Thực hành sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn uống và nhà tiêu hợp vệ sinh tại hộ gia đình nông thôn khu vực phía Nam, năm 2012‐2013

Đặt vấn đề: Các hệ thống và hành vi vệ sinh, nước không an toàn nằm trong nhóm các nguy cơ hàng đầu của gánh nặng bệnh tật toàn cầu được đo lường theo DALYs, và là nhóm nguy cơ cao thứ hai với tỷ lệ 6,3% ở những nước đang phát triển. Tại Việt Nam, tỷ lệ hộ gia đình nông thôn chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh (40%)và tỷ lệ hộ nghèo (15,9%) có một khoảng chênh lệch khá lớn. Lý do gì làm cho những hộ không phải hộ nghèo không sở hữu một nhà tiêu hợp vệ sinh? Mục tiêu: Mô tả thực hành về sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn uống; kiến thức và thực hành sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh của hộ gia đình nông thôn Phương pháp: Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả. Với dân số mục tiêu là các hộ gia đình nông thôn tại các xã có triển khai chương trình Mục tiêu Quốc gia Nước Sạch và Vệ sinh Môi trường Nông thôn (MTQG NS & VSMT NT), trong hai năm 2012 và 2013. Dân số chọn mẫu là các hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh trạm y tế xã. Kết quả: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy cho sinh hoạt là cao (chiếm 54,6% năm 2012 và 83,8% năm 2013); tuy nhiên chất lượng nước máy có nhiều vấn đề trong quá trình sử dụng, đặc biệt là với những hộ gia đình được khảo sát trong năm 2013 (84,7%). Phần lớn các hộ gia đình sử dụng nước uống đóng chai hoặc nước uống đóng bình 20 lít (32,1% năm 2012 và 55,2% năm 2013), kế đến là nước máy (27,9% năm 2012 và 32,7% năm 2013). Tỷ lệ đại diện hộ gia đình cho biết có biết địa phương đang triển khai chương trình MTQGNS & VSMT NT là thấp (dưới 22%). Rất ít đối tượng nêu được lợi ích lớn nhất của một nhà tiêu hợp vệ sinh là ‘diệt được mầm bệnh có trong phân người’ (10% năm 2012 và 17,8% năm 2013). Tỷ lệ hộ gia đình có sở hữu nhà tiêu hợp vệ sinh là thấp (44,3% năm 2013), khoảng 63% trong số này có dự định xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh; tuy nhiên, đến 51,9% hộ gia đình cho biết chỉ xây dựng khi có sự hỗ trợ tài chính từ chương trình, và 55,4% hộ gia đình cho biết không có kế hoạch cụ thể để thực hiện. Chi phí mà những hộ gia đình này dự kiến có thể chi ra để xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh là từ dưới năm trăm ngàn đồng cho đến dưới một triệu đồng (chiếm khoảng 89%)

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hành sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn uống và nhà tiêu hợp vệ sinh tại hộ gia đình nông thôn khu vực phía Nam, năm 2012‐2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  111 THỰC HÀNH SỬ DỤNG NƯỚC SINH HOẠT, NƯỚC ĂN UỐNG   VÀ NHÀ TIÊU HỢP VỆ SINH TẠI HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN   KHU VỰC PHÍA NAM, NĂM 2012‐2013  Đặng Ngọc Chánh*, Nguyễn Đỗ Quốc Thống*,Nguyễn Trần Bảo Thanh*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Các hệ thống và hành vi vệ sinh, nước không an toàn nằm trong nhóm các nguy cơ hàng đầu  của gánh nặng bệnh tật toàn cầu được đo lường theo DALYs, và là nhóm nguy cơ cao thứ hai với tỷ lệ 6,3% ở  những nước đang phát triển. Tại Việt Nam, tỷ lệ hộ gia đình nông thôn chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh (40%)và tỷ  lệ hộ nghèo (15,9%) có một khoảng chênh lệch khá lớn. Lý do gì làm cho những hộ không phải hộ nghèo không sở  hữu một nhà tiêu hợp vệ sinh?  Mục tiêu: Mô tả thực hành về sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn uống; kiến thức và thực hành sử dụng nhà  tiêu hợp vệ sinh của hộ gia đình nông thôn  Phương pháp: Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả. Với dân số mục tiêu là các hộ gia đình nông thôn  tại các xã có triển khai chương trình Mục tiêu Quốc gia Nước Sạch và Vệ sinh Môi trường Nông thôn (MTQG  NS & VSMT NT), trong hai năm 2012 và 2013. Dân số chọn mẫu là các hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh  trạm y tế xã.  Kết quả: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy cho sinh hoạt là cao (chiếm 54,6% năm 2012 và 83,8% năm  2013); tuy nhiên chất lượng nước máy có nhiều vấn đề trong quá trình sử dụng, đặc biệt là với những hộ gia  đình được khảo sát trong năm 2013 (84,7%). Phần lớn các hộ gia đình sử dụng nước uống đóng chai hoặc nước  uống đóng bình 20 lít (32,1% năm 2012 và 55,2% năm 2013), kế đến là nước máy (27,9% năm 2012 và 32,7%  năm 2013). Tỷ lệ đại diện hộ gia đình cho biết có biết địa phương đang triển khai chương trình MTQGNS &  VSMT NT là thấp (dưới 22%). Rất ít đối tượng nêu được lợi ích lớn nhất của một nhà tiêu hợp vệ sinh là ‘diệt  được mầm bệnh có trong phân người’ (10% năm 2012 và 17,8% năm 2013). Tỷ lệ hộ gia đình có sở hữu nhà tiêu  hợp vệ sinh là thấp (44,3% năm 2013), khoảng 63% trong số này có dự định xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh; tuy  nhiên, đến 51,9% hộ gia đình cho biết chỉ xây dựng khi có sự hỗ trợ tài chính từ chương trình, và 55,4% hộ gia  đình cho biết không có kế hoạch cụ thể để thực hiện. Chi phí mà những hộ gia đình này dự kiến có thể chi ra để  xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh là từ dưới năm trăm ngàn đồng cho đến dưới một triệu đồng (chiếm khoảng 89%)  Kết luận: Nghiên cứu có nhiều hạn chế về mặt thiết kế, và tính đại diện của mẫu, vì vậy tính giá trị từ dữ kiện  thu thập được là không cao. Dù vậy, dữ kiện thu được vẫn cho thấy một số điểm đáng lưu ý về thực hành sử dụng  nước sinh hoạt, ăn uống, nhà tiêu hợp vệ sinh tại hộ gia đình nông thôn. Mức độ tiếp cận các thông tin về các hoạt  động của chương trình MTQGNS & VSMTNT là thấp. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước máy cho sinh hoạt, ăn  uống là cao; chất lượng nước máy nông thôn lại có nhiều vấn đề cần phải cải thiện. Tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có  sở hữu nhà tiêu hợp vệ sinh là thấp, và mô hình nhà tiêu hợp vệ sinh được chấp nhận là mô hình giá rẻ.  Từ khoá: nước sinh hoạt, nước ăn uống, nhà tiêu hợp vệ sinh, hộ gia đình nông thôn  *Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ks. Nguyễn Đỗ Quốc Thống   ĐT: 0987085201  Email: thongasr@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 112 ABSTRACT  PRACTICE ON USING DOMESTIC WATER, DRINKING WATER, AND SANITARY LATRINES AT  HOUSEHOLDS IN RURAL AREAS IN SOUTHERN VIETNAM, 2012‐2013  Dang Ngoc Chanh, Nguyen Do Quoc Thong, Nguyen Tran Bao Thanh  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 111 – 117  Background: Sanitation and hygiene behavior, unsafe water is ranked as one of the leading risks for global  burden of disease measured in disability‐adjusted life years (DALYs), and is the second leading risk accounted for  6.3 % of all burden of disease in developing countries. In Vietnam, the proportion of poor households is only 16%  but the proportion of rural households without sanitary latrines  is 40%. Why can unpoor households not own  sanitary latrines?  Objectives:To assess practice on using domestic water, drinking water and knowledge and practice on using  sanitary latrines among residents in rural areas.  Methods: This is a descriptive cross‐sectional study. The target population was rural households in villages  where National Target Program on Clean Water and Rural Sanitation was  implemented  in 2012 – 2013. The  study population was households located within one kilometer of Commune Health Centers in these villages.  Results:The proportion  of households using  tap water  for daily  activities was high  (54.6%  in 2012  and  83,8%  in 2013) but the quality of tap water was questionable. Most households used bottled water  (31,2%  in  2012 and 55.2% in 2013) and tap water (27.9% in 2012 and 32.7% in 2013) for drinking and cooking. However,  the proportion of households aware of the National Program on Clean Water and Rural Sanitation was very low  (under 22%). The proportion of households understanding the benefit of eliminating pathogens in human faeces  of sanitary latrines was also very low (10% in 2012 and 17.8% in 2013). Only 44.3% of the households had their  own sanitary latrines in 2013.   Conclusion: The proportion of households accessing to information on activities of the National Program was  low. The proportion of households using tap water for daily activities was high but its quality need to be improved.  The proportion of households with sanitary latrines was still low. Low‐cost sanitary latrines were affordable.  Key words: domestic water, drinking water, sanitary latrines, rural households  ĐẶT VẤN ĐỀ  Các hệ thống và hành vi vệ sinh, nước không  an toàn nằm trong nhóm các nguy cơ hàng đầu  của gánh nặng bệnh tật toàn cầu được đo lường  theo DALYs  (chiếm 4,2%), và  là nhóm nguy cơ  cao  thứ hai với  tỷ  lệ 6,3%  ở những nước  đang  phát  triển(5).  Phân  người,  và  động  vật  không  được xử lý hợp vệ sinh sẽ gây ra nhiều bệnh lây  lan  qua  đường  nước  và  các  bệnh  đường  ruột  như tiêu chảy, ký sinh trùng, v.v. Theo Tổ chức  Y  tế Thế giới,  88%  số  ca  tử vong do  tiêu  chảy  trên  thế giới  là do  các hệ  thống và hành vi vệ  sinh, nước không an toàn. Và hơn 99% những ca  tử vong này  là ở các nước đang phát  triển, với  khoảng  84%  xảy  ra  ở  trẻ  em(5). Trên  toàn  cầu,  mỗi năm bệnh tiêu chảy gây ra gần 1,7 tỷ ca, và  gây chết khoảng 760.000 trẻ em dưới 5 tuổi(6).  Tại  Việt  Nam,  theo một  báo  cáo  của  Cục  quản lý môi trường y tế, vào thời điểm cuối năm  2010, 45% số hộ gia đình nông  thôn được khảo  sát không có nhà tiêu(2). Đến năm 2011, báo cáo  tổng kết của giai đoạn 2 Chương trình Mục tiêu  quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông  thôn (MTQGNS & VSMT NT), cho thấy tỷ lệ hộ  gia đình nông thôn chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh  là  40%,  tỷ  lệ  hộ  gia  đình  được  cấp  nước  đạt  QCVN 02: 2009/BYT là 42%, số hộ chăn nuôi có  chuồng trại hợp vệ sinh (có giải pháp xử lý chất  thải) là 45%, số xã/thị trấn có tổ thu gom rác thải  rất thấp 32%(1). Điều này đặt ra nhiều vấn đề sức  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  113 khỏe  liên  quan  đến  những  tác  nhân  gây  bệnh  qua  con  đường  phân‐miệng.  Đối  với  khu  vực  đồng  bằng  sông  Cửu  Long,  tỷ  lệ  hộ  gia  đình  nông thôn có hợp vệ sinh  là 54%(1). Trung bình  bốn hộ thì có 1 hộ sử dụng chung nhà tiêu, chủ  yếu là nhà tiêu không hợp vệ sinh (19,7%)(3).  Thật tế cho thấy, tuy không có số liệu thống  kê  chính  thức,  qua  nhiều  kênh  thông  tin  khác  nhau, vẫn còn tồn tại khó khăn là dù đã có thay  đổi về nhận thức, nhưng không có sự hỗ trợ tài  chính từ chính phủ, các tổ chức nước ngoài, tỷ lệ  các hộ gia đình được vận động tự bỏ tiền để xây  dựng nhà tiêu hợp vệ sinh  là không cao. Trong  khi đó, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 12,6%, khu vực  nông  thôn  là  15,9%,  riêng  khu  vực  đồng  bằng  sông Cửu Long là 11,6%(4). Rõ ràng, với dữ kiện  sẵn có (chỉ tính riêng cho khu vực nông thôn) về  tỷ  lệ hộ gia đình chưa có nhà  tiêu hợp vệ sinh  (40%) và tỷ  lệ hộ nghèo (15,9%) có một khoảng  chênh lệch khá lớn, mặc dù sự so sánh chỉ mang  tính tương đối vì các số liệu thống kê được lấy từ  hai nguồn khác nhau.  Câu hỏi đặt ra  là khoảng chênh  lệch không  xây  dựng  nhà  tiêu  hợp  vệ  sinh  là  vì  những  nguyên  nhân  gì,  do  nhận  thức  chưa  thay  đổi  (chưa thật sự nhận thấy nhu cầu gia đình cần có  một nhà  tiêu hợp vệ sinh), hay vì những  lý do  khác, thí dụ, người dân vẫn trông chờ tài trợ. Từ  thực  trạng  này,  trong  hoạt  động  giám  sát  Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ  sinh  môi  trường  nông  thôn  tại  các  tỉnh  phía  Nam, chúng  tôi đã thực hiện một khảo sát  trên  các  hộ  gia  đình  tại  một  số  xã  có  triển  khai  chương  trình  thuộc một  số  tỉnh  khu  vực  phía  Nam,trong hai năm 2012 và 2013. Mục tiêu là để  thu  thập dữ  kiện  về  thực  hành  sử dụng  nước  sinh hoạt, nước ăn uống, kiến thức và thực hành  sử dụng nhà  tiêu hợp vệ  sinh  của hộ gia  đình  nông thôn.  Mục tiêu nghiên cứu  Xác  định  thực  hành  về  sử  dụng  nước  sinh  hoạt, nước ăn uống của các hộ gia đình nông thôn.  Xác định kiến thức, thực hành sử dụng nhà  tiêu hợp vệ sinh của các hộ gia đình nông thôn.  Mô tả lý do không xây dựng nhà tiêu hợp vệ  sinh của các hộ gia đình nông thôn.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Dân số mục tiêu là hộ gia đình nông thôn tại  các xã có triển khai chương trình mục tiêu quốc  gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,  trong hai năm 2012 và 2013. Dân số chọn mẫu là  các hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh trạm y  tế xã.  Đơn  vị  chọn mẫu  là hộ,  và  chủ hộ  của hộ  được  chọn  cũng  là  đơn  vị  nguyên  tố.  Trong  trường hợp chủ hộ không thể trả lời phỏng vấn  vì già yếu, hoặc đang có bệnh cản trở khả năng  giao  tiếp,  thì  chọn một  thành viên khác  là một  người lớn có thẩm quyền trong gia đình.  Tiêu chí đưa vào  Hộ gia đình trong phạm vi 1km quanh trạm  y tế xã.  Chủ hộ hoặc đại diện chủ hộ (>18 tuổi).  Đồng ý tham gia phỏng vấn.  Tiêu chí loại ra  Vắng nhà vào thời điểm điều tra.  Phương pháp nghiên cứu  Dữ kiện được thu thập tại hai thời điểm khác  nhau theo hoạt động giám sát Chương trình mục  tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi  trường  nông  thôn.  Thực  hành  của  người  dân  được  phỏng vấn  tại hộ gia  đình  được  chọn bằng bộ  câu hỏi soạn sẵn, đối tượng phỏng vấn là chủ hộ  hoặc đại diện chủ hộ (>18 tuổi).  Cỡ mẫu  Năm 2012: 240 hộ gia đình (tại 8 tỉnh  là An  Giang,  Đồng  Tháp, Cần  Thơ, Vĩnh  Long,  Tiền  Giang, Bến Tre, Bình Phước, Tây Ninh;  tại mỗi  tỉnh khảo sát 30 hộ gia đình tại một xã của một  huyện có triển khai chương trình).  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 114 Năm 2013: 600 hộ gia đình (tại 6 tỉnh là Kiên  Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Long An, Cà Mau,  Bạc Liêu; tại mỗi tỉnh khảo sát 60 hộ gia đình tại  hai xã của một huyện có triển khai chương trình).  Dữ kiện được nhập bằng phần mềm Epidata  3.1,  và  phân  tích  bằng  phần mềm  Stata  10.Số  thống kê mô tả gồm tần số và phần trăm.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Bảng 1: Những đặc tính của mẫu khảo sát tại hộ gia đình  Đặc tính Tần số (%) Năm 2012 (n = 240) Năm 2013 (n = 600) Tuổi 18-20 4 (1,7) 0 (0) 20+-30 46 (19,1) 46 (7,7) 30+-40 45 (18,8) 257 (42,8) 40+-50 83 (34,6) 197 (32,8) 50+-60 37 (15,4) 75 (12,5) 60+ 25 (10,4) 25 (4,2) Giới Nam 105 (43,8) 351 (58,5) Nữ 135 (56,2) 249 (41,5) Dân tộc Kinh 240 (100) 597 (99,5) Khác 0 (0) 3 (0,5) Tôn giáo Phật giáo 150 (62,5) 74 (12,3) Thiên Chúa giáo 2 (0,8) 3 (0,5) Thờ tổ tiên 58 (24,2) 490 (81,7) Khác 30 (12,5) 33 (5,5) Trình độ học vấn Mù chữ 7 (2,9) 13 (2,2) Cấp I 84 (35) 193 (32,1) Cấp II 89 (37,1) 334 (55,7) Cấp III 49 (20,4) 56 (9,3) Trung cấp, cao đẳng 4 (1,7) 0 (0) Đại học 7 (2,9) 4 (0,7) Nghề nghiệp Sinh viên 0 (0) 1 (0,2) Viên chức 3 (1,3) 7 (1,2) Buôn bán nhỏ lẻ 97 (40,4) 105 (17,5) Doanh nghiệp kinh doanh lớn 0 (0) 2 (0,3) Lao động phổ thông 78 (32,5) 402 (67,0) Nội trợ 28 (11,6) 78 (13,0) Hưu trí 17 (7,1) 4 (0,6) Thất nghiệp 17 (7,1) 1 (0,2) Đa số đối tượng được khảo sát nằm trong độ  tuổi  từ  trên 30 đến 50 tuổi, phần  lớn  là dân tộc  Kinh  (năm  2012  chiếm  100%,  và  năm  2013  là  99,5% số đối tượng khảo sát). Về tôn giáo, năm  2012 số đối tượng có tôn giáo là Phật giáo chiếm  đa số (62,5%), sau đó là thờ tổ tiên (24,2%); trong  khi  năm  2013  thì  ngược  lại,  thờ  tổ  tiên  chiếm  81,7%, và Phật giáo chiếm 12,3%. Trình  độ học  vấn, chiếm tỷ lệ cao nhất là cấp hai (chiếm 37,1%  năm 2012, và 55,7% năm 2013), kế đến là cấp một  (chiếm 35% năm 2012 và 32,1% năm 2013), tỷ lệ  đối  tượng mù  chữ  là  thấp  (2,9%  năm  2012  và  2,2% năm 2013), tương tự như vậy đối với tỷ lệ  đối tượng có trình độ học là trung cấp, cao đẳng,  hay  đại  học.  Về  nghề  nghiệp,  chủ  yếu  là  lao  động phổ thông (chiếm 32,5% năm 2012 và 67%  năm  2013)  hoặc  buôn  bán  nhỏ  lẻ  (40,4%  năm  2012 và 17,5% năm 2013, sự phân bố đặc tính đối  tượng này một phần do  địa  điểm  chọn hộ gia  đình để khảo sát là gần trạm y tế xã, nơi có mật  độ  dân  cư  tương  đối  đông,  hoạt  động  kinh  doanh mua bán là phổ biến (Bảng 1).  Bảng 2:Thực hành sử dụng nước sinh hoạt, nước ăn  uốngtại các hộ gia đình  Tiêu chí Tần số (%) Năm 2012 n = 240 Năm 2013 n = 600 Nguồn nước dùng cho sinh hoạt Nước máy 131 (54,6) 503 (83,8) Nước giếng khoan 65 (27,1) 92 (15,3) Nước giếng đào 41 (17,1) 6 (1,0) Nước sông 3 (1,2) 5 (0,8) Nước mưa 0 (0) 5 (0,8) Chất lượng nước máy có vấn đề 53 (40,5) 166 (84,7) Đục 47 (88,7) 139 (83,7) Màu vàng (do sắt) 8 (16,9) 66 (39,8) Có mùi lạ 0 (0) 4 (2,4) Nguồn nước dùng để ăn uống Nước máy 67 (27,9) 196 (32,7) Nước giếng khoan 46 (19,2) 36 (6,0) Nước giếng đào 41 (17,1) 10 (1,7) Nước mưa 7 (2,9) 235 (39,2) Nước sông 2 (0,8) 5 (0,8) Nước uống đóng chai 77 (32,1) 331 (55,2) Có xử lý nước trước khi sử dụng cho ăn uống 114 (47,5) 155 (25,9) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  115 Tiêu chí Tần số (%) Năm 2012 n = 240 Năm 2013 n = 600 Thỉnh thoảng 101 (88,6) 50 (8,3) Luôn luôn 13 (11,4) 105 (17,5) Giải pháp xử lý nước Đun sôi 91 (79,8) 142 (91,6) Lắng phèn 7 (6,01) 9 (5,8) Lọc 24 (21,1) 12 (7,7) Dùng chất khử trùng nước 2 (1,8) 7 (4,5) Đối với  thực hành sử dụng nước  tại hộ gia  đình, kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ hộ gia đình  sử dụng nước máy cho sinh hoạt  là cao  (chiếm  54,6% năm 2012 và 83,8% năm 2013), kế đến  là  sử dụng  nước  giếng  khoan  (chiếm  27,1%  năm  2012 và 15,3% năm 2013), tỷ lệ hộ gia đình dùng  nước sông hay nước mưa cho sinh hoạt  là thấp  (dưới 2%). Tuy vậy, một điểm đáng lưu ý là đối  với những hộ gia đình có sử dụng nước máy, tỷ  lệ cho biết chất lượng nước máy có vấn đề trong  quá trình sử dụng  là cao, đặc biệt  là với những  hộ  gia  đình  được  khảo  sát  trong  năm  2013  (84,7%),  tỷ  lệ  này  trong  năm  2012  là  40,5%.  Những  vấn  đề  thường  gặp  là  nước  bị  đục,  có  màu vàng (do sắt), có mùi lạ, trong đó tỷ lệ nước  bị  đục  khá  cao  trên  80%  (88,7%  năm  2012  và  83,7% năm 2013).  Đối với nguồn nước  ăn uống,  đa  số hộ gia  đình  sử dụng nước uống  đóng chai hoặc nước  uống đóng bình 20  lít cho ăn uống (32,1% năm  2012 và 55,2% năm 2013), kế  đến  là nước máy  (27,9%  năm  2012  và  32,7%  năm  2013),  nước  giếng khoan hay nước mưa. Tuy nhiên, tỷ lệ có  xử  lý nước  trước khi dùng  để ăn uống  là  thấp  (47,5% năm 2012 và 25,9% năm 2013). Đáng chú  ý là tỷ lệ đối tượng cho biết luôn luôn xử lý nước  trước khi sử dụng là thấp (dưới 18%). Mặt khác,  biện  pháp  xử  lý  nước  được  dùng  phổ  biến  là  đun  sôi  (chiếm  79,8% năm  2012 và  91,6% năm  2013),  những  biện  pháp  xử  lý  khác  như  lắng  phèn,  lọc hay dùng  chất  khử  trùng nước  là  ít.  Trong  khi  đó,  như  kết  quả  khảo  sát  về  chất  lượng nguồn nước  trong bảng  1, nước máy  có  rất nhiều vấn đề về độ đục, cặn bẩn, và chỉ xử lý  đơn thuần bằng đun sôi là không có tác dụng.  Bảng 3:Kiến thức, thực hành sử dụng nhà tiêu hợp  vệ sinh tại các hộ gia đình  Tiêu chí Tần số (%) Năm 2012 n = 240 Năm 2013 n = 600 Biết địa phương đang tham gia thực hiện Chương trình MTQG NS&VSMT NT 52 (21,7) 124 (20,7) Từ nhân viên y tế 16 (30,8) 71 (57,3) Từ nhân viên Ủy ban nhân dân xã 2 (3,8) 35 (28,2) Từ loa phát thanh 33 (63,5) 0 (0) Khác 1 (1,9) 18 (14,5) Những lợi ích của nhà tiêu hợp vệ sinh Cô lập phân người 75 (31,3) 90 (15,0) Ngăn động vật, côn trùng tiếp xúc với phân 45 (18,8) 157 (26,2) Diệt được mầm bệnh trong phân 24 (10,0) 107 (17,8) Không gây mùi khó chịu 53 (22,1) 271 (45,2) Không làm ô nhiễm môi trường 165 (68,8) 419 (69,8) Văn minh, lịch sự 91 (37,9) 355 (59,2) Nơi đi tiêu hiện nay của gia đình Trên sông/kênh/rạch 0 (0) 21 (3,5) Cầu tiêu ao cá 22 (9,2) 310 (51,7) Đào lỗ đi tiêu 0 (0) 1 (0,2) Đi nhờ nhà tiêu hợp vệ sinh của hàng xóm 5 (2,0) 2 (0,3) Nhà tiêu hợp vệ sinh của gia đình 213 (88,8) 266 (44,3) Lý do không xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh Không cần thiết 4 (14,8) 129 (38,6) Không biết kỹ thuật xây dựng 22 (81,5) 8 (2,4) Không có tiền 1 (3,7) 197 (59,0) Có dự định xây nhà tiêu hợp vệ sinh 17 (62,9) 209 (62,6) Thời điểm dự kiến xây dựng hay cải tạo nhà tiêu Khi dành dụm đủ tiền 8 (29,6) 113 (33,8) Chỉ khi nhận được sự hỗ trợ tài chính 14 (51,9) 36 (10,8) Không có kế hoạch cụ thể 5 (18,5) 185 (55,4) Số tiền dự kiến có thể chi cho việc xây nhà tiêu < 500.000 19 (70,4) 44 (13,3) 500.000 – 1.000.000 5 (18,5) 255 (76,3) 1.000.000+ – 2.000.000 3 (11,1) 12 (3,6) 2.000.000+ 0 (0) 23 (6,9) Một trong những mục tiêu của Chương trình  MTQG NS &  VSMT NT  là  nâng  cao  tỷ  lệ  sử  dụng nhà  tiêu hợp vệ  sinh  tại  các hộ gia  đình  nông  thôn,  thông  qua  các  hoạt  động  truyền  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 116 thông giáo dục sức khỏe, và sự trợ cấp tài chính.  Tuy  nhiên, một  điểm  đáng  ghi  nhận  từ  cuộc  khảo sát trong hai năm 2012, và 2013 là tỷ lệ đại  diện  hộ  gia  đình  cho  biết  có  biết  rằng  địa  phương đang tham gia chương trình MTQG NS  & VSMT NT là thấp (dưới 22%). Khi được hỏi về  những  lợi  ích  của một  nhà  tiêu  hợp  vệ  sinh,  phần  lớn  đối  tượng  chỉ  trả  lời  chung  chung  là  không  làm  ô  nhiễm  môi  trường  (chiếm  đến  khoảng 69%  trong cả hai năm),  tỷ  lệ đối  tượng  biết rằng  lợi  ích  lớn nhất của một nhà  tiêu hợp  vệ  sinh  là diệt  được mầm bệnh  có  trong phân  người  là  thấp  (10%  năm  2012  và  17,8%  năm  2013).  Về thực hành sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh,  tỷ  lệ  có  sở  hữu  nhà  tiêu  hợp  vệ  sinh  là  thấp  (44,3%  năm  2013),  chưa  đạt mục  tiêu  chương  trình đặt ra là 65% hộ gia đình nông thôn có nhà  tiêu  hợp  vệ  sinh. Kết  quả  khảo  sát  trong  năm  2012  cho  thấy  có  đến  88,8% hộ gia  đình  có  sở  hữu nhà  tiêu hợp vệ sinh,  tỷ  lệ này  là cao,  tuy  nhiên, đặc tính của mẫu trong năm 2012 là tỷ lệ  hộ gia đình buôn bán nhỏ lẻ (gần chợ của xã, thị  trấn) chiếm  tỷ  lệ  tương đối cao  (40,4%), và đây  cũng có  thể  là một yếu  tố  tác động đến việc sở  hữu nhà tiêu hợp vệ sinh của các hộ gia đình.  Về  lý do không  xây dựng nhà  tiêu hợp vệ  sinh, kết quả khảo sát năm 2012 cho thấy  lý do  lớn  nhất  là  không  biết  kỹ  thuật  xây  dựng  (81,5%), thấy không cần thiết (14,8%); trong năm  2013  là  do  không  có  tiền  (
Tài liệu liên quan