Thị trường chứng khoán (TTCK) có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế mỗi nước, là kênh huy động vốn hữu hiệu cho Chính phủ và
doanh nghiệp, cung cấp môi trường đầu tư cho các chủ thể tham gia
và là phong vũ biểu phản ánh sức khỏe của nền kinh tế và doanh
nghiệp. Sau hơn 17 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc và phát huy tốt chức năng và vai trò của
mình. Năm 2017, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong
nước có nhiều thuận lợi1, TTCK đã có bước tăng trưởng vượt bậc,
được xem là một năm đáng nhớ đối với TTCK Việt Nam.
Bài viết giới thiệu đôi nét về sự phát triển TTCK Việt Nam thời gian
qua, các hạn chế và nguyên nhân cũng như đề xuất các khuyến nghị
thúc đẩy sự phát triển TTCK.
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thị trường chứng khoán Việt Nam 2017- Con số, sự kiện và khuyến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
16
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2017-
con số, sự kiện và khuyến nghị
VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN
Nguyễn Thanh Phương
Ngày nhận: 02/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 01/02/2018 Ngày duyệt đăng: 06/02/2018
Thị trường chứng khoán (TTCK) có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế mỗi nước, là kênh huy động vốn hữu hiệu cho Chính phủ và
doanh nghiệp, cung cấp môi trường đầu tư cho các chủ thể tham gia
và là phong vũ biểu phản ánh sức khỏe của nền kinh tế và doanh
nghiệp. Sau hơn 17 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc và phát huy tốt chức năng và vai trò của
mình. Năm 2017, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong
nước có nhiều thuận lợi1, TTCK đã có bước tăng trưởng vượt bậc,
được xem là một năm đáng nhớ đối với TTCK Việt Nam.
Bài viết giới thiệu đôi nét về sự phát triển TTCK Việt Nam thời gian
qua, các hạn chế và nguyên nhân cũng như đề xuất các khuyến nghị
thúc đẩy sự phát triển TTCK.
Từ khóa: thị trường chứng khoán, Việt Nam, năm 2017
1. Phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam
rong bối cảnh tình hình kinh tế,
tài chính thế giới và trong nước
dần phục hồi kể từ sau đợt khủng
hoảng năm 2007-2008, nền kinh
tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng
tốt, theo đó TTCK Việt Nam đã có những bước
phát triển ấn tượng.
Về quy mô vốn hóa thị trường: Với sự gia tăng
về số lượng công ty niêm yết, số lượng cổ phiếu
niêm yết bổ sung cũng như sự gia tăng của thị
giá cổ phiếu đã giúp quy mô TTCK có sự tăng
trưởng cao nhất kể từ khi TTCK Việt Nam hoạt
động.
Trong suốt thời kỳ từ 2000- 2005, vốn hóa
TTCK chỉ đạt trên dưới 1% GDP, đến nay quy
mô TTCK Việt Nam đã đạt gần 100% GDP.
Trong đó, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu
đạt gần 3.360 nghìn tỷ đồng, tăng 73% so với
cuối năm 2016, tương đương 74,6% GDP, vượt
1 Năm 2017, kinh tế thế giới tăng trưởng tốt ở mức 3,5%, tăng nhẹ so với mức 3,2% năm 2016 và tăng trưởng
thương mại toàn cầu đạt mức 3,6%, cao hơn mức tăng 1,3% của năm 2016 (WTO), tăng trưởng GDP của Việt
Nam năm 2017 đạt mức 6,8%, CPI được kiểm soát dưới mức mục tiêu 4%; kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng
mạnh; tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định; mặt bằng lãi suất được duy trì ở mức thấp; tín dụng được đẩy mạnh,
hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh
17
XUÂN MẬU TUẤT
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
chỉ tiêu đặt ra cho năm 2020. Mức vốn hóa thị
trường trái phiếu đạt tương đương 23% GDP
với giá trị trái phiếu niêm yết đạt 1.015 nghìn tỷ
đồng, tăng 8% so với cuối năm 2016.
Về chỉ số chứng khoán và giá trị giao dịch:
Năm 2017 là năm khởi sắc của TTCK với giá
trị giao dịch cổ phiếu bình quân mỗi phiên đạt
cao nhất trong giai đoạn 2011-2017.
Thị trường cổ phiếu: Tổng giá trị giao dịch bình
quân cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đạt gần 4.981 tỷ
đồng/phiên, tăng 62% so với bình quân năm
2016.
Thị trường trái phiếu: Tổng giá trị giao dịch
bình quân trái phiếu đạt hơn 8.890 tỷ đồng/
phiên, tăng 38% so với bình quân năm 2016.
Thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) tiếp
tục có bước phát triển mạnh về chiều sâu, giá
trị giao dịch repo tăng 72% so với năm 2016 và
chiếm 48% tổng giao dịch toàn thị trường trái
phiếu.
Thị trường chứng khoán phái sinh: Sau gần 04
tháng khai trương và đi vào hoạt động từ ngày
10/8/2017, TTCK phái sinh (TTCKPS) đã có
sự tăng trưởng về cả khối lượng hợp đồng, giá
trị giao dịch. Quy mô giao dịch TTCKPS ngày
càng tăng, thể hiện sức hút lớn của TTCKPS.
Tổng khối lượng giao dịch đạt 946.326 hợp
đồng, tương ứng với tổng giá trị giao dịch theo
quy mô danh nghĩa hợp đồng đạt 80.899 tỷ
đồng. Tính bình quân, khối lượng giao dịch
đạt 10.399 hợp đồng/ngày và giá trị giao dịch
theo quy mô danh nghĩa hợp đồng đạt 889 tỷ
đồng/phiên. Bình quân phiên mỗi tháng tăng
51% về khối lượng hợp đồng và 59% về giá trị
giao dịch. Khối lượng mở (OI) toàn thị trường
tiếp tục tăng mạnh. Khối lượng OI của toàn thị
trường đạt 6.796 hợp đồng, tăng gấp 3,14 lần so
với cuối tháng 8/2017.
Về chỉ số chứng khoán: Cùng với sự gia tăng
của giá trị giao dịch, chỉ số chứng khoán có sự
tăng trưởng khá mạnh trong thời gian qua. Năm
2017, chỉ số VN-Index đạt đỉnh cao 984,24
điểm (ngày 29/12/2017), tăng 48,03% so với
năm 2016 và tiến sát gần với mức cao nhất tính
Nguồn:hsx.vn; hnx.vn và báo cáo tổng kết của UBCKNN
Hình 1. Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán
Hình 2. Giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên
Nguồn:hsx.vn; hnx.vn và báo cáo tổng kết của UBCKNN
18
CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
từ khi TTCK Việt Nam hoạt động, chỉ số HN-
index tăng 45,85% so với năm 2016, cả 2 chỉ số
đều đạt mức cao nhất trong vòng 7 năm qua.
Về hoạt động niêm yết và đăng ký giao dịch:
Số lượng công ty mới niêm yết và đăng ký giao
dịch có xu hướng tăng mạnh. Năm 2017 tăng
54,7% so với năm 2016 và
tăng 324% so với năm 2011
(Bảng 1). Điều này xuất phát
từ chủ trương cổ phần hóa
doanh nghiệp gắn với niêm
yết và đăng ký giao dịch
cũng như sự thuận lợi của
TTCK thúc đẩy việc niêm yết
và đăng ký giao dịch của các
doanh nghiệp.
Với sự gia tăng của các
doanh nghiệp niêm yết và
đăng ký giao dịch mới đã
góp phần giúp TTCK có quy
mô vốn hóa lớn và số lượng
doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch
toàn thị trường cao nhất trong 5 năm qua (Bảng
1). Hiện có 731 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm
yết trên 2 sàn và 679 cổ phiếu đăng ký giao
dịch (ĐKGD) trên UPCoM với tổng giá trị niêm
yết, ĐKGD đạt gần 959 nghìn tỷ đồng, tăng
Hình 3. Biến động chỉ số VN Index và HN index
Nguồn:hsx.vn và hnx.vn
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch mới
Đơn vị: doanh nghiệp
Sàn giao dịch Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
HSX HSX 30 15 4 10 19 24 25
HNX
HNX 29 14 11 14 30 15 21
UPCoM 15 7 13 36 93 165 268
Toàn thị trường 74 36 28 60 142 204 314
Nguồn:hsx.vn và hnx.vn
Bảng 2. Số lượng công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và số lượng mã trái phiếu niêm yết
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Cổ phiếu
HSX 301 308 301 305 307 320 345
HNX
HNX 393 397 377 365 377 376 386
UPCoM 131 134 142 169 256 417 679
Trái phiếu HSX 45 39 38 38 39 35 36
HNX 612
Chứng chỉ
quỹ
HSX 5 6 2 1 1 2 3
HNX 0 0 0 1 1 0 0
HĐTL
HSX
HNX 0 0 0 0 0 0 4
Nguồn: hsx.vn và hnx.vn
19
XUÂN MẬU TUẤT
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
30% so với cuối năm 2016. Số
lượng mã trái phiếu niêm yết hiện
tại là 612 mã trái TPCP niêm yết
ở HNX, 36 mã trái phiếu doanh
nghiệp (TPDN) niêm yết ở HSX.
Một sự kiện khá nổi bật trong
năm 2017 là sự kiện chuyển sàn
niêm yết từ HNX sang HSX của
chứng chỉ quỹ E1SSHNX30 (ngày
24/10/2017, quỹ ETF SSIAM VNX 50 chính
thức niêm yết với mã FUESSV50) và sự kiện
niêm yết của hợp đồng tương lai chỉ số VN30
(ngày 10/8/2017 giao dịch 4 loại hợp đồng
tương lai).
Hoạt động huy động vốn: Vốn huy động trên
TTCK năm 2017 đạt thấp nhất trong giai đoạn
2014-2017. Tổng mức huy động trên TTCK đạt
hơn 224 nghìn tỷ đồng (bằng 64% năm 2016,
57,4% năm 2014), trong đó đấu thầu TPCP đạt
hơn 182 nghìn tỷ đồng, phát hành cổ phiếu,
TPDN đạt hơn 40 nghìn tỷ đồng và đấu giá cổ
phần hóa qua 2 Sở đạt gần 2,2 nghìn tỷ đồng.
Đối với hoạt động đấu giá cổ phần, thoái vốn
và đấu thầu trái phiếu: 2 Sở Giao dịch chứng
khoán đã tổ chức 68 phiên đấu giá với tổng giá
trị gần 14,8 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ thành công
đạt 91%; trong đó 17 đợt đấu giá cổ phần hóa
(IPO) với tổng giá trị đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, tỷ
lệ thành công đạt 82%; 51 đợt đấu giá thoái vốn
Nhà nước với tổng giá trị đạt hơn 12,6 nghìn
tỷ đồng, tỷ lệ thành công đạt 92%. Hai sự kiện
khá nổi bật trong năm 2017 là sự kiện bán vốn
nhà nước của Công ty cổ phần Sữa Vinamilk và
Tổng Công ty Bia- Rượu- Nước giải khát Sài
Gòn (Sabeco), đã gây tiếng vang trên thế giới
và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên
thị trường quốc tế. Số lượng vốn thu được khi
bán bớt vốn Nhà nước tại 2 công ty này khá
cao, đạt 109.000 tỷ đồng đối với trường hợp
bán vốn tại Sabeco và 20.000 tỷ đồng đối với
trường hợp bán vốn tại Vinamilk (Bảng 3).
Đối với đấu thầu TPCP, năm 2017 tiếp tục
chứng kiến những thành công trong huy động
vốn qua đấu thầu trái phiếu. Tổng khối lượng
TPCP huy động được đạt 189 nghìn tỷ đồng,
riêng Kho bạc Nhà nước huy động được 158
nghìn tỷ đồng. Mặc dù kế hoạch phát hành của
các tổ chức phát hành đều giảm nhưng tỷ trọng
trái phiếu kỳ hạn dài tăng lên (kỳ hạn bình quân
TPCP do Kho bạc Nhà nước phát hành là 14,02
năm, dài hơn 5,7 năm so với mức bình quân
năm 2016) và lãi suất huy động tiếp tục giảm,
trong đó các kỳ hạn dài từ 15- 30 năm có mức
giảm mạnh nhất.
Hoạt động của công ty chứng khoán và công ty
quản lý quỹ đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán:
Hoạt động tái cấu trúc TTCK của UBCKNN và
của chính bản thân các công ty chứng khoán
(CTCK) đã giúp các CTCK đã nâng cao hơn về
quản trị rủi ro, tuân thủ pháp luật ngày càng tốt
hơn, dịch vụ cho khách hàng ngày càng được
cải thiện, đảm bảo các phiên giao dịch được vận
hành suôn sẻ. Tính đến thời điểm hiện tại, số
lượng CTCK hoạt động bình thường là 76, giảm
khá nhiều so với thời điểm năm 2011 (Hình 5).
Tính đến hết Quý III/2017, tổng lợi nhuận sau
thuế của các CTCK đạt 4.290 tỷ đồng (gấp 1,6
lần tổng giá trị lãi của cả năm 2016), trong đó
58 công ty lãi 4.401 tỷ đồng và 23 công ty lỗ
111 tỷ đồng.
Tính đến hết tháng 11/2017, thị trường có
Hình 4. Vốn huy động qua TTCK
Nguồn: tác giả tổng hợp từ báo cáo của UBCKNN
Bảng 3. Thông tin về chào bán cổ phần của Vinamilk và Sabeco
Công ty Thời điểm chào bán
Số lượng cổ phần chào
bán (triệu cổ phần)
Giá bán thấp nhất
(1.000 VNĐ)
Tổng vốn huy
động (tỷ VNĐ)
Công ty Sabeco 18/12/17 343,3 320 109.000
Công ty Vinamilk 11/2017 (2 đợt) 126,7 144 và 186 20.000
Nguồn: Báo cáo kết qua chào báo của Vinamilk và Sabeco
20
CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
45 công ty quản lý quỹ đang hoạt động bình
thường và 04 công ty đang trong diện tái cấu
trúc (01 công ty chấm dứt hoạt động, 01 công ty
đang giải thể, 01 công ty tạm ngừng hoạt động
và 01 công ty kiểm soát đặc biệt). Bên cạnh đó,
một số công ty quản lý quỹ vẫn đang tiếp tục tự
tái cấu trúc nội bộ thông qua việc thay đổi cơ
cấu cổ đông, ban quản trị, điều hành, nhân sự
chủ chốt hoặc cơ cấu lại hoạt động kinh doanh
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, từng bước
chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa các dịch vụ
cung cấp theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Tính đến hết Quý 3/2017, tổng lợi nhuận của cả
ngành quản lý quỹ đạt 255 tỷ đồng, trong đó 27
công ty lãi 274 tỷ đồng và 19 công ty lỗ 18,7 tỷ
đồng.
Trong năm 2017, đã có 07 quỹ được thành lập
mới (gồm 03 quỹ thành viên và 04 quỹ mở),
nâng tổng số quỹ đầu tư đang hoạt động lên
35 quỹ (gồm 22 quỹ mở, 02 quỹ ETF, 01 quỹ
bất động sản, 01 quỹ đóng, 09 quỹ thành viên).
Cùng với sự phát triển thuận lợi của TTCK, các
quỹ đầu tư cũng có những bước tăng trưởng
khả quan trong thời gian qua. Tính đến ngày
30/11/2017, NAV của các quỹ đạt 13.699 tỷ
đồng, tăng 76% so với thời điểm cuối năm
2016. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân của một
chứng chỉ quỹ trong năm 2017 so với cuối năm
2016 đạt 24%. Trong đó, có một số quỹ có tỷ
lệ tăng trưởng ấn tượng đạt xấp xỉ 50%. Cơ cấu
đầu tư của các quỹ chủ yếu vẫn tập trung vào
các loại tài sản ít rủi ro và có tính thanh khoản
như cổ phiếu niêm yết 44%, trái phiếu 19% và
tiền 24%.
Sự tham gia của nhà đầu tư: Sự khởi sắc của
TTCK đã thu hút sự tham gia khá nhiều của
nhà đầu tư (NĐT). Số lượng tài khoản của NĐT
tiếp tục gia tăng, đạt 1,9 triệu tài khoản, tăng
11% so với cuối năm 2016 (trong đó tài khoản
NĐT nước ngoài là 19.537, tăng 14,3%). Trong
năm 2017, TTCK chứng kiến sự quay trở lại
của NĐTNN với việc mua ròng gần 26 nghìn
tỷ đồng cổ phiếu (năm 2016, NĐTNN bán ròng
6.821 tỷ đồng). Giá trị danh mục của NĐTNN
tăng mạnh, tính đến cuối tháng 11/2017 tăng
81,3% so với cuối năm 2016.
Nguồn:Báo cáo tổng kết của UBCKNN
Hình 5. Số lượng CTCK hoạt động trên TTCK Việt Nam
Hình 6. Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư
Nguồn:vsd.vn và tác giả tổng hợp từ các báo cáo của UBCKNN
21
XUÂN MẬU TUẤT
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Riêng đối với TTCKPS, mặc dù mới hoạt động
từ tháng 8/2017 nhưng số lượng tài khoản giao
dịch liên tục tăng. Đến nay đã có 15.808 tài
khoản giao dịch chứng khoán phái sinh được
mở, gấp đôi so với cuối tháng 8/2017.
2. Hạn chế trong phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam và một số nguyên nhân
Thứ nhất, quy mô vốn hóa của TTCK Việt Nam
vẫn thấp hơn một số nước trong khu vực. Mặc
dù quy mô vốn hóa của thị trường tăng trưởng
khá ấn tượng trong thời gian qua nhưng giá trị
vốn hóa của thị trường vẫn thấp hơn một số
nước trong khu vực như Singgapore (khoảng
664.2 tỷ USD), Thái Lan (412,5 tỷ USD), Hồng
Kông (3.212 tỷ USD).
Thứ hai, chỉ số chứng khoán và giá trị giao
dịch có tăng trưởng mạnh nhưng vẫn tiềm ẩn
nhiều biến động và có thể gây rủi ro cho NĐT.
Bên cạnh đó, thị trường TPCP tính thanh khoản
chưa cao.
Thứ ba, số lượng các sản phẩm phái sinh giao
dịch trên thị trường chưa nhiều. Thị trường phái
sinh mới có hợp đồng tương lai chỉ số VN30
được niêm yết.
Thứ tư, vốn huy động trên TTCK năm 2017 có
xu hướng giảm. Giá trị TPDN phát hành chiếm
tỷ lệ thấp (dưới 5% GDP). Bên cạnh đó, vẫn
còn nhiều đợt đấu giá khi cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) không thành công,
nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện thoái
vốn theo kế hoạch đề ra.
Thứ năm, mặc dù TTCK khởi sắc nhưng vẫn có
hơn 30% CTCK thua lỗ.
Thứ sáu, có nhiều NĐT mới tham gia thị trường
(bao gồm cả TTCKPS) nhưng hiểu biết về thị
trường và rủi ro chưa tốt, hiện tượng đầu tư
theo trào lưu vẫn hiện hữu.
Nguyên nhân của hạn chế trên phải kể đến là:
Thứ nhất, quá trình cổ phần hóa DNNN gắn
với niêm yết và đăng ký giao dịch chưa đạt
như kỳ vọng. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo và
đổi mới DNNN, nếu tính cả các doanh nghiệp
thuộc Bộ Quốc phòng, các đơn vị sự nghiệp thì
tính đến hết tháng 11/2017, cả nước đã cổ phần
hoá 43 DNNN (năm 2016, số lượng DNNN cổ
phần hóa là 55 doanh nghiệp). Hiện có trên 500
doanh nghiệp chưa đăng ký niêm yết giao dịch
trên sàn chứng khoán theo quy định.
Thứ hai, chỉ số chứng khoán có sự tăng trưởng
mạnh là tín hiệu đáng mừng, thể hiện sự kỳ
vọng của NĐT đối với nền kinh tế, đối với hoạt
động của các doanh nghiệp. Sự kỳ vọng này là
có cơ sở khi GDP tăng trưởng ngoạn mục với
mức tăng 6,8% và dự báo duy trì tăng trưởng
trên 6,3% trong 5 năm tiếp theo, kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp niêm yết có nhiều cải
thiện: Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp
niêm yết 9 tháng đầu năm 2017 có sự cải thiện
đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái cả về doanh
thu (tăng 18%), lợi nhuận (tăng 23%), ROA,
ROE đều cao hơn so với cùng kỳ với giá trị lần
lượt đạt 1,7% và 10,48%; và đặc biệt là dòng
vốn ngoại vào thị trường khá lớn. Tuy nhiên,
nếu sự kỳ vọng quá cao sẽ đẩy giá các cổ phiếu
tăng nhanh và khi có thay đổi của các yếu tố vĩ
mô và vi mô theo chiều hướng tiêu cực cũng
như sự rút vốn của dòng vốn ngoại dễ gây hiện
tượng bán tháo và giảm mạnh giá cổ phiếu. Bên
cạnh đó, hiện tượng thao túng giá, giao dịch của
người có liên quan sẽ tác động không nhỏ đến
xu thế biến động giá cổ phiếu.
Thứ ba, nhằm đảm bảo cho TTCKPS hoạt động
có hiệu quả, theo kinh nghiệm ở nhiều nước,
trong giai đoạn đầu thị trường mới hoạt động,
hàng hóa cho thị trường chỉ nên tập trung vào
một số sản phẩm cơ bản nhằm tạo thói quen và
hiểu biết cho nhà đầu tư cũng như các tổ chức
có liên quan Do vậy, trong giai đoạn đầu
TTCKPS, Việt Nam mới có sản phẩm là hợp
đồng tương lai đối với chỉ số VN30.
Thứ tư, một trong yếu tố quyết định thành công
của doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu là
phải có dự án khả thi. Nếu thiếu dự án khả thi
để thuyết phục NĐT mua cổ phiếu thì đợt phát
hành khó thành công. Đây là một trong yếu tố
dẫn đến sự cân nhắc của doanh nghiệp khi sử
dụng công cụ phát hành cổ phiếu để huy động
vốn. Bên cạnh đó, việc phát hành TPDN chưa
nhiều bởi sự hiểu biết và động cơ đầu tư của
NĐT cá nhân đối với TPDN chưa cao, minh
bạch thông tin của các doanh nghiệp còn hạn
chế, các NĐT khó khăn trong đánh giá rủi ro
của trái phiếu phát hành, chưa có tổ chức xếp
hạng tín nhiệm độc lập và chưa có quy định
22
CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có xếp
hạng tín nhiệm nên NĐT khó có thể nhận diện
rủi ro và so sánh các cơ hội đầu tư để ra quyết
định đầu tư.
Ngoài ra, việc thoái vốn doanh nghiệp chậm so
với kế hoạch ngoài lý do việc tìm đối tác phù
hợp còn có lý do liên quan đến ý muốn chủ
quan của doanh nghiệp, của cơ quan chủ quản.
Thứ năm, mặc dù đã có nhiều cải thiện nhưng
hoạt động quản trị của CTCK, chất lượng
nguồn nhân lực và cơ sở vật chất của nhiều
CTCK vẫn chưa đáp ứng với nhu cầu và sự
thay đổi của thị trường. Tuy số lượng CTCK đã
giảm, nhưng so với quy mô TTCK một số quốc
gia trong khu vực, thì số lượng CTCK ở Việt
Nam vẫn khá lớn, trong khi giá trị vốn hóa chưa
cao. Điều này dẫn đến sự thua lỗ của CTCK yếu
kém là không thể tránh khỏi.
3. Một số khuyến nghị phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam thời gian tới
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần
hóa DNNN gắn với niêm yết và đăng ký giao
dịch. Lộ trình và kế hoạch cổ phần hóa, thoái
vốn DNNN cần được tiến hành bài bản và
chuyên nghiệp. Việc định giá và tìm người mua
cần phải thực hiện đồng thời và khéo léo, cách
thức lựa chọn đơn vị tư vấn, lựa chọn địa điểm
thực hiện giới thiệu thông tin về doanh nghiệp
và thông tin liên quan đến chào bán, phương
thức cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư
là những bài học giúp cho quá trình cổ phần
hóa, thoái vốn thành công. Hy vọng rằng, các
doanh nghiệp có thị phần và lợi nhuận lớn như
Habeco, Petrolimex, ACV, VEAM, Vigacera,
CC1, Lilama, Vinapharm, Hanel, Đài Truyền
hình cáp Việt Nam, Tổng công ty Phát triển
Nhà và Đô thị sẽ thực hiện cổ phần hóa và
thoái vốn thành công trong năm 2018 với giá
bán cao, thu hút NĐT là các đối tác có uy tín và
tiềm lực mạnh.
Thứ hai, tiếp tục duy trì sự ổn định kinh tế vĩ
mô, kiểm soát lạm phát và sự phát triển ổn
định của TTCK. Để thực hiện điều này đòi hỏi
sự chỉ đạo quyết liệt từ Chính phủ nhằm đảm
bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền
tệ chủ động, linh hoạt với chính sách tài khóa
chặt chẽ, kỷ luật, kỷ cương và các chính sách
khác, khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi
cho các doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, khởi
nghiệp và tăng năng suất lao động. Chính phủ
sớm phê duyệt và thực hiện đồng bộ tất cả các
đề án, kế hoạch cơ cấu lại ngành, lĩnh vực trọng
tâm nhằm đảm bảo sự phát triển hợp lý của các
ngành và gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Bên cạnh đó, UBCKNN cần sớm hoàn thiện
các góp ý về sửa đổi Luật Chứng khoán nhằm
đảm bảo Luật Chứng khoán sửa đổi đồng bộ
và thống nhất với các luật liên quan nhằm
phát triển bền vững TTCK. Đồng thời ban
hành đồng bộ các quy định mới về giao dịch,
công bố thông tin, quản trị công ty, niêm yết
và đăng ký giao dịch. Bổ sung, hoàn thiện các
cơ chế, chính sách (bao gồm cả chính sách
tài chính, chính sách thuế) theo hướng hỗ trợ
các thị trường bộ phận, phát triển hiệu quả thị
trường TPDN, TTCKPS mà không vi phạm
các cam kết hội nhập. Ngoài ra, UBCKNN cần
đẩy mạnh quá trình thanh tra, giám sát và phát
hiện kịp thời các hành vi thao túng thị trường
nhằm đảm bảo TTCK phát triển lành mạnh1.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2018) qui định đối với hành vi thao
t