Việt Nam là trường hợp hiếm có nếu không nói là duy nhất trên thế giới mà cả vàng, ngoại tệ (chủ yếu là Đô la Mỹ) được người dân tự do sử dụng công khai, bình đẳng như nhau, trong các quan hệ cất trữ, thanh toán và giao dịch với ngân hàng, như nội tệ - Đồng Việt Nam đồng tiền của quốc gia. Các Ngân hàng thương mại, tập trung là các Ngân hàng thương mại cổ phần ở thành phố Hồ Chí Minh vừa thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh bằng nội tệ - Đồng Việt Nam, vừa thực hiện huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ, vừa huy động vốn và cho vay bằng vàng. Nhiều Ngân hàng thương mại cổ phần công bố công khai lãi suất huy động vốn bằng vàng, lãi suất cho vay vốn bằng vàng, mức lãi suất đó cao hơn so với USD và thấp hơn so với nội tệ.
Trong khi đó hầu hết các nước, giờ đây vàng chỉ sử dụng là đồ trang sức của người dân và là một danh mục dự trữ quốc gia; còn người ta không sử dụng trong thanh toán. Song ở Việt Nam, người ta sử dụng vàng làm đơn vị thanh toán và phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bán nhà đất, tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh phía Nam. Việc công bố giao dịch như vậy cũng xuất hiện công khai trong các giao dịch địa ốc của các ngân hàng, như: ACB. Trong thực tế, ít người thanh toán trực tiếp với nhau bằng vàng, mà vàng chỉ là đơn vị thanh toán, người mua và người bán vẫn thanh toán với nhau bằng tiền mặt, chủ yếu là đồng Việt Nam. Chính vì vậy việc nghiên cứu “Vai trò của vàng và so sánh giữa vàng vơí tiền đồng” giúp các tác nhân trong nền kinh tế có thể phản ứng linh hoạt trước những thay đổi của thị trường vàng cũng như ảnh hưởng của nó tới các thị trường khác từ đó nhanh chóng có những giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực cũng như tận dụng những cơ hội mà thị trường vàng mang lại.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của vàng và so sánh với tiền đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI CHÍNH HẢI QUAN
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ
BÁO CÁO TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
─✵─
Đề tài:
VAI TRÒ CỦA VÀNG VÀ SO SÁNH VỚI TIỀN ĐỒNG
Xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
TP Hồ Chí Minh tháng 5/2011
Phần mở đầu.
Việt Nam là trường hợp hiếm có nếu không nói là duy nhất trên thế giới mà cả vàng, ngoại tệ (chủ yếu là Đô la Mỹ) được người dân tự do sử dụng công khai, bình đẳng như nhau, trong các quan hệ cất trữ, thanh toán và giao dịch với ngân hàng, như nội tệ - Đồng Việt Nam đồng tiền của quốc gia. Các Ngân hàng thương mại, tập trung là các Ngân hàng thương mại cổ phần ở thành phố Hồ Chí Minh vừa thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh bằng nội tệ - Đồng Việt Nam, vừa thực hiện huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ, vừa huy động vốn và cho vay bằng vàng. Nhiều Ngân hàng thương mại cổ phần công bố công khai lãi suất huy động vốn bằng vàng, lãi suất cho vay vốn bằng vàng, mức lãi suất đó cao hơn so với USD và thấp hơn so với nội tệ.
Trong khi đó hầu hết các nước, giờ đây vàng chỉ sử dụng là đồ trang sức của người dân và là một danh mục dự trữ quốc gia; còn người ta không sử dụng trong thanh toán. Song ở Việt Nam, người ta sử dụng vàng làm đơn vị thanh toán và phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bán nhà đất, tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh phía Nam. Việc công bố giao dịch như vậy cũng xuất hiện công khai trong các giao dịch địa ốc của các ngân hàng, như: ACB... Trong thực tế, ít người thanh toán trực tiếp với nhau bằng vàng, mà vàng chỉ là đơn vị thanh toán, người mua và người bán vẫn thanh toán với nhau bằng tiền mặt, chủ yếu là đồng Việt Nam. Chính vì vậy việc nghiên cứu “Vai trò của vàng và so sánh giữa vàng vơí tiền đồng” giúp các tác nhân trong nền kinh tế có thể phản ứng linh hoạt trước những thay đổi của thị trường vàng cũng như ảnh hưởng của nó tới các thị trường khác từ đó nhanh chóng có những giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực cũng như tận dụng những cơ hội mà thị trường vàng mang lại.
Tính cấp thiết của đề tài: Thị trường vàng hiện nay trong nước và trên thế giới biến động mạnh với việc giá vàng tăng liên tục và đôi khi cũng giảm liên tục trong một vài năm trở lại đây nhất là từ đầu năm nay cũng khá phức tạp, vàng có ảnh hưởng như thế nào đối với đồng nội tệ của Việt Nam trên nền kinh tế nước nhà.
Mục đích nghiên cứu: Tìm ra được đâu là nguyên nhân khiến giá vàng biến động mạnh mẽ và bất ổn như vậy và vàng có thể được sử dung rộng rãi như Việt Nam đồng như hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Các thời kỳ của vàng của Việt Nam và trên thế giới trong khuôn khổ của nghiên cứu về “ Vai trò của vàng”.
Kết cấu của đề tài:
Chương 1: Tổng quan về vàng.
Chương 2: Thực trạng về vai trò của vàng trong nền kinh tế và của tiền đồng Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÀNG
1.1. Chế độ bản vị vàng
Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng.
Hoàn cảnh ra đời: Ra đời vào năm 1867 tại Paris và kéo dài đến năm 1914. Nguyên tắc hoạt động: Các quốc gia gắn đồng tiền của mình với vàng bằng cách quy định gía tính vàng bằng đồng tiền đó và cho phép việc mua bán vàng tự do theo mức giá đã quy định. Vàng cũng được phép trao đổi tự do giữa các nước và trở thành nguồn dự trữ quốc tế chính thức.
Đặc điểm:
+ Mọi người được tự do đúc tiền vàng.
+ Tiền vàng được tự do lưu thong trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau.
Ưu – Nhược điểm của chế độ bản vị vàng:
Ưu đi ểm :
+ Thúc đẩy thương mại quốc tế diễn ra nhanh chóng.
+ Trong lưu thông hàng hoá, việc sử dụng chế độ bản vị vàng có nhiều tiến bộ hơn so với thời kỳ nền kinh tế đổi chác hiện vật.
Nhược điểm:
+ Nhà nước khó kiểm soát lượng vàng của mỗi quốc gia.
Chế độ bản vị vàng được chia làm hai chế độ:
1.2. Chế độ bản vị vàng cổ điển:
Là chế độ tiền tệ trong đó vàng là thứ kim loại được chọn làm bản vị.
Hoàn cảnh ra đời:
Nước Anh, nước tư bản công nghiệp đầu tiên trên thế giới đã bỏ qua chế độ song bản vị mà đi thẳng từ chế độ bản vị bạc sang chế độ bản vị vàng từ cuối thế kỉ XVIII. Từ năm 1870 Đức cũng chuyển từ song bản vị sang bản vị vàng.
Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX để phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của thời đại công nghiệp hóa, hầu hết các nước tư bản châu Âu và Bắc Mỹ cũng đã chuyển sang chế độ bản vị vàng. Trong khi trên một phần lớn diện tích thế giới ở cả ba châu lục: Á, Phi, Mỹ Latinh, các nước chậm phát triển vẫn duy trì chế độ bản vị bạc.
Ở Việt Nam, mãi đến năm 1931, Ngân hàng Đông Dương mới chuyển sang chế độ bản vị vàng nhưng là chế độ bản vị vàng cắt xén.
Đặc điểm:
Chế độ bản vị vàng cổ điển có 3 đặc điểm cơ bản sau đây:
Mọi người được tự do đúc tiền vàng theo tiêu chuẩn giá cả do Nhà nước quy định.
Tiền giấy được tự do đổi lấy vàng theo giá trị ghi trên giấy, từ đó hình thành tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia. Ví dụ, trước chiến tranh thế giới 1USD có thể đổi được gần 1/20 lượng vàng, 1GBPcó thể đổi được gần 1/4 lượng vàng, nên tỷ giá hối đoái giữa GBP và USD là gần 5 đôla.
Vàng được tự do luân chuyển giữa các nước, nghĩa là vàng vừa là tiền tệ quốc gia, vừa là tiền tệ quốc tế.
Với những đặc trưng trên, chế độ bản vị vàng cổ điển có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa:
- Thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa
- Góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tín dụng Tư bản chủ nghĩa
- Tạo điều kiện phát triển ngoại thương
Tuy nhiên, chế độ bản vị vàng cũng có những hạn chế của nó như:
Chính phủ các nước không còn kiểm soát được chính sách tiền tệ của mình vì lượng cung ứng tiền tệ của nước đó được xác định bởi các luồng vàng được di chuyển giữa các nước.
- Chính sách tiền tệ trên toàn thế giới bị chi phối rất lớn bởi việc sản xuất vàng và việc phát hiện các mỏ vàng. Khi lượng vàng đủ cho lưu thông thì nền kinh tế phát triển tốt, không có lạm phát. Nhưng nếu lượng vàng cung ứng không ngăn nhịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ làm giá cả hàng hóa sụt giảm, ngược lại nếu lượng cung ứng tiền vàng quá lớn sẽ làm giá cả hàng hóa tăng lên.
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển:
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển chính là những hạn chế trong chính bản thân nó. Từ đầu thế kỉ XX, để chuẩn bị chiến tranh và cả tái thiết sau chiến tranh, họ mua quá nhiều hàng hóa, vũ khí đến mức không còn đủ vàng để trả và phải phát hành tiền giấy nhiều hơn là giới hạn được bảo đảm bằng vàng, đặt cược vào kết cục chiến tranh và thu bồi thường chiến tranh như nước Đức đã làm trong Chiến tranh Pháp- Phổ 1870. Đầu tiên, chính phủ các nước lớn ra sức tích trữ vàng, đình chỉ đổi tiền ngân hàng lấy vàng, đình chỉ xuất khẩu vàng, thực hiện chế độ bảo hộ mậu dịch... Chẳng hạn như Ngân hàng Anh không đổi tiền ra vàng kể từ năm 1914. Cho đến cuối Thế chiến, nước Anh ban hành hàng loạt các quy định sử dụng “tiền luật định” như nộp thuế, trả trợ cấp xã hội, thu chi chính phủ… Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách ấy không như mong muốn vì các chính phủ phải chi tiêu quá nhiều. Lượng tiền mặt in ra quá nhiều làm xuất hiện lạm phát với quy mô khủng khiếp, như siêu lạm phát ở Đức với tỷ lệ lạm phát 1000% và sau 2 năm giá cả hàng hóa tăng 30 tỷ lần. Bên cạnh đó, luồng vàng di chuyển giữa các nước không đồng đều, 2/3 lượng vàng trên thế giới tập trung vào 5 nước lớn là Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, còn dự vàng các nước khác sụt giảm nghiêm trọng làm mất khả năng chuyển tiền giấy ra vàng. Chế độ bản vị vàng cổ điển sụp đổ, sau hơn 40 năm đem lại sự thịnh vượng cho các nước.
1.3. Chế độ bản vị vàng mới:
Cùng với sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển, lưu thông tiền tệ giữa các nước gặp nhiều khó khăn. Để có một chế độ tiền tệ ổn định, hàng loạt các cố gắng của các nước trong thập niên 1920 để quay trở lại bản vị vàng mà đi đầu là Mỹ năm 1919. Ở Anh quốc, với sự tư vấn của các nhà kinh tế học bảo thủ, đồng bảng trở lại bản vị vàng năm 1925 dưới thời Bộ trưởng Tài chính Winston Churchill dù ông làm việc này một cách miễn cưỡng. Bất kể giá vàng cao hơn và lạm phát nghiêm trọng sau Thế chiến thứ nhất chấm dứt chế độ bản vị vàng, Churchill đã trở lại bản vị vàng mức trước chiến tranh. Trong 5 năm từ 1920 đến 1925, giá vàng bị hạn xuống dần tới mức trước chiến tranh,đồng nghĩa với nó là giảm phát của nền kinh tế. Tiếp theo đó là Thụy Sĩ, Pháp và các quốc gia Bắc Âu khác cũng lần lượt khôi phục lại chế độ bản vị vàng.
Tuy nhiên, hầu hết các nước lúc bấy giờ không còn đủ vàng để chế độ bản vị vàng theo kiểu cổ điển mà phải thực hiện chế độ bản vị vàng mới, không trọn vẹn hay còn gọi là chế độ bản vị vàng bị cắt xén. Chế độ bản vị vàng mới bao gồm chế độ bản vị vàng thoi và chế độ bản vị hối đoái vàng.
( GBP đến Ngân hàng Anh để đổi )
Những nước có lượng dữ trữ vàng hạn chế thì thực hiện chế độ bản vị hối đoái vàng, tức là chuyển đổi gián tiếp lấy vàng thoi thông qua quan hệ hối đoái với đồng GBP. Các nước muốn có vàng thoi phải bán hàng cho Anh đổi lấy GBP bằng giấy hoặc GBP trong tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Anh, rồi từ đó sẽ chuyển đổi ra vàng thoi. Ngân hàng Anh trở thành trung tâm tài chính, tiền tệ, tín dụng và thanh toán quốc tế của toàn thế giới, London trở thành thị trường vàng và ngoại hối lớn nhất thế giới.
Ngay từ khi ra đời, chế độ bản vị vàng mới đã bộc lộ tính chất không ổn định nên khi cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 bùng nổ đã thật sự phá sập hệ thống tiền tệ dựa trên bản vị vàng thoi và bản vị hối đoái vàng. Đến đây, chế độ bản vị vàng mới hoàn toàn sụp đổ dưới mọi hình thức.
1.4. So sánh chế độ bản vị vàng cổ điển và chế độ bản vị vàng mới:
Chế độ bản vị vàng cổ điển là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi thành vàng theo một định nghĩa chính thức. Ví dụ, vào năm 1930, 1USD = 1,504 gr vàng,1FRF = 0,065gr vàng. Lượng tiền giấy phát hành luôn được đảm bảo bằng lượng vàng dự trữ. Trong chế độ tiền tệ này, mọi người được tự do đúc tiền, đổi tiền giấy hoặc vàng thoi lấy tiền vàng. Tiền tệ có giá trị trao đổi đúng bằng giá trị nội tại của nó. Giá trị thật sự của tiền đúng bằng giá trị ghi trên đồng tiền.
Trong chế độ bản vị vàng thoi, Nhà Nước hạn chế quyền tự do đổi tiền lấy vàng bằng cách chỉ cho chuyển đổi từ một khối lượng tối thiểu khá lớn, dưới hình thức vàng thoi. Tức là, vào thời kì này không còn tiền dưới hình thức những đồng tiền vàng mà chỉ có hình thức vàng thoi, tiền vàng không còn là phương tiện thanh toán chủ yếu trên thị trường nữa.
Còn chế độ bản vị hối đoái vàng là chế độ định nghĩa đơn vị tiền tệ quốc gia theo đơn vị tiền tệ của nước khác. Đơn vị tiền tệ của nước được chọn để định nghĩa lại theo chế độ kim bản vị. Ví dụ như Ấn Độ đã định nghĩa đồng Roupie theo đồng bảng Anh, đồng bảng Anh lại được định nghĩa theo bản vị vàng.
Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Các chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền mặt của chính phủ nước khác bằng vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ VÀ CỦA TIỀN ĐỒNG VIỆT NAM
Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới còn áp dụng bản vị vàng. Thay vào đó, tiền luật định được áp dụng, có nghĩa là Nhà nước áp đặt sử dụng đồng tiền do họ phát hành, yêu cầu nộp thuế, nhận trợ cấp, thanh toán của Chính phủ bằng đồng tiền đó. Ở một số định chế tài chính tư nhân, bản vị vàng vẫn được áp dụng.
Ngày nay tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, người dân có nhu cầu sở hữu, nắm giữ vàng do tập quán, thói quen sử dụng vàng làm phương tiện cất trữ giá trị và nhu cầu sử dụng vàng làm đồ trang sức. Riêng nhu cầu sử dụng vàng làm phương tiện cất giữ tài sản của người dân phụ thuộc chủ yếu vào những lợi ích họ thu được so với các phương tiện cất trữ tài sản hoặc đầu tư khác và do đó phần nào phụ thuộc vào sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó sản xuất và kinh doanh đồ trang sức mỹ nghệ bằng vàng là một nghề truyền thống đã có từ lâu đời và vẫn được duy trì, phát triển trong đời sống xã hội hiện đại. Tại Việt Nam, có hàng nghìn doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng trong cả nước, riêng thành phố Hồ Chí Minh có hơn 1.000 doanh nghiệp.
2.1. Thực trạng
2.1.1 Thị trường vàng trong những năm gần đây.
Kinh tế thế giới đã thoát khỏi khủng hoảng, nhưng giá vàng liên tục tăng mạnh do kinh tế phục hồi chậm chạp và không vững chắc, trong đó số liệu kinh tế Mỹ không mấy khả quan và đồng USD suy yếu, lãi suất tại Mỹ tiếp tục duy trì ở mức thấp là những động lực chính.
Như vậy, giá vàng tăng chủ yếu do kinh tế Mỹ còn yếu. Trên thực tế, đồng USD mất giá từ sau ngày 11/9/2001, điều này liên quan đến cuộc chiến của Mỹ tại Trung Đông, nhất là tại Afganistan, trong khi cuộc chiến này còn rất cam go. Vì thế, giá vàng có thể sẽ tăng vững trong dài hạn, nó sẽ chững lại và bắt đầu xu hướng giảm khi cuộc chiến tại Afganistan có dấu hiệu kết thúc. Vì lý do đó, những nỗ lực của nhiều nước trong việc chặn đà suy giảm USD như đã làm trong thời gian qua, thậm chí một thỏa thuận nào đó giữa các nền kinh tế chủ chốt cũng không thể cải thiện được tình hình. Tại những thời điểm nhất định, Fed có thể điều chỉnh các biện pháp chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế, góp phần kìm hãm tốc độ tăng giá vàng. Qua theo dõi cho thấy, giá vàng tăng lên theo chu kỳ kinh doanh thông thường: củng cố, điều chỉnh và tăng trở lại.
Tại Việt Nam, vàng được đưa vào lưu thông rất đa dạng về chủng loại và mẫu mã, nhưng thị trường vàng trong nước phụ thuộc vào vàng nhập khẩu, cả về khối lượng và giá cả. Hàng năm, nước ta nhập khoảng trên 60 tấn vàng, đáp ứng trên 90% nhu cầu trong nước, nhưng vàng không ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Mặc dù một bộ phận người dân vẫn sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán mua bán nhà đất, cất trữ vàng làm tài sản hộ thân. Trên thực tế, tỷ trọng vàng sử dụng trong thanh toán cũng như giao dịch gửi và vay tại các ngân hàng là rất nhỏ, tổng vốn huy động và cho vay tại các tổ chức tín dụng.
Trước những diễn biến của thị trường vàng trong nước (giá vàng trong nước cao hơn giá vàng trên thị trường thế giới trên 6%). Ngày 11/11/2009, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời cấp phép nhập khẩu vàng cho các đơn vị kinh doanh vàng nhằm tạo nguồn cung ổn định cho thị trường, góp phần ổn định giá vàng trong nước. Sự tăng giá của vàng tạo cơ hội kinh doanh với mức sinh lợi kỳ vọng cho các những nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, giá vàng tăng mạnh cũng có thể để lại những tác động cho nền kinh tế ở một số khía cạnh như sau:
Giá vàng tăng nhanh và mạnh làm cho thị trường vàng trở nên kém sôi động hoặc thậm chí đóng băng.
Không có nhiều giao dịch mua bán phát sinh và thiếu tính thanh khoản. Sức tiêu thụ các sản phẩm vàng bạc đá quý sẽ bị suy giảm, không thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường vàng và các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành vàng bạc đá quý.
Ngân hàng khó cho vay vàng.
Theo số liệu thống kê, vốn huy động tiết kiệm bằng vàng của các ngân hàng thương mại đạt ở mức khoảng 95.000 tỷ đồng (khoảng 115 tấn vàng hoặc 4,8 tỷ USD). Nếu giá vàng tăng, người dân và doanh nghiệp sẽ không dám vay vàng, vì lo ngại bị “thiệt hại kép” khi đến ngày đáo hạn trả nợ vay (vừa trả lãi suất vay vàng, vừa bù lỗ mức chênh lệch giá vàng). Nếu các ngân hàng huy động vàng mà không cho vay được, kênh tín dụng bằng vàng sẽ bị tắc nghẽn, gây lãng phí cho nguồn vốn vàng to lớn không sử dụng được.
Tâm lý đầu cơ, tích trữ vàng cũng sẽ xuất hiện:
Với xu hướng giá tăng mạnh, người dân sẽ rút tiền đồng mua vàng tích trữ để kỳ vọng kiếm lời chênh lệch giá, thay vì gửi tiền đồng vào các ngân hàng hoặc mua hàng hóa, dịch vụ để kích thích sức tăng trưởng kinh tế.
Ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI):
Theo phương pháp tính chỉ số CPI của Tổng cục thống kê cho giai đoạn 5 năm 2009-2014 trên toàn quốc, hiện tại vàng không được tính trong 572 nhóm hàng và dịch vụ để tính CPI. Tuy vậy, vàng tăng giá cũng sẽ tác động gián tiếp đến chỉ số CPI. Ví dụ, khi giá vàng tăng các nguyên liệu đầu vào phục vụ cho việc sản xuất, chế tác các dòng sản phẩm có liên quan đến vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý sẽ tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với nhóm hàng hóa này. Khi giá bán các sản phẩm kim loại quý tăng, các sản phẩm này sẽ tác động gián tiếp đến 572 nhóm hàng và dịch vụ chính thức nói trên.
Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ.
Khi giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián tiếp đến chỉ số CPI tăng, những dấu hiệu về lạm phát sẽ xuất hiện. Nếu tỷ lệ lạm phát không dao động trong vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải xem xét thực thi một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất cơ bản, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và điều tiết tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế để kiềm chế lạm phát.
Ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán vốn được xem là mặt hàng để xem xét biểu của nền kinh tế. Khi giá vàng tăng với mức sinh lợi kỳ vọng hấp dẫn, các công ty chứng khoán một mặt vừa chú tâm theo dõi diễn biến của thị trường vàng, mặt khác vừa lo ngại một số nhà đầu tư chứng khoán sẽ dịch chuyển danh mục đầu tư sang vàng. Nếu nhiều nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư sang vàng, thị trường chứng khoán sẽ thiếu tính thanh khoản, và điều này sẽ gây ảnh hưởng đến sự phục hồi và sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán và nền kinh tế.
Ảnh hưởng đến thị trường bất động sản.
Theo tập quán truyền thống từ lâu đời, người dân Việt Nam có thói quen sử dụng vàng để định giá nhà đất hoặc bất động sản. Nhà đất là tài sản có giá trị rất lớn có khi phải tích lũy vài chục năm mới sở hữu được, vì vậy việc người dân “neo” giá bán nhà đất vào vàng cũng là điều dễ hiểu.
Dù hiện nay, việc rao bán nhà đất bằng tiền đồng thay cho vàng có tăng lên, nhưng đó chỉ là hình thức. Bởi xét về bản chất, người bán nhà hay bất động sản thường quy đổi ra tiền đồng theo giá vàng hiện hành. Giá vàng tăng, dẫn đến giá trị nhà đất, bất động sản tăng theo, khiến các nhà đầu tư ngại mua bán nhà đất/bất động sản do sợ rủi ro giá vàng đảo chiều. Điều này có thể sẽ làm cho thị trường bất động sản kém sôi động hoặc thậm chí tắc nghẽn.
2.1.2. Phạm vi kinh doanh vàng ở Việt Nam hiện nay khá rộng, khó kiểm soát
Tại Việt Nam, theo các quy định của pháp luật hiện hành (Nghị định 174/1999/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 64/2003/NĐ-CP), phạm vi hoạt động kinh doanh vàng khá rộng rãi. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý một số hoạt động về vàng có liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ như:
Xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu
Sản xuất vàng miếng
Các hoạt động kinh doanh vàng khác như mua bán vàng trang sức mỹ nghệ, vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình thường giống như các loại hàng hoá khác. Theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, hoạt động mua bán, sản xuất gia công vàng trang sức mỹ nghệ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhưng không cần cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Tổ chức, cá nhân muốn tham gia chỉ cần đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu tư trên địa bàn và hoạt động trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hoạt động kinh doanh này thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại và Luật Doanh nghiệp.
Ngay cả hoạt động xuất, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ cũng không hề có bất kỳ một quy định nào để điều phối và kiểm soát. Không có các quy định cụ thể để xác định: Thế nào được xem là vàng gia công chế tác; vàng trang sức, mỹ nghệ. Trong khi đó, việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức mỹ nghệ thực hiện theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không cần có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, khả năng lạm dụng để xuất khẩu vàng có chất lượng cao (ví dụ, từ 90% trở lên) dưới hình thức vàng trang sức mỹ nghệ nhưng với khối lượng lớn là rất dễ xẩy ra. Do vậy, Bộ Tài chính đã sửa đổi mức thuế suất xuất khẩu vàng. Theo Thông tư số 184/2010/TT-BTC, từ ngày 01/01/2011, các loại vàng nguyên liệu, vàng trang sức có hàm lượng c