Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 78
THAY ĐỔI SÂU RĂNG SAU 1 NĂM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN SÂU RĂNG 
Ở TRẺ 9-10 TUỔI TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Bùi Huỳnh Anh*, Ngô Thị Quỳnh Lan* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi sâu răng sau một năm của nhóm học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao (so với 
nhóm sâu răng thấp) và phân tích các yếu tố nguy cơ có ảnh hưởng đến sự gia tăng sâu răng sau 1 năm tại một 
trường tiểu học thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi dọc 1 năm trên 149 học sinh 9-10 tuổi tại 
huyện Bình Chánh Tp.HCM (52 học sinh không sâu răng vĩnh viễn hay có tối đa 1 răng sữa sâu và 97 học sinh 
sâu răng cao). Tình trạng sâu răng được đánh giá theo tiêu chí của WHO 1997 có biến đổi (bao gồm cả sang 
thương chưa sâu răng chưa tạo lỗ) ở 2 thời điểm: ban đầu và sau 12 tháng bởi cùng tiêu chí và cùng các điều tra 
viên đã được định chuẩn. Số liệu các yếu tố lâm sàng liên quan sâu răng được thu thập ở thời điểm ban đầu. Các 
đặc điểm nước bọt như pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt không kích thích và có kích thích, lưu 
lượng, khả năng đệm của nước bọt được ghi nhận bằng bộ thử nghiệm Plaque-Check+ pH và Saliva-Check Buffer 
(hãng GC). Số lượng vi khuẩn Streptococcus mutans, Lactobacilli được đánh giá bằng bộ thử nghiệm CRT® 
Bacteria (hãng Vivadent). Vệ sinh răng miệng được đánh giá dựa vào chỉ số OHI-S. Ngoài ra, các đặc điểm kinh 
tế xã hội như học vấn, thu nhập của cha mẹ học sinh và các yếu tố thói quen như chế độ ăn có đường, axít, số lần 
chải răng và sử dụng fluor cũng được ghi nhận. Tất cả các yếu tố liên quan sâu răng này được dùng để phân 
tích mối liên quan với sự gia tăng sâu răng sau 1 năm. Kiểm định 2, thống kê OR, kiểm định t bắt cặp, kiểm 
định t cho 2 mẫu độc lập và phân tích hồi quy logistic được áp dụng trong nghiên cứu này. 
Kết quả: Tình trạng sâu răng vĩnh viễn sau 1 năm như sau: ở nhóm học sinh sâu răng thấp trung bình 
SMT-MR tăng là 1,15 ± 1,66 và có 25% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR; ở nhóm sâu răng cao trung bình 
SMT-MR tăng 1,64 ± 1,46 và có 53,6% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
tỷ lệ % học sinh có tăng sâu răng cũng như trung bình độ lệch SMT-R/SMT-MR sau 1 năm giữa 2 nhóm học 
sinh có sâu răng cao và không có sâu răng ban đầu (p<0,001). Phân tích hồi quy logistic về yếu tố nguy cơ ban 
đầu ảnh hưởng đến sự thay đổi sâu răng sau một năm cho thấy những học sinh “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn 
cao ban đầu” và “khả năng đệm nước bọt thấp” có nguy cơ tăng tối thiểu một SMT-MR sau một năm tương ứng 
là 9,52 lần (KTC 95%: 3,45-26,29; p<0,001) và 2,74 lần (KTC 95%: 1,07-6,98; p<0,05). Còn những học sinh có 
“tiền sử sâu răng cao ban đầu” (p<0,001) và “thu nhập của cha/mẹ thấp” có nguy cơ tăng tối thiểu hai SMT-MR 
sau một năm tương ứng là 11,6 lần (KTC 95%: 3,32-40,6; p<0,001) và 3,78 lần (KTC 95%: 1,14-12,51; p<0,05). 
Kết luận: Các yếu tố “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu”, “khả năng đệm nước bọt thấp” và “thu 
nhập của cha/mẹ thấp” là những yếu tố nguy cơ làm gia tăng 1 hoặc 2 mặt răng sâu sau 1 năm ở nhóm trẻ 9-10 
tuổi trong nghiên cứu tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, trong đó yếu tố “có tiền sử sâu răng vĩnh 
viễn cao ban đầu” là yếu tố nguy cơ thật sự có liên quan rất mạnh với sự gia tăng sâu răng (p<0,001). 
Từ khóa: pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt, lưu lượng nước bọt, khả năng đệm nước bọt, 
Streptococcus mutans. 
ABSTRACT 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM. 
Tác giả liên lạc: BS Bùi Huỳnh Anh ĐT: 0909094950 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 79
CHANGING DENTAL CARIES AFTER ONE YEAR FOLLOW-UP AND RELATED FACTORS IN 9-10 
YEAR-OLD CHILDREN IN BINH CHANH, HO CHI MINH CITY, VIETNAM 
Bui Huynh Anh, Ngo Thi Quynh Lan 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 78 - 86 
Objectives: The purposes of this study were to assess and follow-up within one year the changes of dental 
caries among 9 to 10-year-old school children with high caries in a primary school in Binh Chanh, HoChiMinh 
city and to analyze caries-related factors affected in caries increment after a year. 
Materials and methods: An one-year follow up study in 149 children (52 caries free children and 97 high 
caries children). The caries status was recorded using the WHO Criteria 1997 (with non-cavitated lesions) and it 
was reevaluated after one year using the same criteria and same calibrated examiners. At baseline, clinical factors 
related to caries such as plaque pH, salivary viscosity, non-stimulated salivary pH, stimulated salivary flow, 
salivary buffering capability were measured by Plaque-check + pH test and Saliva-Check Buffer test. The amounts 
of Streptococcus mutans and Lactobacilli were assessed using CRT® Bacteria. Oral hygiene status was defined 
according to OHI-S index. Socioeconomic characteristics such as parents’ education level, parents’ income and 
behavioral characteristics in regard to sugar and acid consumption, brushing habit and fluoride use were also 
recorded. All these caries related factors were used for analyzing the correlation with the caries increments after 
one year. Chi Square test, Odd ratios, t test and Logistic Regression Model were applied in the study. 
Results: The caries status in permanent teeth after the one-year follow-up period was as follows: in caries free 
group, DMFS increment was 1.15 ± 1.66; 25% children showed an increase of 1-2 caries surfaces; in high caries 
group, DMFS increment was 1.64 ± 1.46; 53.6% children showed an increase of 1-2 caries surfaces. There were 
significant differences not only in the percentage increases of children with caries but also in the DMFS 
increment between the 2 groups (caries free and high caries children) (p<0.001). Multivariate logistic regression 
analysis revealed that “stimulated salivary pH 5.0-6.6” (p=0.037) and “amounts of Lactobacilli ≥ 105 CFU/ml” 
(p<0.001) were risk factors associated with high caries-level individuals. After one year, all related factors were 
analyzed with caries increment in multivariate logistic regression analysis: (1) “caries experience in permanent 
teeth” (OR 9.52; CI 95%: 3.45-26.29; p<0.001) and “poor salivary buffering capability” (OR 2.74; CI 95%: 1.07-
6.98; p<0.05) were significantly correlated with the increment of at least 1 DMFS; (2) “caries experience in 
permanent teeth” (OR 11.6; CI 95%: 3.32- 40.6; p<0.001) and “parents’ low income” (OR 3.78; CI 95%: 1.14-
12.51; p<0.05) were significantly correlated with the increment of at least 2 DMFS. 
Conclusion: “Caries experience in permanent teeth”, “poor salivary buffering capability” and “parents’ low 
income” were factors associated significantly with the increment of at least 1-2 DMFS after 1 year; and “caries 
experience in permanent teeth” had a very strong correlation with the caries increment among 9-10-year-old 
school children in Binh Chanh, Hochiminh city, Viet Nam (p<0.001). 
Keywords: Plaque pH, salivary viscosity, salivary pH, salivary flow, salivary buffering capability, 
Streptococcus mutans. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, ở Việt Nam tuy đã có nhiều cải 
thiện đáng kể trong tình hình sâu răng nhờ các 
chương trình chăm sóc răng miệng cộng đồng 
và phát triển hệ thống chăm sóc răng miệng cá 
nhân nhưng Liên đoàn Nha khoa quốc tế (FDI) 
vẫn cảnh báo nước ta về tỷ lệ trẻ em mắc bệnh 
sâu răng cao. Theo kết quả điều tra sức khỏe 
răng miệng toàn quốc năm 1999-2001, ở trẻ em 
9-11 tuổi tỉ lệ sâu răng là 56,3%, ở đồng bằng 
sông Cửu Long (bao gồm TP.HCM) có tỉ lệ sâu 
răng cao nhất: 93,7%. Thực tế hiện nay trên thế 
giới có sự phân bố lệch của bệnh sâu răng, mặc 
dù cùng hưởng lợi ích từ những chương trình 
Nha Học Đường nhưng vẫn có một nhóm đối 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 80
tượng có tỷ lệ sâu răng rất cao và tiến triển rất 
nhanh(6,21). Vì vậy, việc xác định nhóm đối tượng 
có nguy cơ sâu răng cao và các yếu tố tác động 
đến tình trạng này có thể giúp hướng đến việc 
xây dựng thêm những chương trình chăm sóc 
răng miệng đặc biệt cho nhóm nguy cơ bên cạnh 
các chương trình nha khoa cộng đồng. 
Ngoài ra, sâu răng tuy là một bệnh nhiễm 
khuẩn nhưng lại chịu ảnh hưởng phức tạp bởi 
nhiều yếu tố. Ở trẻ từ 9-11 tuổi, chỉ số SMT-MR, 
đặc biệt là sâu ở răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất 
là yếu tố lâm sàng cho giá trị tiên đoán sâu răng 
tương lai có ý nghĩa rất mạnh (Sanchez-Perez, 
2009(22)). Bên cạnh đó, các yếu tố sinh học như 
chỉ số mảng bám (Disney, 1992(6)), pH nước bọt, 
số lượng Streptococcus mutans (Tamaki, 2009(25)), 
Lactobacilli(8), vệ sinh răng miệng kém 
(Mascarenhas, 1998(15)), hoặc yếu tố thói quen 
chải răng và chế độ dinh dưỡng có đường 
(Vanobbergen, 2001(29)) cũng có liên hệ với nguy 
cơ sâu răng. Nhiều nghiên cứu khi đánh giá các 
yếu tố môi trường sống như khu vực không 
thêm fluor vào nước (Batchelor, 2006 (3)), nơi cư 
trú (Jeppersen, 2006 (11)) hay yếu tố kinh tế-xã hội 
như trình độ học vấn của cha mẹ kém (Beighton, 
1996 (4)), hoàn cảnh gia đình thu nhập thấp 
(Jeppersen và Foldspang, 2006 (11)) cũng phát 
hiện đây là những yếu tố làm tăng nguy cơ sâu 
răng cao ở độ tuổi 6-12. Tuy nhiên, bệnh sâu 
răng là một quá trình động luôn biến đổi một 
cách phức tạp trong đó các yếu tố trực tiếp và 
gián tiếp gây bệnh tạo ra những ảnh hưởng lẫn 
nhau, dẫn đến một yếu tố có thể không ảnh 
hưởng đến sâu răng ở người này nhưng lại là 
yếu tố nguy cơ ở người khác(8). Đồng thời tác 
động riêng của từng yếu tố và hiệu quả phối 
hợp chung của tất cả yếu tố có thể khác nhau ở 
những cá thể hay nhóm dân số khác nhau, vì 
vậy các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ sâu răng 
cũng rất thay đổi ở các nghiên cứu khác nhau. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả sự thay đổi về tình trạng sâu răng sau 
một năm ở hai nhóm học sinh 9-10 tuổi tại 
Trường Tiểu Học Nguyễn Văn Trân, Xã Đa 
Phước, Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí 
Minh có sâu răng thấp và sâu răng cao. 
Đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố ảnh 
hưởng trên đến sự thay đổi sâu răng sau một 
năm của học sinh trong nghiên cứu. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu 
149 học sinh 9-10 tuổi (lớp 3 và lớp 4) trường 
Tiểu Học Nguyễn Văn Trân, xã Đa Phước, 
huyện Bình Chánh, TP.HCM tham gia nghiên 
cứu được chia 2 nhóm: nhóm 1 (sâu răng thấp 
hay không sâu răng: không có xoang sâu răng 
vĩnh viễn và có từ 1 xoang sâu răng sữa trở 
xuống) có 52 học sinh và nhóm 2 (nhóm sâu 
răng cao: có từ 2 xoang sâu răng vĩnh viễn trở 
lên và từ 3 xoang sâu răng sữa trở lên) có 97 học 
sinh. 
Các biến số nghiên cứu và cách đánh giá 
Khám lâm sàng đánh giá tình trạng răng 
miệng và khám tái đánh giá sau 1 năm. 
Khám sâu răng: ghi nhận sâu răng sớm ở 
men (đốm đục, màu trắng hoặc nâu, lỗ rỗ) và 
xoang sâu có lỗ (theo WHO, 1997). 
Khảo sát tình trạng vệ sinh răng miệng theo 
chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản (OHI-S). 
Khám tái đánh giá sau 1 năm với cùng tiêu 
chí và cùng nhóm 3 điều tra viên. 
Đánh giá cận lâm sàng các yếu tố ảnh hưởng 
sâu răng ở thời điểm đầu tiên. 
Mảng bám: dùng bộ thử nghiệm Plaque-Check 
+ pH (hãng GC) ghi nhận pH của mảng bám. 
Nước bọt: dùng bộ thử nghiệm Saliva-Check 
Buffer (hãng GC) ghi nhận độ nhớt và độ pH 
của nước bọt không kích thích và lưu lượng, độ 
pH, khả năng đệm của nước bọt kích thích. 
Vi khuẩn: dùng bộ thử nghiệm CRT® 
Bacteria (hãng Vivadent) ghi nhận số lượng 
khúm Mutans streptococci và Lactobacilli. 
Thu thập thông tin về các yếu tố khác ảnh 
hưởng sâu răng qua bảng câu hỏi: số lần sử 
dụng thức ăn có đường và axít trong ngày; có 
hay không sử dụng kem đánh răng có fluor; số 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 81
lần chải răng trong ngày; trình độ học vấn và 
thu thập của cha và của mẹ học sinh. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Thống kê mô tả: tính tỷ lệ % sâu răng, tỷ lệ 
% học sinh theo từng yếu tố ảnh hưởng, trung 
bình SMT-R và SMT-MR. 
Thống kê suy lý: kiểm định 2 để phân tích 
riêng phần từng yếu tố và phân tích hồi quy 
logic để đánh giá liên quan của tất cả yếu tố đối 
với sự thay đổi sâu răng sau một năm. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Tình trạng sâu răng vĩnh viễn sau 1 năm ở 
2 nhóm học sinh sâu răng thấp và cao 
Nghiên cứu chỉ tập trung mô tả và phân tích 
sự thay đổi sâu răng ở hệ răng vĩnh viễn của trẻ 
9-10 tuổi ở hai thời điểm năm 2010 và năm 2011. 
Ở hai thời điểm này, chúng tôi ghi nhận trung 
bình SMT-R của 149 học sinh trong nghiên cứu 
lần lượt là 0,85 và 1,58; SMT-MR là 1,07 và 2,54. 
Riêng nhóm sâu răng cao, ở hai thời điểm trung 
bình SMT-R là 1,31 và 2,13; SMT-MR là 1,65 và 
3,29 (Bảng 1). Sự khác biệt về SMT-R và SMT-
MR sau một năm giữa hai thời điểm nghiên cứu 
là có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,001). 
Bảng 1: Trung bình SMT-R và SMT-MR của học 
sinh trong nghiên cứu năm 2010 và năm 2011. 
 Năm 2010 
(TB±ĐLC) 
Năm 2011 
(TB±ĐLC) 
p 
Nhóm 2 
SMT-R 1,31 ±1,36 2,13 ± 1,68 < 0,001 
SMT-MR 1,65 ± 1,72 3,29 ± 2,38 < 0,001 
Mẫu NC 
SMT-R 0,85 ± 1,26 1,58 ± 1,65 < 0,001 
SMT-MR 1,07 ± 1,59 2,54 ± 2,38 < 0,001 
Kiểm định t bắt cặp 
Sự thay đổi SMT-R và SMT-MR của học 
sinh sau một năm 
Ở nhóm sâu răng thấp, trung bình SMT-R và 
SMT-MR lần lượt tăng sau một năm là 0,56 và 
1,15. Ở nhóm sâu răng cao, trung bình SMT-R và 
SMT-MR lần lượt tăng sau một năm là 0,82 và 
1,64 (Bảng 2). Không có sự khác biệt về mức độ 
gia tăng sâu mất trám giữa hai nhóm (p>0,05). 
Bảng 2: Sự gia tăng SMT-R và SMT-MR sau một 
năm giữa hai nhóm 1 và 2. 
 NHÓM 1 
(TB±ĐLC) 
NHÓM 2 
 (TB±ĐLC) 
p 
SMT-R 0,56 ± 0,978 0,82 ± 0,924 0,885 
SMT-MR 1,15 ± 1,661 1,64 ± 1,459 0,378 
Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập 
Sau một năm, có 25% học sinh có tăng từ 1-2 
SMT-MR ở nhóm sâu răng thấp và 53,6% học 
sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR ở nhóm sâu răng 
cao (Bảng 3). Tỷ lệ tăng sâu răng ở nhóm 1 so 
với nhóm 2 có khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05). 
Bảng 3: Đặc điểm các mức độ tăng SMT-MR 
(SMT-MR) sau một năm ở hai nhóm 1 và 2. 
SMT-MR NHÓM 1 
n (%) 
NHÓM 2 
n (%) 
Tổng 
N (%) 
p 
Không tăng 
(SMT-MR=0) 
28 (53,8) 24 (24,7) 52 (34,9) 
Tăng trung bình 
(1 SMT-MR  2) 
13 
(25) 
52 
(53,6) 
65 
(43,6) 
Tăng cao 
(SMT-MR ≥ 3) 
11 (21,2) 21 (21,7) 32 (21,5) 0,01 
Kiểm định 
Học sinh ở nhóm sâu răng cao ban đầu có 
nguy cơ tăng một và hai mặt răng sâu mới sau 
một năm gấp 3,55 lần (KTC 95%: 1,74-7,25) và 
3,66 lần (KTC 95%: 1,65-8,11) so với nhóm học 
sinh có sâu răng thấp ban đầu (Bảng 4). 
Bảng 4: Sự thay đổi SMT-MR (tăng tối thiểu 1 
SMT-MR và tăng tối thiểu 2 mặt răng SMT-MR) 
sau một năm ở hai nhóm 1 và 2. 
 NHÓM 1 
n (%) 
NHÓM 2 
n (%) 
OR (KTC 
95%) 
p 
Không tăng SMT-
MR 
28 (53,8) 
24 (46,2) 
3,55 
(1,74-
7,25) 
<0,001 
Tăng ≥1 SMT-MR 24 (24,7) 73 (75,3) 
Không tăng SMT-
MR 
28 (53,8) 
24 (46,2) 
3,66 
(1,65-
8,11) 
0,001 
Tăng ≥2 SMT-MR 15 (24,2) 47 (75,8) 
Kiểm định 
Mức độ thay đổi SMT của nghiên cứu gần 
tương đồng với các trẻ cùng độ tuổi sống trong 
vùng không thêm fluor vào nước ở Hoa Kỳ(6), 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 82
nhưng cao hơn ở Mexico(28) và thấp hơn ở 
Braxin, Na Uy(5), Phần Lan(21) và ở quận Bình 
Tân(26). 
Nguy cơ tăng SMT-MR sau 1 năm ở học 
sinh 9-10 tuổi trong nghiên cứu 
Nhiều tác giả đồng ý rằng một trong những 
yếu tố tiên đoán sâu răng tương lai tốt nhất 
chính là sự hiện diện của sâu răng hiện tại hoặc 
những bằng chứng của sâu răng trong quá khứ 
dưới dạng miếng trám (Powell, 1998(19); Vallejos-
Sanchez, 2006(28)). Kết quả nghiên cứu ở Bảng 5 
và 6 cho thấy yếu tố này có liên quan rất mạnh 
với nhóm học sinh có tăng thêm tối thiểu một và 
hai mặt răng sâu mất trám mới sau một năm 
trong cả phân tích riêng từng yếu tố cũng như 
trong phân tích hồi quy (OR: 9,52 và OR: 11,6). 
Giá trị này cao hơn so với nghiên cứu của 
Kassawara (2010) khi theo dõi sâu răng hai năm 
ở trẻ cùng tuổi tại Braxin (OR: 2,96)(12); nhưng 
thấp hơn so với nghiên cứu của Trần Thị Bích 
Vân (2006) ở trẻ 12 tuổi tại TPHCM (OR: 98)(26). 
Trong các yếu tố nước bọt, nghiên cứu ghi 
nhận chỉ có yếu tố khả năng đệm của nước 
bọt là yếu tố duy nhất có nguy cơ thật sự làm 
trẻ tăng tối thiểu một sang thương sâu răng 
mới sau 1 năm (OR: 2,74) (Bảng 5). Gần đây, 
có những nghiên cứu đánh giá nguy cơ sâu 
răng cho thấy những yếu tố nước bọt này có 
khả năng dự đoán sâu răng khá yếu (Preethi, 
2010(20); Raitio, 2002(21)). Tuy vậy, nghiên cứu 
lại tìm thấy giá trị của khả năng đệm nước bọt 
trong nguy cơ tăng sâu răng, rất tương đồng 
quan điểm khả năng đệm của nước bọt có 
tương quan nghịch với sự trầm trọng sâu răng 
của Erissson (1959) hay Trần Thị Bích 
Vân (2006)(26). 
Về đánh giá vi khuẩn, số lượng Mutans 
streptococci và Lactobacilli không cho thấy giá 
trị tiên đoán nguy cơ trong diễn tiến bệnh sâu 
răng tương lai tương tự trong nghiên cứu của 
Sanchez-Perez (2009)(22). Tác giả Marsh (2009) 
cho rằng do vai trò của vi khuẩn đặc hiệu gây 
sâu răng có thể mờ nhạt hơn khi bệnh đã trầm 
trọng và có sự hiện diện của các loại vi khuẩn 
khác(14). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu dọc tiên 
đoán sâu răng trong tương lai khi kết hợp số 
lượng Streptococcus mutans, Lactobacilli và một 
số yếu tố khác trong mô thức tiên đoán sâu răng 
thì giá trị tiên đoán đạt khá tốt(13). Đồng thời số 
lượng vi khuẩn tăng theo độ tuổi(9), nên cũng 
cần theo dõi định kỳ yếu tố này nhằm phát hiện 
sớm và có biện pháp dự phòng sâu răng kịp 
thời. 
Hai yếu tố thuộc mảng bám được ghi nhận 
là tình trạng vệ sinh răng miệng và pH mảng 
bám đều không thể hiện là yếu tố nguy cơ làm 
cho trẻ tăng sâu răng sau một năm. Dù không 
thể phủ nhận rằng mảng bám răng là một 
nguyên nhân tại chỗ trực tiếp gây bệnh sâu 
răng, nhưng không phải tất cả các nghiên cứu 
dọc đều chứng minh được vệ sinh răng miệng 
kém làm tăng sâu răng, hoặc ngược lại kiểm soát 
mảng bám tốt làm giảm sâu răng(15,2). Tuy nhiên 
cần chú ý mối tương quan giữa sự gia tăng sâu 
răng và số lần chải răng có thể còn chịu các ảnh 
hưởng khác như tiếp xúc với kem đánh răng có 
fluor, khả năng chải sạch mảng bám của 
từng người... 
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên 
cứu cho thấy không có hay ít có mối liên hệ giữa 
sự gia tăng sâu răng và lượng đường tiêu thụ ở 
các nước công nghiệp. Kleemola-Kuijala 
(1982)(26) đã chứng minh rằng khi lượng đường 
tiêu thụ gia tăng, sâu răng sẽ gia tăng có ý nghĩa 
chỉ đồng thời khi vệ sinh răng miệng kém. Với 
tỷ lệ học sinh có vệ sinh răng miệng kém chiếm 
khoảng 23% trong nghiên cứu, yếu tố “chế độ 
ăn có đường ≥ 3 lần/ngày” không là yếu tố nguy 
cơ thật sự trong các phân tích tổng hợp đa yếu 
tố. 
Các yếu tố kinh tế- xã hội như trình độ học 
vấn của phụ huynh, thu nhập bình quân/ đầu 
người trong gia đình phản ánh phần nào môi 
trường giáo dục và điều kiện sống xung quanh 
trẻ về tinh thần cũng như vật chất. Trong nghiên 
cứu, yếu tố “thu nhập của cha/mẹ thấp” là một 
yếu tố lượng giá nguy cơ có ý nghĩa (OR: 3,78 ; 
p<0,05) thứ hai sau yếu tố “tiền sử sâu răng cao” 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 83
ở nhóm trẻ có tăng hai mặt răng sâu sau một 
năm (Bảng 6). Aleksejuniene (2009) tổng kết các 
tài liệu nghiên cứu cũng đưa ra nhận xét rằng 
các yếu tố xã hội và tình trạng sâu răng quá khứ 
là yếu tố tiên đoán mạnh nhất của nhóm nguy 
cơ sâu cao trong khi các yếu tố khác chỉ góp 
phần thứ yếu(1). Ngoài ra, Petersen (2008) ghi 
nhận học vấn và thu nhập cao của cha mẹ là yếu 
tố