Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách tiền tệ , chúng em quyết định chọn đề tài :
“Điều hành CSTT của NHNN Việt Nam từ năm 2007 đến nay và những vấn đề đặt ra.”
Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền tệ của NHNN VN trong giai đoạn 2007 -2010 rất rộng lớn, có thể kiến thức của chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn nữa.
38 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam và những vấn đề đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG
&
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Giáo viên: Trần Thị Lộc
Nhóm 5 – H302 – sáng thứ 6
Hà Nội 20.11.2010
Danh sách thành viên Nhóm 5 H302 sáng thứ 6
stt
Tên thành viên
Lớp
1
Đào Thị Hải Huyền
TCDNB_K11
2
Hoàng Thị Cẩm Tú
TCDNB_K11
3
Nguyễn Thị Ngọc Huế
TTQTB_K11
4
Vũ Giang Lam
TCDNC_K11
5
Trần Văn Chiến
TCDNC_K11
6
Nguyễn Thanh Thủy
TCDNB_K11
7
Trần Phi Hùng
TCDNB_K11
8
Nguyễn Quang Đức
TCDNB_K11
9
Bùi Trường Minh
TCDNA_K11
10
Phạm Thế Huỳnh
TCDNB_K11
11
Mai Hồng Minh
TCDNB_K11
12
Nguyễn Văn Thương
TCDNB_K11
13
Nguyễn Thị Thùy Linh
TCDNE_K11
Lời Mở Đầu
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách tiền tệ , chúng em quyết định chọn đề tài :
“Điều hành CSTT của NHNN Việt Nam từ năm 2007 đến nay và những vấn đề đặt ra.”
Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền tệ của NHNN VN trong giai đoạn 2007 -2010 rất rộng lớn, có thể kiến thức của chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn nữa.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!!
Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ
a. Khái niệm chính sách tiền tệ :
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
b. Vị trí chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
a. Ổn định giá trị đồng tiền :
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
b. Tăng công ăn việc làm:
CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%.
Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này : tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
c. Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm –khi kết thúc năm tài chính).
3. Các công cụ điều tiết:
Công cụ CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các mục tiêu của CSTT.
a. Công cụ trực tiếp:
Là các công tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông hoặc các mức lãi suất trung và dài hạn. Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến trong thời kỳ các hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ. Các công cụ được sử dụng đó là:
Hạn mức tín dụng
Ấn định lãi suất
Ấn định tỷ giá
Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM:
Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định .
Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên
Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tỉ giá hối đoái:
Khái niệm : Tỉ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt giá trịgiữa hai đồng tiền.nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.
Cơ chế tác động: Tác động đến hoạt động kinh tế , từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa.
Đặc điểm: Ngân hàng trung ương có thể ấn định tỉ giá cố định hay tha nổi theo quan hệ cung cầu ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện canh đó còn có tỉ gía cố định nhưng di động khi cần thiết và tỉ giá thả nổi có quản lý.khi vận dung công cụ này không phải NHTU đẩy tỉ giá lên cao hay kéo tỉ gái xuống thấp mà ổn định tỉ gái ở một mức độ hợp lí phù hợp vói đặc điểm điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc của nó là tốt nhất.
b.Công cụ gián tiếp:
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của CSTT, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được lan truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bao gồm:
Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động :
Nghiệp vụ thị trường mở có 2 loại: được phép mua bán chứng khoán vào những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và loại không được phép mua bán lại.Khi NHTW đem chứng khóan ra thị trường mở để bán nó thu tiền hay séc về, cho nên:
Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay của các ngân hàng trung gian.
Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của NHTW thì dự trữ tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt.
Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và ngược lại khi NHTW ra thị trường mở để mua chứng khoán.Như vậy khi NHTW thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện nghiệp vụ mua.
Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua ( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí , dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.
Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm : Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại, do NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãI, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Chương II:
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT Ở VIỆT NAM NĂM 2007 TỚI NAY
Thực trạng CSTT ở Việt Nam:
Bối cảnh chung:
Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn thuận lợi so với các năm trước.
Về khó khăn: Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng.
Các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm 2007... không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao.
Về thuận lợi: Thành quả nổi bật của những năm qua là duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/ năm trong 5 năm 2001 - 2005 và 8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so với các năm trước. Đó là những tiền đề vật chất rất quan trọng, là yếu tố thuận lợi cơ bản để các ngành, các cấp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước.
Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Bối cảnh trên đây đã tác động trực tiếp, toàn diện đến quá trình và kết quả sản xuất, kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp và xu thế biến động thị trường, giá cả trong nước trên cả 2 mặt thành tựu và hạn chế, bất cập của nền kinh tế năm 2007.
Sang đến năm 2008 tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động phức tạp. Cụ thể:
Tình hình thế giới:
Từ đầu năm 2008, giá dầu thô và nhiều loại vật tư, lương thực trên thị trường thế giới tăng đột biến, giá dầu thô đã tăng trên 140 USD/thùng; giá lương thực tăng trên 1.000 USD/tấn. Kinh tế tăng trưởng chậm lại trên phạm vi toàn cầu, trước hết là do những khó khăn trong thị trường nhà đất của Mỹ và sự mất giá của đồng đô la làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ giảm sút.
Từ sự suy thoái của kinh tế Mỹ, suy thoái kinh tế và lạm phát đã lan rộng ra các nền kinh tế lớn khác trong năm 2008 như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ... và ảnh hưởng toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Quí I năm 2008 của các nước đều giảm. Dự báo chỉ số CPI của các nước năm 2008 sẽ tăng cao hơn nhiều các năm trước.
Tình hình trong nước:
Từ năm 2007 một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đã có những biểu hiện xấu và tiếp tục tác động sang năm 2008 như: chỉ số giá trong năm 2007 tăng tới 12,6%; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng tới 39% và nhập siêu lên tới 29% tổng kim ngạch xuất khẩu; cân đối tiền tệ, các chỉ số về tổng phương tiện thanh toán, tổng mức huy động vốn và tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế đều tăng rất cao. Các dự báo khi xây dựng kế hoạch năm 2008 biến động khá lớn so với tình hình thực tế (tỷ giá giữa đồng Việt nam với USD; lãi suất tiết kiệm; mức lãi suất cho vay ).
Kinh tế thế giới bước sang 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Mỹ, đầu tầu kinh tế toàn cầu sau khi “lên dốc” không thành vào quý III năm 2008, đã trượt dốc không phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra nhưng chưa thể ngăn chặn được sự “bốc hơi” của lượng tài sản tài chính lên tới hơn 30.000 tỉ USD.Toàn thế giới đã chịu “chấn động” của “cơn sóng thần thế kỷ”. Lạm phát, giá hàng hóa, vật tư tăng cao.
Nếu tăng trưởng kinh tế năm 2008 của nước ta diễn ra theo đúng kịch bản 6,5%, thì hy vọng rằng trong năm 2009 chúng ta vẫn tiếp tục là nền kinh tế thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng kinh doanh và tài chính quốc tế. Tuy vậy, khó khăn về nguồn vốn và tín dụng quốc tế chưa đi qua. Thu hút vốn FDI trong năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao sẽ trở thành vấn nạn của năm 2009, kéo theo hiệu ứng là các tệ nạn tiêu cực xã hội. Tạo đủ công ăn việc làm cho người lao động là một thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt khối tư nhân, còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thu hẹp quy mô và giãn sản xuất, đồng nghĩa với việc cắt giảm nhân công hoặc sử dụng không hết thời gian làm việc, là những giải pháp phổ biến tại nhiều đơn vị sản xuất thời gian qua.
Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt 6 tháng cuối năm 2008 nhưng trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa tìm được tiếng nói chung.
Do tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp còn gia tăng, nhu cầu tiêu dùng trong năm 2009 sẽ giảm mạnh. Ngân hàng Thế giới ước tính mậu dịch thế giới sau khi tăng 6,2% trong năm 2008 sẽ suy giảm còn 2,1% trong năm tới. Từ đó, có thể xác định một năm khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc dù giá nhập khẩu cũng có xu thế giảm, nhưng muốn bảo đảm nhập siêu ở mức an toàn, cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng và đầu tư.
Trong năm 2009, NHNN đã thành công trong việc kích thích tăng trưởng ở mức 5,3%, trong khi kiềm chế lạm phát ở mức 6,5%. Nền kinh tế đã dần đi vào ổn định. Năm 2010, NHNN sẽ cố gắng đáp ứng cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu tăng trưởng sẽ chiếm ưu thế vì tình hình kinh tế thế giới sẽ biến chuyển thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho VN tăng trưởng nhanh hơn so với năm ngoái. Để đạt mức tăng trưởng 6,5% cho 2010 chúng ta phải chấp nhận một mức độ lạm phát cao hơn 7%. Một mức lạm phát 7-9% có thể chấp nhận được
Kinh tế trong nước có xu hướng tăng trưởng cao, thị trường tài chính, tiền tệ và kinh tế vĩ mô về cơ bản là ổn định. Mặc dù vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng ở mức khá cao. Chỉ số giá tiêu dùng 2 tháng đầu năm nay tăng 3,35%, hầu hết các nhóm mặt hàng đều tăng.
Như vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng ở mức khá cao trong những tháng đầu năm nay, nhưng so với cùng kỳ các năm gần đây chưa phải là đột biến. Nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu làm cho giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng là do tác động của giá cả hàng hóa thế giới, nhu cầu tiêu dùng tăng cao tron