Mục tiêu: Nhằm đánh giá tác dụng của véc-ni Shellac F trong điều trị nhạy cảm ngà và dự phòng sâu
răng.
Phương pháp nghiên cứu: (1) Thử nghiệm lâm sàng nửa miệng, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng
trên bệnh nhân có răng nhạy cảm ngà ≥15 (VAS). Các răng nhạy cảm của ba nhóm được bôi một trong ba
vật liệu : (1)Shellac F, (2)Duraphat® và (3)Isodan® vào ngày 0, 1, và 7. Nhạy cảm ngà được đánh giá trước
và sau khi bôi vật liệu 15 phút, 1, 7, 14, 28, và 56 ngày, với kích thích cọ xát (0-100cN) và thổi hơi (VAS).
(2) Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng trên 200 trẻ 7 tuổi, với ba nhóm (1)Shellac
F, (2)Duraphat®, và nhóm chứng. Đánh giá tình trạng sâu răng mỗi sáu tháng trong 24 tháng.
Kết quả: (1) : Nhạy cảm ngà giảm ở cả ba nhóm tại tất cả các thời điểm đánh giá sau khi sử dụng vật
liệu cho thấy cả ba vật liệu có tác dụng giảm nhạy cảm ngà lập tức và kéo dài, không có khác biệt có ý nghĩa
giữa ba nhóm. (2) : Tỷ lệ mắc mới sâu răng ở nhóm Shellac F là 0,8% sau 12 tháng và 12,6% sau 24 tháng,
tỷ lệ giảm sâu răng tương ứng là 85% và 41,7% so với nhóm chứng. Tỷ lệ sâu mặt răng của răng số 6 giảm
34,5% ở nhóm Shellac F và 16,34% ở nhóm Duraphat® sau 24 tháng.
Kết luận: 1. Shellac F có tác dụng hiệu quả trong điều trị chống nhạy cảm ngà răng. 2. Shellac F có tác
dụng dự phòng sâu răng. Vật liệu làm giảm sự phát triển sâu răng ở răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất trong
giai đoạn sau mọc răng.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử nghiệm lâm sàng tác dụng của vec-ni nha khoa nguồn gốc nhựa cánh kiến có fluor (Shellac F), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 143
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG TÁC DỤNG CỦA VEC-NI NHA KHOA NGUỒN
GỐC NHỰA CÁNH KIẾN CÓ FLUOR (SHELLAC F)
Hoàng Đạo Bảo Trâm*, Tạ Tố Trân*, Trần Thị Nguyên Ny*, Ngô Thị Quỳnh Lan*, Hoàng Tử Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhằm đánh giá tác dụng của véc-ni Shellac F trong điều trị nhạy cảm ngà và dự phòng sâu
răng.
Phương pháp nghiên cứu: (1) Thử nghiệm lâm sàng nửa miệng, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng
trên bệnh nhân có răng nhạy cảm ngà ≥15 (VAS). Các răng nhạy cảm của ba nhóm được bôi một trong ba
vật liệu : (1)Shellac F, (2)Duraphat® và (3)Isodan® vào ngày 0, 1, và 7. Nhạy cảm ngà được đánh giá trước
và sau khi bôi vật liệu 15 phút, 1, 7, 14, 28, và 56 ngày, với kích thích cọ xát (0-100cN) và thổi hơi (VAS).
(2) Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng trên 200 trẻ 7 tuổi, với ba nhóm (1)Shellac
F, (2)Duraphat®, và nhóm chứng. Đánh giá tình trạng sâu răng mỗi sáu tháng trong 24 tháng.
Kết quả: (1) : Nhạy cảm ngà giảm ở cả ba nhóm tại tất cả các thời điểm đánh giá sau khi sử dụng vật
liệu cho thấy cả ba vật liệu có tác dụng giảm nhạy cảm ngà lập tức và kéo dài, không có khác biệt có ý nghĩa
giữa ba nhóm. (2) : Tỷ lệ mắc mới sâu răng ở nhóm Shellac F là 0,8% sau 12 tháng và 12,6% sau 24 tháng,
tỷ lệ giảm sâu răng tương ứng là 85% và 41,7% so với nhóm chứng. Tỷ lệ sâu mặt răng của răng số 6 giảm
34,5% ở nhóm Shellac F và 16,34% ở nhóm Duraphat® sau 24 tháng.
Kết luận: 1. Shellac F có tác dụng hiệu quả trong điều trị chống nhạy cảm ngà răng. 2. Shellac F có tác
dụng dự phòng sâu răng. Vật liệu làm giảm sự phát triển sâu răng ở răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất trong
giai đoạn sau mọc răng.
Từ khóa: Shellac F, véc-ni có fluor, chất chống nhạy cảm ngà, dự phòng sâu răng.
ABSTRACT
IN VITRO AND IN VIVO EVALUATION THE EFFICIENCY OF A NEW NATURAL RESIN-BASED
FLUORIDE VARNISH (SHELLAC F)
Hoang Dao Bao Tram, Ta To Tran, Tran Thi Nguyen Ny, Ngo Thi Quynh Lan, Hoang Tu Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 143 - 149
Objectives: To evaluate the efficiency of Shellac F in reducing dentin hypersensitivity and in caries
prevention.
Methods: (1) A double-blind, split-mouth, randomized controlled trial was performed on dentin
hypersensitivity (DH) patients with VAS ≥ 15. Each group was applied one among three desensitizing agents:
(1) Shellac F, (2) Duraphat® and (3) Isodan® at day 0, 1, and 7. The subjective response was assessed by tactile
and thermal⁄evaporative methods. Data were collected at baseline and after the first application, at 15 min, 1, 7, 14,
28 and 56 days. (2): A single-blind, randomized controlled trial was conducted on 200 children (7 years-old).
Shellac F and Duraphat® were applied in the two experimental groups every 3 months and no application of
fluoride varnishes was done in the control group. Dental caries were evaluated every six months.
Results: (1) Regardless of the type of stimulus, Shellac F showed significant immediate and progressive
continuous efficiency in reducing DH until 56 days, this effect did not differ from that of the two desensitizing
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: TS Hoàng Đạo Bảo Trâm ĐT:090449484, Email: hoangdaobaotram@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 144
agents used as controls. (2) The incidence of caries was 0.8% and 12.6% in Shellac F group after 12 months and
24 months, the percentage of caries reduction was 85% and 41.7% respectively compared to the control group. In
considering of carious lesions on first permanent molar sufaces, the percentage of caries reduction was 34.5% and
34.5% in Shellac F and Duraphat® group after 24 months.
Conclusions 1. Shellac F was an effective desensitizing agent. 2. Shellac F was effective in caries prevention.
It decreased the development of caries on permanent first molars in post-eruption phase.
Key words: Shellac F, fluoride varnish, dentin desensitizing agent, caries prevention.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắt nguồn từ phong tục dân gian, qua những
bằng chứng thực tế và tìm hiểu khoa học ban
đầu về phong tục nhuộm răng đen, từ những
năm 1960-1970, nhựa cánh kiến đã bắt đầu được
sử dụng trong nha khoa dưới dạng hỗn hợp tan
trong cồn, dùng để trám lót và chống ê buốt cổ
răng. Sau đó, nhiều tác giả đã thực hiện một số
thử nghiệm lâm sàng và thấy rằng vật liệu này
có tác dụng tốt đối với một số ứng dụng như
điều trị chống nhạy cảm ngà, dự phòng sâu
răng, và có thể được phát triển thành một vật
liệu nha khoa có triển vọng.
Năm 1997, Hoàng Tử Hùng và cộng sự
(Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP
HCM) đã chế tạo thành công một véc-ni nha
khoa nguồn gốc nhựa cánh kiến có fluor (NaF
5%) (đề tài nghiên cứu cấp Bộ Y Tế). Phối hợp
với Khoa Hóa - Đại học Bách Khoa (Việt Nam)
và Khoa Nha - Đại học Adelaide (Úc), nhiều
nghiên cứu in vitro, in situ, và in vivo đã được
thực hiện nhằm hoàn thiện quy trình sản xuất
ở mức thử nghiệm và đánh giá các đặc tính
của vật liệu. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
khả năng sử dụng véc-ni này trong dự phòng
và điều trị(6). Năm 2002, vật liệu chính thức
được đặt tên là Shellac F.
Trong loạt thử nghiệm in vitro đã thực hiện,
kết quả cho thấy Shellac F có tính độc với tế bào
tương đương với các vật liệu chứng đã qua kiểm
nghiệm và được sử dụng trên lâm sàng, đồng
thời vật liệu có tác dụng giảm tính thấm của ngà
răng nhờ cơ chế bít các ống ngà mở(7).
Dựa trên cơ sở kết quả các thử nghiệm in
vitro, chúng tôi tiến hành hai thử nghiệm lâm
sàng với các mục tiêu sau:
- Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều
trị nhạy cảm ngà răng.
- Đánh giá tác dụng của Shellac F trong dự
phòng sâu răng ở bộ răng hỗn hợp, đặc biệt đối
với răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất, ở trẻ em từ 7
đến 9 tuổi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu
Shellac F: Sodium fluoride (5%), shellac,
modified epoxy resin, aceton, silica.
Duraphat: ® (Colgate Pamolive): Sodium
fluoride (5%), ethanol, white bee wax (E901),
gum lac (E904), colophane, mastic, saccharine
(E954), frasberry essence.
Isodan® (Septodont): Potassium nitrate,
sodium fluoride, HEMA, excipients.
Phương pháp nghiên cứu
Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều trị
nhạy cảm ngà răng
Thử nghiệm được thực hiện theo
“Guidelines for the design and conduct of
clinical trials on dentine hypersensitivity” được
đưa ra bởi Holland và cộng sự năm 1997(8). Thiết
kế nghiên cứu nửa miệng, ngẫu nhiên, có nhóm
chứng và mù đôi. Vật liệu chứng được sử dụng
là Duraphat® và Isodan®. Đối tượng nghiên cứu
là các bệnh nhân đến khám tại phòng khám của
Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP HCM
và đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân có ít
nhất hai nửa cung răng có một hoặc nhiều răng
nhạy cảm ngà trên mức 15 (theo thang đo VAS
100mm) khi thử bằng thổi hơi trong một giây.
Các răng này không bị sâu, trám, mang phục
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 145
hình, hoặc có khiếm khuyết hay bệnh lý khác
của răng và mô nha chu; bệnh nhân không có rối
loạn hay bệnh lý toàn thân, hoặc sử dụng các
thuốc có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá.
Các nửa cung răng khác nhau của mỗi bệnh
nhân được phân ngẫu nhiên vào ba nhóm thử
nghiệm, được bôi một trong ba vật liệu tại vùng
răng nhạy cảm, vào ngày đầu tiên, ngày thứ
nhất, và ngày thứ 7. Quy trình bôi vật liệu được
thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Việc
bôi vật liệu luôn luôn được thực hiện sau khi đã
đánh giá nhạy cảm ngà (trừ ngày đầu tiên có
đánh giá ngay sau khi bôi vật liệu 15 phút). Bệnh
nhân tránh ăn, súc miệng, chải răng trong 2 giờ
sau khi bôi. Đánh giá nhạy cảm ngà được thực
hiện ngay trước lần bôi vật liệu đầu tiên, sau đó
vào các thời điểm 15 phút, 1 ngày, 7 ngày, 14
ngày, 28 ngày, và 56 ngày sau lần bôi vật liệu
đầu tiên, sử dụng hai phương pháp đánh giá
nhạy cảm ngà với kích thích cọ xát bằng thiết bị
đo lực (0 đến 100cN)(11) và với thổi hơi bằng
thang VAS (0 đến 100mm). Mỗi phép thử được
lặp lại ba lần và lấy giá trị trung bình. Do
phương sai không đồng nhất, phép kiểm phi
tham số được áp dụng để phân tích kết quả.
Trước tiên, phép kiểm Kruskall Wallis được áp
dụng để đánh giá mức độ tương đương về triệu
chứng nhạy cảm ngà giữa các nhóm ở thời điểm
bắt đầu thử nghiệm. Tiếp theo, Wilconxon được
thực hiện để so sánh mức độ nhạy cảm ngà ở
thời điểm 15 phút sau khi bôi lần đầu tiên và thời
điểm ban đầu. Sau đó, phép kiểm Kruskall
Wallis được dùng để so sánh mức độ nhạy cảm
ngà ở các nhóm khác nhau, tại từng thời điểm.
Cuối cùng, phân tích tuyến tính được sử dụng
để đánh giá sự diễn tiến theo thời gian.
Đánh giá tác dụng của Shellac F đối với bệnh
sâu răng
Việc chọn mẫu được tiến hành trên 237 trẻ
được gia đình xác nhận đồng ý tham gia
nghiên cứu trong tổng số 270 trẻ được thông
báo. Tiêu chuẩn chọn mẫu: 7 tuổi (± 6 tháng),
sức khỏe toàn thân bình thường, không có bất
thường đặc biệt về răng, có ít nhất một răng số
6 đã mọc và không có lỗ sâu. Tiêu chuẩn loại
khỏi mẫu: có vấn đề về sức khỏe toàn thân, có
phản xạ dễ nôn ói, bất thường đặc biệt về
răng. Sau khi khám sơ khởi, 216 trẻ được đưa
vào mẫu để tiến hành thử nghiệm. Đây là một
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm
chứng, thực hiện trong thời gian 24 tháng.
Các trẻ là học sinh bán trú, tham gia
chương trình chăm sóc răng miệng tại trường,
được cấp bàn chải, kem đánh răng và nhắc lại
hướng dẫn vệ sinh răng miệng mỗi 6 tháng
một lần. Mẫu được phân ngẫu nhiên thành ba
nhóm: nhóm 1 bô Shellact), nhóm 2 (không bôi
Duraphat®), nhóm 3 (không bôi véc-ni). Ở
nhóm 1 và nhóm 2, véc-ni được bôi trên toàn
bộ các mặt của răng số 6 đã mọc và mặt trong
các răng cửa vĩnh viễn. Trẻ chải răng trước khi
bôi. Các răng được cách ly bằng gòn cuộn và
thổi khô vừa phải. Véc-ni được bôi một lớp
đều đặn và thổi se bề mặt, gòn cuộn được lấy
ra sau khoảng một phút. Trẻ được dặn không
ăn uống trong vòng 30 đến 60 phút sau đó,
không chải răng trong ngày hôm đó, ngày
hôm sau chải răng bình thường. Quy trình bôi
véc-ni được lặp lại mỗi ba tháng một lần.
Khám lâm sàng được thực hiện mỗi sáu tháng
một lần, bởi hai bác sỹ được huấn luyện và
chuẩn hóa. Tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng của
Tổ chức sức khỏe Thế giới(16) được áp dụng để
đánh giá sâu răng trên toàn bộ hai cung răng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng ICDAS(9) được
áp dụng để ghi nhận các tổn thương sâu răng
sớm tại các răng số 6. Các học sinh được chụp
phim cánh cắn ở thời điểm bắt đầu nghiên
cứu, 12 tháng và 24 tháng. Tổn thương sâu
răng mặt bên ở răng cối lớn hàm trên và hàm
dưới được đánh giá theo tiêu chuẩn của Hintz
và cộng sự (1997) bởi một bác sỹ đã được huấn
luyện và chuẩn hóa.
KẾT QUẢ
Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều
trị nhạy cảm ngà răng
Thử nghiệm theo dõi nhạy cảm ngà trên 40
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 146
răng với ba nhóm sử dụng ba vật liệu khác
nhau, cho 60 cặp so sánh giữa các răng trên
các nửa cung răng khac nhau, tức là giữa các
vật liệu với nhau. Đồ thị trong hình 1 và 2 biển
diễn cường độ lực gây đau khi sử dụng kích
thích bằng thám trâm có đo lực và cường độ
đau của bệnh nhân thể hiện trên thang VAS.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
ban ñầu 15 phút 1 ngày 1 tuần 2 tuần 4 tuần 8 tuần thời gian
VAS (mm)
Shellac F
Duraphat®
Isodan®
Hình 1. Ngưỡng lực gây đau do kích thích bằng thám
trâm có đo lực (cN).
Phân tích thống kê sử dụng phép kiểm
Kruskall-Wallis xác định khác biệt không có ý
nghĩa về mức độ nhạy cảm ngà giữa ba nhóm
ở thời điểm bắt đầu thử nghiệm. Phép kiểm
dấu xếp hạng Wilcoxon cho thấy khác biệt có
ý nghĩa giữa thời điểm bắt đầu thử nghiệm và
thời điểm 15 phút sau lần bôi thuốc đầu tiên,
thể hiện cả ba vật liệu có tác dụng lập tức
trong giảm nhạy cảm ngà, với ngưỡng lực gây
đau tăng khi kích thích bằng thám trâm đo lực
(Hình 1) và độ nhạy cảm ngà giảm khi kích
thích thổi hơi (Hình 2).
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
ban ñầu 15 phút 1 ngày 1 tuần 2 tuần 4 tuần 8 tuần thời gian
cN
Shellac F
Duraphat®
Isodan®
Hình 2. Mức độ đau khi kích thích bằng thổi hơi,
đánh giá theo thang VAS (mm).
Áp dụng phép kiểm Kruskall-Wallis cho
thấy không có khác biệt có ý nghĩa giữa ba
nhóm ở mọi thời điểm đánh giá, với cả hai loại
kích thích, chứng tỏ tác dụng của ba vật liệu
tương đương nhau. Phân tích tuyến tính cho
thấy có mối liên quan tuyến tính có ý nghĩa
giữa mức độ giảm nhạy cảm ngà và các thời
điểm đánh giá (15 phút, 1 ngày, 7 ngày, 14
ngày, 28 ngày, 56 ngày). Đối với kích thích lực,
phương trình tuyến tính về cường độ lực gây
đau ở nhóm Duraphat® là (p=0,02) (y = 0,53 x +
63,5 với R2 = 0,8), Isodan® là (p=0,03) (y = 0,47 x
+ 75 với R2 = 0,7) và Shellac F là (p=0,02) (y =
0,4 x + 61,8 với R2 = 0,95). Đối với kích thích
thổi hơi, phương trình tuyến tính của cường
độ đau theo thang VAS ở nhóm Duraphat® là
(p=0,02) (y = - 0,11 x + 18 với R2 = 0,8), Isodan®
là (p=0,02) (y = - 0,17 x + 21 với R2 = 0,8) và
Shellac F là (p=0,04) (y = - 0,14 x + 24,8 với R2 =
0,6).
Đánh giá tác dụng của Shellac F đối với
bệnh sâu răng
Trong 24 tháng, 200 trẻ (72 trẻ thuộc nhóm
Shellac F, 62 trẻ thuộc nhóm Duraphat®, và 66 trẻ
thuộc nhóm chứng) tham gia tất cả các giai đoạn
thử nghiệm. Mười sáu trẻ rời bỏ nghiên cứu, với
nguyên nhân chủ yếu là đổi trường học, chiếm
7,4% mẫu ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu.
Bảng 1 trình bày chỉ số sâu răng (tính theo
mặt răng và theo răng) của các răng sữa và răng
vĩnh viễn của ba nhóm ở thời điểm 24 tháng. Chỉ
số sâu răng của nhóm trẻ có sử dụng Shellac F
hoặc Duraphat® luôn thấp hơn so với nhóm
chứng, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (ANOVA ; p>0,05).
Bảng 1. Chỉ số sâu răng (theo WHO) của ba nhóm
ở 24 tháng
Shellac F Dura-phat Chứng
Răng sữa smtmr 7,46 (8,92) 7,21 (9,25) 7,94 (7,81)
smtr 3,01 (2,89) 3,15 (3,14) 3,27 (2,60)
Răng
vĩnh viễn
SMTMR 0,9 (1,38) 1,1 (1,65) 1,3 (1,79)
SMTR 0,71 (1,09) 0,87 (1,16) 1,03 (1,25)
Theo dõi tình trạng sâu răng trên 696 răng số
6 đã mọc cho thấy có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ
sâu răng và tỷ lệ mắc mới sâu răng giữa ba nhóm
(bảng 2). Ở thời điểm 12 tháng, tỷ lệ mắc mới sâu
răng ở nhóm Shellac F là 0,8%, so với 5,3% ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 147
nhóm chứng, tương đương với mức giảm sâu
răng là 85%; ở thời điểm 24 tháng, tỷ lệ mắc mới
ở nhóm Shellac F là 12,6%, tương đương với mức
giảm sâu răng là 41,7%. Đối với nhóm sử dụng
Duraphat®, tỷ lệ sâu răng chỉ giảm sau 24 tháng,
với mức giảm là 21,8%, so với nhóm chứng.
Bảng 2. Số răng sâu thành lỗ và tỷ lệ mắc mới sâu
răng thành lỗ (%) ở răng số 6
Số
răng
n
Số răng cối có lỗ sâu
Ban
ñầu
6th
n(%)
12th
n(%)
18th
n(%)
24th
n(%)
Shellac F
238 10 12
(0,8)
12
(0,8)
16
(2,5)
40
(12,6)
Duraphat®
213 9 21
(5,6)
23
(6,6)
26
(8,0)
45
(16,9)
Chứng
245 8 18
(4,1)
21
(5,3)
28
(8,2)
61
(21,6)
696
Tương tự, xét theo đơn vị mặt răng, sau 24
tháng, tỷ lệ sâu mặt răng của răng số 6 giảm
34,5% ở nhóm Shellac F và 16,34% ở nhóm
Duraphat®. Nếu xét trên mặt nhai răng số 6, tỷ
lệ sâu mặt nhai giảm 49,7% ở nhóm Shellac F
và 43,7% ở nhóm Duraphat® sau 24 tháng. Đối
với mặt trong và mặt ngoài răng số 6, tỷ lệ này
là 35,5% ở nhóm Shellac F, không giảm ở
nhóm Duraphat®.
Khi đánh giá tổn thương sâu răng mặt bên
trên các răng cối lớn hàm trên và hàm dưới
trên phim cánh cắn, không có sự khác biệt về
tỷ lệ sâu răng mặt bên giữa các nhóm.
BÀN LUẬN
Đánh giá tác dụng của Shellac F trong điều
trị nhạy cảm ngà răng
Như vậy, ngưỡng lực gây đau tăng dần và
mức độ đau giảm dần theo thời gian đối với hai
loại kích thích ở cả ba nhóm, với mức giảm đau
liên tục tăng dần và tiến tới giảm đau hoàn toàn
ở thời điểm đánh giá sau cùng (56 ngày sau lần
bôi vật liệu đầu tiên hay 49 ngày sau khi hoàn tất
quy trình điều trị với ba lần bôi), thể hiện tác
dụng giảm nhạy cảm ngà liên tục và kéo dài của
Shellac F trong suốt thời gian thử nghiệm 56
ngày, tương đương với tác dụng của hai vật liệu
chứng đã được kiểm nghiệm qua nhiều nghiên
cứu và lâm sàng(3,5,14,15). Kết quả cũng phù hợp
với kết quả nghiên cứu của Lê Nữ Khôi Nguyên
và cộng sự thực hiện năm 2005 ; trong nghiên
cứu này, Shellac F thể hiện tác dụng giảm nhạy
cảm ngà tốt với quy trình ba lần bôi vật liệu,
đánh giá trong ba tuần, có nhóm placebo(12).
Đánh giá tác dụng của Shellac F đối với
bệnh sâu răng
Sâu răng là một bệnh phổ biến có thể tiến
triển trong suốt đời sống, đặc biệt trong thời kỳ
trẻ em. Mặc dù nhóm nguy cơ cao ngày càng
được chú trọng về các biện pháp dự phòng và
điều trị, việc theo dõi và chăm sóc cần thiết đối
với tất cả các đối tượng. Tốc độ tiến triển sâu
răng nhanh trên các răng vĩnh viễn mới mọc
được giải thích bởi mức độ khoáng hóa thấp của
men răng chưa trưởng thành và ngà răng xốp,
sau 6 tuổi đối với răng cối vĩnh viễn thứ nhất.
Một số tác giả coi răng số 6 là một răng trụ cột dễ
bị tổn thương(4). Quá trình khoáng hóa và trưởng
thành tiếp tục diễn ra trong hai đến ba năm sau
khi răng mọc. Việc dự phòng sâu răng sử dụng
fluor là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn sau
mọc răng(4).
Chỉ số sâu răng đánh giá theo Tiêu chuẩn
chẩn đoán sâu răng của Tổ chức Sức khỏe Thế
giới, phản ánh tình trạng chung của toàn bộ bộ
răng đối với bệnh sâu răng, cho thấy nhóm sử
dụng Shellac F luôn có chỉ số sâu răng thấp hơn
so với nhóm sử dụng vật liệu chứng, và cả hai
nhóm này thấp hơn nhóm không can thiệp, và
ngày càng rõ theo thời gian. Điều này có thể gợi
ý theo dõi tác dụng của vật liệu khuếch tán trong
môi trường miệng. Tuy nhiên, khác biệt không
có ý nghĩa thống kê. Việc đánh giá trong một
thời gian đủ dài có thể cho những kết quả đáng
quan tâm.
Kết quả đánh giá trên 696 răng cối vĩnh viễn
thứ nhất trong 24 tháng cho thấy tỷ lệ giảm sâu
răng đối với nhóm sử dụng Shellac F là 85% sau
một năm, và 41,7% sau hai năm, so với nhóm
không can thiệp. Ở nhóm sử dụng Duraphat®, tỷ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 148
lệ này là 21,8% sau hai năm, thấp hơn so với
nghiên cứu của Bravo và cộng sự năm 1996(2).
Khi xét trên mặt răng, tỷ lệ giảm sâu mặt răng ở
nhóm Shellac F là 29,8% sau một năm và 34,5%
sau hai năm; tỷ lệ này là 16,3% ở nhóm
Duraphat®. Khi phân tích tách biệt mặt nhai với
mặt ngoài và mặt trong của răng số 6, kết quả
cho thấy sâu răng giảm mạnh đối với mặt nhai
(49,7% ở nhóm Shellac F và 43,7% ở nhóm
Duraphat®) so với mặt ngoài và mặt trong (35,5%
ở nhóm Shellac F và không giảm ở nhóm
Duraphat®) ở thời điểm 24 tháng. Trong nghiên
cứu của Bravo và cộng sự năm 1997, tác giả thấy
răng sâu răng giảm ở mặt nhai là 38%, thấp hơn
so với các mặt còn lại (66%)(14). Sự khác biệt ghi
nhận được có thể liên quan đến phương pháp
khai thác số liệu. Trong thử nghiệm này, chúng
tôi phân tích mặt ngoài và mặt trong tách biệt
với các mặt bên, là các mặt có những đặc điểm
đặc biệt và cần có những kỹ thuật đánh giá và xử
lý đặc hiệu phù hợp. Tác dụng giảm mạnh sâu
răng mặt nhai thấy được trong nghiên cứu này
có ý nghĩa ứng dụng quan trọng, do mặt nhai là
mặt dễ bị sâu răng tấn công nhất(10,13) và tác dụng
của fluor phụ thuộc vào khả năng tiếp cận của
vật liệu đối với vị trí tác dụng, thường dễ và có
hiệu quả cao ở các mặt khác hơn so với mặt nhai,
theo nhiều nghiên cứu khác(17).
Kết quả phân tích diễn tiến các tổn thương
sâu răn