bào hạch thần kinh ruột chưa trưởng
thành là bệnh khá hiếm gặp, có biểu hiện lâm
sàng và X quang cũng tương tự như bệnh
Hirschsprung. Điều quan trọng là cần phải lưu ý
đến nó và có sự phối hợp với các nhà giải phẫu
bệnh để có chẩn đoán chính xác. Xác định thời
điểm tế bào hạch trưởng thành có ý nghĩa quan
trọng cho thành công của phẫu thuật. Chẩn
đoán đúng và xử trí thích hợp giúp hạn chế biến
chứng và di chứng sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burki T, Kiho L, Scheimberg I, Phelps S, Misra D (2011).
Neonatal functional intestinal obstruction and the presence of
severely immature ganglion cells on rectal biopsy: 6 year
experience, Pediatr Surg Int, 27: pp 487–490.
2. Hayakawa K, Hamanaka Y, Suzuki M, Nakatsu M,
Nishimura K (2003). Radiological Findings in Total Colon
Aganglionosis and Allied Disorders, Rad Med, 21 (3): pp 128–
134.
3. Henna N, Nagi H, Sheikh A, Shaukat M (2011). Original
article morphological patterns in