Thực trạng xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số đề xuất

Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các tổ chức tín dụng (TCTD) đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, nỗ lực xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, phát mại tài sản, thu hồi nợ từ thi hành án, sử dụng dự phòng rủi ro Tuy nhiên, nợ xấu luôn phát sinh hàng ngày, song hành với hoạt động của các TCTD. Do đó, xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tình hình tài chính của các TCTD là một trong ba vấn đề trọng tâm trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD. Bài viết đánh giá những kết quả đạt được trong xử lý nợ xấu, gắn với quá trình cơ cấu lại các TCTD ở Việt Nam. Đồng thời, tìm ra những hạn chế, vướng mắc cần được tháo gỡ để có giải pháp phù hợp nhằm xử lý nợ xấu, đạt được lộ trình trong Đề án tái cơ cấu các TCTD.

pdf6 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số đề xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019 Thực trạng xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số đề xuất CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2019- XUÂN KỶ HỢI Nguyễn Lê Nguyên Dung Ngày nhận: 10/01/2019 Ngày nhận bản sửa: 14/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019 Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các tổ chức tín dụng (TCTD) đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, nỗ lực xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, phát mại tài sản, thu hồi nợ từ thi hành án, sử dụng dự phòng rủi ro Tuy nhiên, nợ xấu luôn phát sinh hàng ngày, song hành với hoạt động của các TCTD. Do đó, xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tình hình tài chính của các TCTD là một trong ba vấn đề trọng tâm trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD. Bài viết đánh giá những kết quả đạt được trong xử lý nợ xấu, gắn với quá trình cơ cấu lại các TCTD ở Việt Nam. Đồng thời, tìm ra những hạn chế, vướng mắc cần được tháo gỡ để có giải pháp phù hợp nhằm xử lý nợ xấu, đạt được lộ trình trong Đề án tái cơ cấu các TCTD. Từ khóa: Nợ xấu, tái cơ cấu, xử lý 1. Kết quả xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong thời gian qua gày 01/3/2012, Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015” theo Quyết định số 254/QĐ-TTg, trong đó xử lý nợ xấu là mục tiêu cơ bản hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ và NHNN đã đưa ra một số giải pháp cần thiết để giảm tỷ lệ nợ xấu như ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/02/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu. Trong đó, có yêu cầu các TCTD đẩy mạnh triển khai giải pháp tự xử lý nợ xấu như đánh giá lại nợ, cơ cấu lại nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai, nâng cao chất lượng đánh giá giá trị thị trường các khoản nợ xấu, hỗ trợ hoàn thành các hồ sơ pháp lý liên quan đến tài sản đảm bảo tiền vay để sớm xử lý được nợ xấu. Đồng thời để hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý nợ xấu, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2013/NĐ - CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) nhằm tập trung xử lý nợ xấu của các TCTD có tỷ lệ nợ xấu trên 3%. Từ khi hoạt động, VAMC đã 22 CHÚC MỪNG NĂM MỚI Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Bảng 1. Kết quả mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt 2013 - 2017 Đơn vị: tỷ đồng, số lượng STT Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2013-2017 1 Số lượng khách hàng 963 5.304 9.772 832 569 17.440 2 Số khoản nợ 1.568 8.618 14.310 1.240 848 26.584 4 Dư nợ gốc nội bảng 36.257 92.448 109.264 42.183 32.411 312.563 5 Giá mua 30.947 77.705 100.458 40.035 31.831 280.976 Nguồn: Báo cáo hoạt động của VAMC các năm 2013-2017 phát huy vai trò của mình, tích cực mua nợ và xử lý nợ từ các TCTD, bao gồm mua nợ theo trái phiếu đặc biệt (TPĐB), mua nợ theo giá thị trường. Đến năm 2017 VAMC đã mua 31.831 tỷ đồng nợ xấu bằng TPĐB, vượt 27,2% kế hoạch được phê duyệt từ đầu năm. Việc TCTD bán nợ xấu bằng TPĐB cho VAMC giảm từ 100,4 ngàn tỷ đồng năm 2015 xuống 31,8 ngàn tỷ đồng năm 2017 phản ánh áp lực cấp bách đối với các TCTD trong xử lý nợ xấu theo hình thức này đã thuyên giảm. Từ năm 2017 VAMC cũng chuyển mạnh sang mua bán nợ theo giá thị trường và tích cực phân loại nợ, xử lý nợ đã mua theo hình thức phát hành TPĐB. Do vướng mắc về cơ chế cũng như nguồn lực, nên NHNN giao chỉ tiêu mua nợ theo giá thị trường cho VAMC năm 2017 là 1.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, với quyết tâm và nhờ được tháo gỡ khó khăn về cơ chế bằng Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội “Về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD” ban hành ngày 21/6/2017, theo đó Chính phủ đã tăng và cấp bổ sung vốn điều lệ cho VAMC từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng, nên đến 31/12/2017 VAMC đã mua được 3.141 tỷ đồng nợ theo giá thị trường, bằng 3,1 lần kế hoạch được giao từ đầu năm. Trong điều kiện vốn điều lệ thấp, VAMC xác định gắn việc mua nợ với tìm kiếm thị trường đầu ra để tăng vòng quay vốn. Với định hướng này, 83% nợ mua theo giá thị trường đã được Công ty bán thành công ngay trong năm 2017. Hoạt động mua bán nợ theo giá thị trường đạt kết quả tốt đã khẳng định được sự phát triển đúng hướng của VAMC, góp phần đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng. Ngoài ra, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD là một bước tiền đề để xử lý các khó khăn, vướng mắc, tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các TCTD, VAMC và các tổ chức mua bán nợ xấu. Qua đó góp phần kiểm soát và xử lý nhanh nợ xấu của hệ thống TCTD. Tính từ khi Đề án cơ cấu lại các TCTD được triển khai (năm 2012) đến tháng 7/2018, toàn hệ thống Ngân hàng đã xử lý được 794.200 tỉ đồng nợ xấu. Riêng đối với kết quả xử lý nợ xấu tính từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, hệ thống TCTD đã xử lý được 138,29 nghìn tỷ đồng. Bênh cạnh đó, trong bối cảnh, yêu cầu cấp bách là phải cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi người gửi tiền và giữ vững ổn định, an toàn hệ thống, bảo đảm các TCTD tiếp tục phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo và đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, ngày 19/7/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”. Cụ thể, từ năm 2016- 2018 tập trung vào việc xây dựng, triển khai phương án cơ cấu các TCTD; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách tiền tệ và xử lý nợ xấu. Giai đoạn 2019- 2020 triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp; củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu để đạt được mục tiêu đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%. 23 XUÂN KỶ HỢI 2019 Số 200+201- Tháng 1&2. 2019Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Với những nỗ lực trong công tác xử lý nợ xấu của các TCTD, phối hợp chặt chẽ với VAMC, xử lý nợ xấu đã có những kết quả khả quan. Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD tháng 9/2012, ở mức rất cao khoảng 17,2%. Với các biện pháp xử lý nợ xấu, các năm 2013, 2014 tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống, nhưng vẫn ở mức cao hơn 3%. Tuy nhiên, sau 1 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH và Quyết định 1058/QĐ- TTg, cùng những định hướng chính sách vĩ mô, giải pháp tháo gỡ đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu. Tính đến tháng 6/2018, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống chỉ còn 2,13%, giảm so với mức 2,34% vào năm 2017. 2. Những hạn chế trong xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Mặc dù, trong thời gian qua ngành Ngân hàng đã tích cực, nỗ lực xử lý nợ xấu và đạt được kết quả nêu trên, nhưng trong thực tiễn các ngân hàng thương mại (NHTM) đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý thu hồi nợ xấu. Quyết định 1058/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” đặt ra mục tiêu giảm số lượng TCTD yếu kém, đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3%, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ Đồ thị 1. Tỷ lệ nợ xấu qua các năm Đơn vị: % Nguồn: Website NHNN vững sự ổn định, an toàn hệ thống... Tuy nhiên, trong thực tế nợ xấu ở các ngân hàng vẫn chưa được xử lý một cách triệt để. Nợ cũ chưa xử lý xong, nợ có vấn đề phát sinh thêm vẫn luôn rình rập các ngân hàng. Cơ cấu nợ xấu cũng có chuyển biến đáng lưu ý, nợ xấu tăng chủ yếu do nợ nhóm 5- nợ có khả năng mất vốn. Tính đến thời điểm tháng 9/2018, nợ có khả năng mất vốn tăng lên 46.973 tỷ đồng ở 23 ngân hàng, chiếm đến 56% tổng nợ xấu. Những ngân hàng có nợ nhóm 5 tăng mạnh như BIDV (tăng 47%), VietinBank (tăng 67,5%), VPBank (tăng 62%), Vietcombank (tăng 136%), ACB (tăng 62%), TPBank (tăng 46%), Saigonbank (tăng 39%). Hai phương án xử lý nợ xấu được sử dụng nhiều nhất là các NHTM tự xử lý nợ xấu bằng các phương pháp nghiệp vụ (thu hồi nợ, giảm/giãn nợ, chuyển cho công ty quản lý tài sản thuộc ngân hàng đó) hoặc bán nợ cho VAMC. Đối với phương án bán nợ cho VAMC, mặc dù VAMC đã sử dụng các biện pháp xử lý nợ xấu linh hoạt như phát mại, đấu giá, bán tài sản, bán khoản nợ thông qua hình thức xử lý trực tiếp hoặc ủy quyền cho các TCTD, nhưng quá trình thu hồi nợ của tổ chức này hiện nay vẫn gặp phải những khó khăn vướng mắc sau đây: - Về quy mô nguồn vốn và năng lực của VAMC: Nhằm nâng cao năng lực của VAMC, đồng thời đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường, cuối năm 2017, Chính phủ cấp đủ vốn điều lệ cho VAMC theo Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015. Theo đó, nguồn vốn của VAMC đã tăng lên 2.000 tỷ đồng so với mức 500 tỷ đồng trước đó. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng còn rất thấp do yêu cầu đặt ra đối với VAMC là phải mua và xử lý các khoản nợ hàng trăm ngàn tỷ đồng. Do đó, việc mua lại toàn bộ các khoản nợ xấu của các TCTD là khó khả thi, để giải quyết vấn đề này, VAMC đã sử dụng đến trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, việc mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt có một số hạn chế: Một là, sử dụng trái phiếu đặc biệt trong thời gian dài thì các TCTD phải liên tục trích lập dự phòng bằng 20% giá trị của trái phiếu đặc biệt, do đó hạn chế tăng trưởng 24 CHÚC MỪNG NĂM MỚI Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Đồ thị 2. Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn tại một số ngân hàng, tháng 9/2018 Đơn vị: tỷ đồng Nguồn: Website Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia tín dụng của cả hệ thống; hai là, công tác xử lý nợ xấu thường kéo dài, nên việc thực hiện các nhiệm vụ đề ra của VAMC sẽ mất nhiều chi phí, như chi phí quản lý để tài sản không bị xuống cấp và mất giá trị; ba là, nếu chỉ dựa vào trái phiếu đặc biệt, VAMC sẽ không thể mua và giải quyết dứt điểm toàn bộ các khoản nợ xấu hiện nay, gây áp lực lớn về chi phí đối với công ty nếu quá trình xử lý nợ xấu kéo dài. Trong khi đó, theo nhiệm vụ, VAMC phải đồng thời thực hiện nhiều hoạt động khác như: Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm (TSBĐ) đã được VAMC thu nợ, đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần Do đó, với nhu cầu và yêu cầu xử lý nợ xấu như trên, số vốn điều lệ của VAMC còn quá nhỏ. - Về cơ chế xử lý liên quan đến TSBĐ + Thứ nhất, quyền thu giữ TSBĐ: Mặc dù Nghị quyết 42 cho phép TCTD và VAMC được quyền thu giữ TSBĐ. Tuy nhiên, điều kiện lớn nhất để TCTD, VAMC có quyền thu giữ TSBĐ là tại Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, nếu Hợp đồng bảo đảm không thỏa thuận cụ thể về quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận những nội dung không rõ ràng có thể gây bất lợi cho TCTD trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng để thực hiện quyền lợi của mình. + Thứ hai, hoạt động xử lý TSBĐ đối với các khoản nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản: Theo các quy định hiện nay, việc chuyển nhượng các bất động sản là dự án còn dở dang vẫn áp dụng theo Luật Kinh doanh bất động sản. Theo đó, khi chuyển nhượng các bất động sản này phải có sự đồng ý của Bên thế chấp, gây khó khăn cho VAMC khi xử lý tài sản này trong trường hợp khách hàng, bên thế chấp không hợp tác. + Thứ ba, vấn đề ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho VAMC: Theo Nghị quyết 42, số tiền thu được từ xử lý TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD, tổ chức mua, bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, trường hợp bên chuyển nhượng không hoặc chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với cơ quan thuế sẽ không thực hiện được thủ tục chuyển nhượng cho người mua tài sản. Do đó, quy định về thứ tự ưu tiên nói trên chưa được thực thi trên thực tế. - Về hành lang pháp lý và thị trường mua bán nợ 25 XUÂN KỶ HỢI 2019 Số 200+201- Tháng 1&2. 2019Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng + Trên thị trường, mặc dù nguồn cung về nợ xấu khá lớn nhưng số lượng công ty chuyên về mua bán nợ xấu lại không nhiều, ngoài VAMC chỉ có Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của Bộ Tài chính là hoạt động tích cực. Ngoài ra, có 28 công ty mua bán nợ (AMC) của các NHTM nhưng nguồn lực rất hạn chế và hầu hết chỉ xử lý nợ nội bộ cho chính các ngân hàng mẹ, không tham gia thị trường mua bán nợ. + Hành lang pháp lý để vận hành thị trường mua bán nợ tại Việt Nam còn nhiều hạn chế, các khoản nợ của VAMC trước khi được phép bán thỏa thuận trên thị trường phải trải qua nhiều thủ tục và điều kiện. Đối với các khoản nợ mua bằng trái phiếu đặc biệt, phải trải qua bước bán đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh ít nhất một lần không thành, VAMC mới được bán khoản nợ theo phương thức thỏa thuận. Đối với khoản nợ mua theo giá trị thị trường, VAMC cũng chỉ được bán khoản nợ theo phương thức thỏa thuận trực tiếp khi đáp ứng được điều kiện giá bán khoản nợ không thấp hơn giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu tại VAMC hoặc sau khi đã bán nợ theo phương thức đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh không thành. Những quy định này nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, hạn chế việc thông đồng giữa người mua, người bán trong hoạt động xử lý nợ, tuy nhiên, mặt khác lại làm hạn chế khả năng tham gia cũng như việc khẳng định vai trò trung tâm phát triển thị trường mua bán nợ của VAMC. + Thực tế hiện nay, VAMC chưa thể tự định giá các khoản nợ, trong khi các tổ chức định giá khoản nợ ở Việt Nam còn rất ít do thị trường mua bán nợ chưa phát triển, không có nhiều tổ chức định giá khoản nợ độc lập. - Về việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp: Nghị quyết 42 quy định việc tòa án được áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ của khoản nợ xấu của TCTD, VAMC tại tòa án. Nhưng, tại Điều 323 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì tòa án phải ra quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Như vậy, trường hợp bên có nghĩa vụ trả nợ/ chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, nếu không có hướng dẫn cụ thể với những quy định nêu trên, biện pháp áp dụng các thủ tục rút gọn có thể không phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế như kỳ vọng. 3. Một số đề xuất giải pháp đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu phù hợp với lộ trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng Xuất phát từ những khó khăn nêu trên, để quá trình xử lý nợ xấu được đẩy mạnh và triệt để phù hợp với lộ trình tái cơ cấu các TCTD, trong thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành đặc biệt ở các vấn đề sau: - Nâng cao năng lực xử lý nợ của VAMC: Một là, cần có lộ trình tăng thêm vốn điều lệ cho VAMC để tăng cường năng lực tài chính trong việc mua, bán nợ xấu theo cơ chế thị trường. Hai là, đối với những khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt cần tiến hành đánh giá, phân loại từng khoản nợ và TSBĐ để phát mại cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đồng thời VAMC có thể mua luôn khoản nợ xấu đó theo giá thị trường. - Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến TSBĐ: Một là, cần sớm ban hành quy định bổ sung hướng dẫn đối với quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai, hướng dẫn thủ tục chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu là dự án bất động sản đang dở dang. Hai là, cần có quy định hướng dẫn thực hiện việc thu thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng TSBĐ để thu hồi nợ xấu, bảo đảm tính thực thi cho quy định về “Thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ”, bảo đảm quyền lợi của bên mua TSBĐ. - Phát triển thị trường mua bán nợ: Một là, nâng cao năng lực của các AMC trong nước, chú trọng thúc đẩy phạm vi hoạt động của các AMC, khuyến khích các AMC tham gia mua 26 CHÚC MỪNG NĂM MỚI Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng bán các khoản nợ của các ngân hàng khác để giảm bớt gánh nặng cho VAMC. Hai là, phát triển thị trường mua bán nợ thứ cấp với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu đã mua. Ba là, xây dựng quy trình, phương pháp định giá nợ, tài sản, cho phép VAMC định giá nợ xấu theo giá thị trường, đồng thời quy định các công ty tư vấn định giá tài sản hay các công ty kiểm toán tham gia định giá phải là các công ty hoạt động độc lập. Bốn là, các quy định của pháp luật hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua bán nợ sớm được ban hành để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho thị trường mua bán nợ. - Xem xét để trao cho VAMC các quyền hạn đặc biệt trong quá trình xử lý nợ xấu, cắt giảm các thủ tục pháp lý tạo điều kiện trong quá trình áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp. ■ Tài liệu tham khảo 1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2010-2017, tại 2. PGS.TS. Đào Minh Phúc, ThS. Nguyễn Hữu Mạnh (2017), “Cơ sở cho giải pháp toàn diện và triệt để về tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, hướng tới phát triển bền vững hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 15/2017. 3. TS. Nguyễn Văn Phương (2017), “Cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu”, Tạp chí Ngân hàng số 12/2017. 4. TS. Tôn Thanh Tâm (2017), “Bàn về xử lý nợ xấu”, Tạp chí Ngân hàng số 23/2017. 5. TS. Đoàn Văn Thắng, Tổng giám đốc Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam, “Một số khó khăn, vướng mắc trong hoạt động mua, bán và xử lý nợ và đề xuất tháo gỡ”, tại 6. https://sbvamc.vn/index.php?f=news&do=detail&id=1167. 7. TS. Đào Minh Tú (2018), “Kinh nghiệm tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu”, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 22/2018. 8. PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, PGS. TS. Trần Thị Thanh Tú, TS. Nguyễn Thị Nhung (2017), “Tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016 từ khía cạnh xử lý các ngân hàng yếu kém”, Tạp chí Ngân hàng số 7/2017. 9. TS. Lê Thị Thùy Vân (2017), “Nợ xấu và quản lý nợ xấu đối với các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”, đề tài Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở- Viện Chiến lược và chính sách tài chính, 2017. 10. TS. Lê Thị Thùy Vân và Vương Duy Lâm (2015), “VAMC và xử lý nợ xấu: Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị chính sách”, sách Tài chính Việt Nam 2014 - 2015, Nhà xuất bản Tài chính. 11. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, “Toàn cảnh nợ xấu tại 23 ngân hàng trong 9 tháng đầu năm 2018”, tại Thông tin tác giả Nguyễn Lê Nguyên Dung Khoa Tài chính-Ngân hàng, Đại học Tài chính- Kế toán Email: nguyenlenguyendung@tckt.edu.vn Summary The reality of bad debt handling process associated with restructuring credit institution in Viet Nam and some solution Recently, under the drastic direction of the State Bank, credit institutions have actively improved the quality of assets, controlled credit quality, made efforts to handle bad debts by urging debt collection, selling property, collecting debt from judgment execution, using of risk provisions... However, bad debts always arise daily, in par
Tài liệu liên quan