Mục tiêu: Xác định tỉ lệ VPBV do K. pneumoniae, một số đặc điểm dân số học, lâm sàng và sự đề kháng
kháng sinh tại bệnh viện Thống Nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu, mô tả, cắt ngang trên 42 bệnh nhân VPBV
do K. pneumoniae trong tổng số 125 bệnh nhân VPBV điều trị tại bệnh viện Thống Nhất từ 01/2010 - 03/2011.
Bệnh nhân được theo dõi cho đến hết triệu chứng viêm phổi hoặc xuất viện.
Kết quả: 42 bệnh nhân VPBV do K. pneumoniae, 57% nam, tuổi trung bình 76,4, tỉ lệ sinh ESBL là 45,2%
(19/ 42), viêm phổi không thở máy (VPKTM) 59,5%, viêm phổi thở máy (VPTM) 40,5%. Hầu hết VPBV khởi
phát muộn, trung bình 11,5 ngày. Thời gian thở máy trung bình 20 ngày. Kháng sinh theo kinh nghiệm ban đầu
thường phối hợp 85,7% (36/ 42), bao gồm cephalosporins 45,2% hoặc lactam/chất ức chế lactamase 40,5%
với quinolones 59,5% hoặc aminosides 26,2%. Kháng sinh phù hợp là 40,5%. Carbapenam được dùng nhiều khi
có kháng sinh đồ 73%, sau đó là aminosides 50%. Tỉ lệ tử vong là 37,5%. Sốc nhiễm khuẩn, thời gian thở máy, tỉ
lệ tái phát và tử vong có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm phù hợp và không phù hợp với kháng sinh ban
đầu. Đề kháng kháng sinh của K. pneumonia sinh ESBL với cephalosporins thế hệ 3 78-100%, quinolones 78-
89%, kháng aminosides 61-72%, kháng piperacillin/ tazobactam 58% và ticarcillin/ a. clavulanic 68%, kháng
imipenem 21%.
Kết luận: tỉ lệ K. pneumoniae sinh ESBL gây VPBV cao, đề kháng với hầu hết các kháng sinh nhưng còn
nhạy trên 90% với carbapenems. Số liệu này có thể giúp chọn lựa kháng sinh trong thực hành lâm sàng
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính kháng thuốc của klebsiella pneumoniae trong viêm phổi bệnh viện tại Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 264
TÍNH KHÁNG THUỐC CỦA KLEBSIELLA PNEUMONIAE
TRONG VIÊM PHỔI BỆNH VIỆN TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Ngô Thế Hoàng*, Quế Lan Hương*, Nguyễn Bá Lương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ VPBV do K. pneumoniae, một số đặc điểm dân số học, lâm sàng và sự đề kháng
kháng sinh tại bệnh viện Thống Nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu, mô tả, cắt ngang trên 42 bệnh nhân VPBV
do K. pneumoniae trong tổng số 125 bệnh nhân VPBV điều trị tại bệnh viện Thống Nhất từ 01/2010 - 03/2011.
Bệnh nhân được theo dõi cho đến hết triệu chứng viêm phổi hoặc xuất viện.
Kết quả: 42 bệnh nhân VPBV do K. pneumoniae, 57% nam, tuổi trung bình 76,4, tỉ lệ sinh ESBL là 45,2%
(19/ 42), viêm phổi không thở máy (VPKTM) 59,5%, viêm phổi thở máy (VPTM) 40,5%. Hầu hết VPBV khởi
phát muộn, trung bình 11,5 ngày. Thời gian thở máy trung bình 20 ngày. Kháng sinh theo kinh nghiệm ban đầu
thường phối hợp 85,7% (36/ 42), bao gồm cephalosporins 45,2% hoặc lactam/chất ức chế lactamase 40,5%
với quinolones 59,5% hoặc aminosides 26,2%. Kháng sinh phù hợp là 40,5%. Carbapenam được dùng nhiều khi
có kháng sinh đồ 73%, sau đó là aminosides 50%. Tỉ lệ tử vong là 37,5%. Sốc nhiễm khuẩn, thời gian thở máy, tỉ
lệ tái phát và tử vong có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm phù hợp và không phù hợp với kháng sinh ban
đầu. Đề kháng kháng sinh của K. pneumonia sinh ESBL với cephalosporins thế hệ 3 78-100%, quinolones 78-
89%, kháng aminosides 61-72%, kháng piperacillin/ tazobactam 58% và ticarcillin/ a. clavulanic 68%, kháng
imipenem 21%.
Kết luận: tỉ lệ K. pneumoniae sinh ESBL gây VPBV cao, đề kháng với hầu hết các kháng sinh nhưng còn
nhạy trên 90% với carbapenems. Số liệu này có thể giúp chọn lựa kháng sinh trong thực hành lâm sàng.
Từ khóa: viêm phổi bệnh viện, viêm phổi thở máy, đề kháng kháng sinh.
ABSTRACT
ANTIBIOTIC RESISTANCE OF KLEBSIELLA PNEUMONIAE IN HOSPITAL-ACQUIRED
PNEUMONIA
Que Lan Huong, Ngo The Hoang, Nguyen Ba Luong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 264 - 270
Objective: To determine prevalence of HAP due to K. pneumoniae, clinical features, risk factors and
antimicrobial resistance at Thong Nhat Hospital.
Material and Method: This was a prospective, hospital-based, active surveillance study on HAP due to K.
pneumoniae in hospitalized adults at Thong Nhat Hospital from January 2010 to March 2011. The patients were
followed prospectively until they expired or were discharged from the hospital.
Results: Forty-two adult patients were included. Fifty seven percent of the patients were males, the mean age
of 76.4 years. K. pneumonia with ESBL 42.5%. HAP was accounted for 59.5% and VAP 40.5%. Most of the
patients had late-onset HAP or VAP with the median day of onset of pneumonia of 11.5 days. The patients
received mechanical ventilators with the median ventilator day of 20 days. The initial combination antibiotic
* Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Ngô Thế Hoàng ĐT: 0908418109 Email: thekhangngo@gmail. com. vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 265
therapy was used in 85.7% of patients. The most commonly combination were cephalosporins 45.2% or lactam/
lactamase inhibitor 40.5% with quinolones 59.5% or aminosides 26.2%. The concordance of initial antibiotics
was 40.5%. Carbapenam was the most commonly used modified antibiotic (73%) followed by aminosides (50%).
Death due to pneumonia at the end of treatment was 37.5%. Ventilator time and septic shock, recurrent and
mortality rate were significantly associated with concordance of initial antibiotics. K. pneumonia with ESBL
resistes to third-generation cephalosporins 78-100%, quinolones 78-89%, aminosides 61-72%, piperacillin/
tazobactam 58%, ticarcillin/ a. clavulanic 68% and imipenem 21%.
Conclusion: K. pneumoniae with ESBL remain to be important hospital-acquired pneumonia. These local
data may help clinicians choose more appropriate initial antibiotics in order to improve the outcome and to
decrease the emergence of resistant organisms.
Keywords: Hospital-acquired Pneumonia (HAP), Ventilator-associated Pneumonia (VAP), antibiotic
resistance.
ĐẠI CƯƠNG
Viêm phổi bệnh viện (VPBV) chỉ đứng sau
nhiễm khuẩn tiết niệu trong các trường hợp
nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV), hầu hết xảy
ra ở khoa Hồi sức tích cực, chiếm 10-25% các
NKBV tại đơn vị này và tăng gấp 6-20 lần ở
bệnh nhân thở máy, tỉ lệ tử vong từ 20-50%(2),
cao hơn nếu bệnh nhân lớn tuổi và tác nhân
gây bệnh đa kháng.
Klebsiella pneumoniae trước đây chỉ gây
nhiễm khuẩn cơ hội, nay là một trong 4 tác nhân
thường gặp nhất gây VPBV, chiếm tỉ lệ từ 13,3-
58,9%. Tỉ lệ sinh men ESBL từ 40-53,6%, tỉ lệ đề
kháng cephalosporin thế hệ 3 từ 70-90%(5,7,10).
Lần đầu tiên, việc sinh men beta-lactamases phổ
rộng (ESBL) lây truyền qua plasmide được phát
hiện ở Đức năm 1983 và sau đó ở Mỹ. ESBL lần
đầu tiên được xác định ở chủng K. pneunomiae.
Sau đó, chúng được lây truyền nhanh chóng và
dễ dàng cho các VK gram đường ruột khác như
E. coli. Hiện nay đây là 2 chủng Gr (-) đường
ruột sinh men ESBL thường gặp nhất, các chủng
khác hiếm gặp hơn. Gần đây xuất hiện các
chủng sinh carbapenemase (Carbapenem-
resistant Klebsiella pneumoniae, CRKP), kháng với
hầu hết các kháng sinh gây tử suất cao, nằm
viện dài ngày và tăng chi phí điều trị(1,16). Nghiên
cứu đặc tính kháng thuốc của nhóm vi khuẩn
này mang ý nghĩa thiết thực trong công tác điều
trị tại bệnh viện. Qua đó khuyến cáo sử dụng
kháng sinh trong điều trị VPBV ngay thời điểm
chưa có kháng sinh đồ. Do vậy, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này nhằm: (1) mô tả một số đặc
điểm dân số học, yếu tố nguy cơ, lâm sàng của
VPBV do K. pneumoniae và (2) xác định tỉ lệ đề
kháng kháng sinh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chọn tất cả bệnh nhân được điều trị tại bệnh
viện Thống Nhất, từ 01/ 2010 -03/ 2011, đủ tiêu
chuẩn đoán VPBV (ATS/ IDSA 2005(2)) do K.
pneumoniae (viêm phổi xuất hiện sau 48 giờ nhập
viện có kết quả cấy định lượng đàm hoặc dịch
rửa phế quản dương tính với K. pneumoniae).
Loại trừ những trường hợp đang điều trị lao,
HIV/ AIDS hoặc xin về sớm.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả, cắt ngang, tiền cứu.
Sử dụng bệnh án mẫu, thu thập số liệu từ
các bảng theo dõi bệnh nhân, các xét nghiệm có
trong bệnh án. Xử lý số liệu bằng phần mềm
SPSS 13. 0 for Window. Phép kiểm T, ANOVA
một chiều kiểm định các biến định lượng, phép
kiểm chi bình phương để kiểm định các biến
định tính. Mức khác biệt có ý nghĩa với p < 0. 05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 1/2010 đến 3/2011, chúng tôi thu dung
được 125 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
VPBV, trong đó: VPBV do K. pneumoniae đơn
thuần là 33,6% (42/ 125 bệnh nhân), tỉ lệ sinh
ESBL là 45,2% (19/42). Không có khác biệt về sự
phân bố tuổi, giới tính và phương pháp lấy mẫu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 266
bệnh phẩm và cấy dương tính vi khuẩn sinh hay
không sinh ESBL (p > 0. 05). Tuổi thấp nhất 44
tuổi, cao nhất 94 tuổi. Tỉ lệ nam/ nữ ~ 1,33/ 1.
Một số đặc điểm của VPBV do K. pneumoniae
được trình bày trong bảng 1. Kết quả điều trị có
khác biệt về tỉ lệ tử vong, sự phù hợp kháng
sinh ban đầu và thời gian sử dụng kháng sinh,
thời gian thở máy kéo dài (> 3 tuần) và tỉ lệ tái
phát giữa hai nhóm VPBV do K. pneumoniae sinh
và không sinh ESBL (p < 0. 05).
Bảng 1: Kết quả nghiên cứu
Yếu tố ESBL (+)
n =19
ESBL (-) n = 23 p
Tuổi 75,73±7,54 77,0±10,49
Nam 11 (57,9%) 13 (56,5%) Giới
Nữ 8 (42,1%) 10 (43,5%)
Bệnh nền và YTNC
Bệnh phổi mạn 11 (57,9%) 13 (56,5%)
Đái tháo đường 4 (21,1%) 8 (34,8%)
Tim mạch 3 (15,8%) 5 (21,7%)
Giảm miễn dịch 9 (47,1 %) 3 (13%) 0,014
K, sinh trước đó 12 (63,2%) 6 (26,1%) 0,016
VPKTM: 7 (36,8%) 18 (78,3%)
Thời gian khởi
phát (ngày):
8,43±4,68 13,85±1,81 0,049
Sớm 3,38±0,52
Muộn 12,89±5,14
0, 01
Thời gian đ, trị
(ngày)
24,29±10,82 34,92±15,11 0,07
VPTM: 12 (63,2%) 5 (21,7%)
Thời gian khởi
phát (ngày):
7,20±3,89 11,75±1,61 0,035
Sớm 3,50±0,57
Muộn 10,12±4,29
0,035
Thời gian thở máy
(ngày)
25,38±7,13 11,80±3,34 0,029
Thời gian đ, trị
(ngày)
38,13±8,99 21,0±5,14 0,049
APACHE II 19,25±3,8 21,8±4,2 0,034
Kết quả điều trị
K, sinh không phù
hợp
17 (89,5%) 8 (34,8%) 0,001
Tái phát 7 (36,8%) 1 (4,3%) 0,008
Thở máy kéo dài
(>3 tuần)
5 (26,3%) 0 (0%) 0,012
Tử vong 11 (57,9%) 5 (21,7%) 0,016
Thời gian đ, trị K,
sinh (ngày)
25,956,98 16,874,14 0,006
K. pneumoniae sinh ESBL đa kháng thuốc
47,7%. Đề kháng kháng sinh chung của K.
pneumoniae: kháng 55-64% với cephalosporins
thế hệ 3 và quinolones, kháng 35-47% với -
lactamase, kháng 2-9% với carbapenem và 42-
52% với aminosides. K. pneumoniae sinh ESBL
kháng với hầu hết kháng sinh, xuất hiện chủng
kháng carbapenem (kháng imipenem 12,9%). K.
pneumoniae không sinh ESBL tỉ lệ đề kháng thấp,
nhạy 100% với carbapenem. K. pneumoniae gây
viêm phổi tái phát kháng gần như toàn bộ với
cephalosporins thế hệ 3, quinolones và
aminosides, kháng mạnh với -lactamase, kháng
12,5-25% với carbapenem (bảng 2).
Bảng 2: Đề kháng kháng sinh
Tái phát n =
8 (%)
Kháng sinh: ESBL (+)
n = 19
(%)
ESBL (-
) n = 23
(%)
Chung n
= 42 (%)
lần 1 lần 2
Amox/ a.
clavulanic
63,2 21,7 44,5 50 87,5
Piperacillin/
tazobactam
57,9 30,4 42,9 50 75
Ticarcillin/ a.
clavulanic
68,4 30,4 47,6 62,5 87,5
Cefuroxime 100 34,8 64,3 87,5 100
Cefepime 94,7 30,4 59,5 75 87,5
Cefotaxime 100 26,1 59,5 87,5 100
Ceftriaxone 94,7 30,4 59,5 75 100
Ceftazidime 78,9 34,8 54,8 62,5 100
Imipenem 21,1 0 9,5 25 25
Meropenem 5,3 0 2,4 0 12,5
Gentamycin 72,2 40 55,3 62,5 100
Amikacin 68,4 39,1 52,4 50 87,5
Neltimicin 61,1 36,4 47,5 50 75
Ciprofloxacin 89,4 39,1 61,2 62,5 100
Levofloxacin 84,2 28,6 55,0 62,5 87,5
Ofloxacin 78,9 39,1 57,1 50 87,5
TMP-SMX 89,5 40 64,1 75 100
Tỉ lệ kháng sinh ban đầu không phù hợp
59,5% (25/ 42). Hậu quả của kháng sinh không
phù hợp bao gồm tỉ lệ sốc nhiễm khuẩn, tử
vong, tái phát và thời gian thở máy giữa hai
nhóm sử dụng kháng sinh ban đầu phù hợp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 267
và không phù hợp có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (bảng 3).
Bảng 3: Kháng sinh ban đầu
Kháng sinh: Phù hợp n
= 17
Không phù
hợp n = 25
p
Cephalosporin 5/19
(26,3%)
14/19
(73,7%)
0.036
PNC/ ức chế -
lactamase
7/17
(41,2%)
10/17
(58,8%)
0.057
Quinolone 8/ 25 (32%) 17/ 25 (68%) 0.051
Aminoglycoside 4/11
(36,4%)
7/11 (63,6%) 0.059
Carbapenem (đơn độc) 5/6 (83,3%) 1/6 (16,7%) 0.001
Hậu quả:
Sốc nhiễm khuẩn 1 (5,9%) 10 (40%) 0.014
Tái phát 0 8 (32%) 0.01
Tử vong 1 (5,9%) 15 (60%) 0.001
Thời gian thở máy 10±1,41 22,8±7,55 0.032
BÀN LUẬN
Giới, tuổi
Nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình
của dân số nghiên cứu cao hơn các nghiên cứu
khác(7,14), do đối tượng phục vụ tại bệnh viện
Thống Nhất đa số đều lớn tuổi. Không có khác
biệt về sự phân bố tuổi và giới tính giữa hai
nhóm VPBV do K. pneumoniae sinh hay không
sinh ESBL (bảng 1). Tương tự với các nghiên cứu
khác, tỉ lệ giới tính chỉ xảy ra ngẫu nhiên tùy
thời điểm, nơi thực hiện nghiên cứu và không là
yếu tố nguy cơ đối với VPBV(14).
VPBV do K. pneumoniae
Một số nghiên cứu nước ngoài ghi nhận
VPBV và VPTM do K. pneumoniae có tỷ lệ thấp,
trong khi các nghiên cứu trong nước tỉ lệ này
khá cao(5,7), phải chăng đây chính là chủng vi
khuẩn có khả năng sinh ESBL đề kháng kháng
sinh rất cao? Kết quả của chúng tôi là 33,6%,
tương tự nghiên cứu thực hiện tại BV Việt
Đức(15) 33,3%, nhưng thấp hơn so với kết quả
của 2 nghiên cứu trước đây tại BV Thống
Nhất(8,10), có lẽ do nghiên cứu của chúng tôi đều
thực hiện trên đối tượng bệnh nhân lớn tuổi và
K. pneumoniae là 1 trong 4 vi khuẩn hay gây
bệnh ở người có nhiều yếu tố nguy cơ (điều trị
dài ngày tại bệnh viện, có các thủ thuật xâm lấn,
bệnh cơ bản nặng, loét do tì đè)(11). Tỉ lệ K.
pneumoniae sinh ESBL trong nghiên cứu của
chúng tôi là 45,2%, tương tự với một số nghiên
cứu khác(12,20). Báo cáo của SMART năm 2006 và
các nghiên cứu của các tác giả trong nước cho
thấy tình hình vi khuẩn sinh ESBL có khác nhau
ở mỗi khu vực và giữa các nghiên cứu, do tiêu
chuẩn chọn bệnh trong nghiên cứu, tình hình
chống nhiễm khuẩn, kiểm soát về sử dụng
kháng sinh ở mỗi nơi, việc sử dụng nhiều
cephalosporin thế hệ 3 có liên quan đến sự xuất
hiện của vi khuẩn có khả năng sinh ESBL đề
kháng kháng sinh rất cao(12,15,19).
Đặc điểm bệnh lý cơ bản và các yếu tố
nguy cơ
Nhìn chung sự phân bố bệnh lý cơ bản
tương đối đồng đều giữa hai nhóm VPBV do vi
khuẩn K. pneumoniae sinh hay không sinh ESBL.
Tuy nhiên, bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch và
có tiền sử dùng kháng sinh trước đó cao hơn có
ý nghĩa ở nhóm VPBV do K. pneumoniae sinh
ESBL (47,1%; 9/ 19 và 63,2 %; 12/19) (p < 0. 05)
(bảng 1). Bệnh nhân có bệnh lý phổi mạn chiếm
tỉ lệ cao nhất, tiếp theo là đái tháo đường và
bệnh lý tim mạch. Đây là những đặc điểm bệnh
lý của người lớn tuổi hay gặp tại bệnh viện
Thống Nhất. Phù hợp với nhận định, viêm phổi
do K. pneumoniae hay gặp ở các đối tượng lớn
tuổi, có bệnh mạn tính, suy giảm miễn dịch.
Mức độ nặng cũng như số lượng bệnh nền mà
bệnh nhân mắc phải cũng gia tăng nguy cơ
nhiễm K. pneumoniae đa kháng thuốc(11).
Đề kháng kháng sinh của K. Pneumoniae
Nhìn chung, tỉ lệ K. pneumoniae kháng thuốc
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
so với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác
trong nước(5,9,14), nhưng thấp hơn so với các
nghiên cứu trước đây được thực hiện tại bệnh
viện Thống Nhất(8,10,20), phải chăng bệnh viện đã
triển khai và thực hiện tốt chương chương
phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện?. Theo
báo cáo của chương trình theo dõi sự đề kháng
kháng sinh của các vi khuẩn gây bệnh thường
gặp ở Việt Nam(13) (ASTS năm 2004 và 2005) tình
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 268
hình đề kháng kháng sinh của các chủng K.
pneumoniae phân lập được tại các tỉnh thành
trong cả nước đang ở mức báo động, kháng với
penicillins từ 42,3-96,5%, kháng cephalosporins
từ 24,2-66,5%, kháng quinolones xấp xỉ 32%.
Theo Stepanik D(18), K pneumoniae kháng với
ceftriaxon 25,4%, của chúng tôi là 59,5%. Kết quả
nghiên cứu của Li J(11) trong 169 chủng K.
pneumoniae, có 98,2% đề kháng với ít nhất 1
kháng sinh và 91,1% kháng với 2 hoặc hơn 2
kháng sinh, kháng cephalosporins thế hệ 3, 4 từ
47-77%. Nếu xét riêng tại bệnh viện Thống Nhất,
nhóm imipenem có tốc độ gia tăng kháng thuốc
rất cao, từ 0% (2005) tăng lên 53,5% (2008), có thể
do tần suất sử dụng loại kháng sinh này tại
trong bệnh viện cao. Đây là một vấn đề rất đáng
quan tâm vì trong tình hình hiện nay, K.
pneumoniae cùng với E. coli, A. baumannii, P.
aeruginosa đã đề kháng với nhiều loại kháng sinh
qua cơ chế sinh men β-lactamase phổ rộng -
ESBL. Các kháng sinh được khuyến cáo sử dụng
rất ít và imipenem là một kháng sinh lựa chọn
hàng đầu cho điều trị nhưng tỉ lệ đề kháng đã
khá cao. Thời gian gần đây tại bệnh viện Thống
Nhất, loại kháng sinh này khi sử dụng ngoài
việc áp dụng chỉ dẫn của các khuyến cáo, phải
được thông qua hội chẩn viện, có lẽ vậy mà tỉ lệ
đề kháng lại thấp hơn ở nhóm này. Tỉ lệ đề
kháng kháng sinh của K. pneumoniae sinh ESBL
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả
của các nghiên cứu khác(6), đặc biệt các
cephalosporins thế hệ 3, kế đến là kháng sinh
thuộc nhóm quinolone, ngay cả các kháng sinh
thuộc nhóm carbapenem và kháng sinh có phối
hợp chất ức chế men β-lactamase (kháng
cephalosporins thế hệ 3 87-100%, quinolones 55-
61%, kháng aminosides 47-55%, kháng
piperacillin/ tazobactam 42,9% và ticarcillin/ a.
clavulanic 47,6%, kháng imipenem 9,5%) (bảng
2). Phải chăng do bệnh viện chúng tôi đã sử
dụng quá nhiều kháng sinh nhóm này hoặc do
chủng vi khuẩn sinh men ESBL nên có tính
kháng thuốc cao và đa kháng. Kết quả của
chúng tôi phù hợp với nhận định, ESBL có khả
năng thủy phân các cephalosporins phổ rộng và
các monobactams cũng như các -lactam thế hệ
cũ. Các men này không những có khả năng phá
hủy tất cả các penicillins và các cephalosporins
mà còn có thể truyền từ vi khuẩn này sang vi
khuẩn khác qua plasmid nên lan truyền rất
nhanh. Đồng thời các vi khuẩn sinh ESBL
thường kháng chéo với các kháng sinh nhóm
quinolones và aminosides gây đa kháng
thuốc(3,19) và nhiễm khuẩn bệnh viện.
Kháng sinh ban đầu
Kháng sinh theo kinh nghiệm phù hợp đang
là vấn đề thời sự trong điều trị nhiễm khuẩn
bệnh viện. Nếu kháng sinh ban đầu không phù
hợp, không những không diệt được vi khuẩn
gây bệnh mà còn nảy sinh vấn đề lựa chọn và
lan truyền chủng vi khuẩn kháng thuốc(2,4).
Kháng sinh ban đầu không phù hợp liên quan
đến tiên lượng xấu của bệnh nhân, ngay cả khi
điều trị sau đó có thay đổi theo kháng sinh đồ.
Nghiên cứu của Garnacho Montero(4), 87 cặp
bệnh nhân được so sánh giữa sử dụng kháng
sinh ban đầu thích hợp và không thích hợp khi
vào khoa hồi sức tích cực. Kết quả cho thấy
nhóm được dùng kháng sinh không thích hợp
có tỉ lệ tử vong cao hơn (39,1%) và thời gian nằm
viện kéo dài hơn 32 ngày so với 17 ngày. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, thời gian cần thở máy
ở nhóm điều trị kháng sinh thích hợp (10,0
1,41 ngày) ít hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị
kháng sinh ban đầu không thích hợp (22,82
7,55 ngày). Số trường hợp tử vong ở nhóm điều
trị kháng sinh thích hợp là 5,9%, nhóm còn lại là
60%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0. 001).
Tỉ lệ sốc nhiễm khuẩn cũng khác biệt có ý nghĩa
thống giữa nhóm điều trị kháng sinh thích hợp
(5,9%) và không thích hợp (40%) (bảng 3). Điều
này cho thấy sự cần thiết của việc khảo sát phổ
vi khuẩn thường xuyên và định kỳ tại mỗi khoa,
mỗi bệnh viện, sẽ giúp chọn lựa được một cách
phù hợp với các kháng sinh phổ rộng ban đầu.
Chúng tôi có một tỉ lệ cao điều trị không phù
hợp gặp chủ yếu ở bệnh nhân nhiễm K.
pneumoniae đa kháng và K. pneumoniae sinh ESBL
chỉ còn nhạy imipenem. Tương tự với một số
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 269
nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng 30-78%
điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm là không
phù hợp(5,8,10).
Tái phát
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
khi có tái phát, K. pneumoniae gia tăng đề kháng
với tất cả các kháng sinh nhưng vẫn còn nhạy
với kháng sinh nhóm carbapenem (bảng 2). Điều
này cho thấy nhiều kháng sinh có hiệu quả ở lần
điều trị đầu tiên đã bị giảm hoặc không còn hiệu
lực ở lần viêm phổi tái phát(2,16).
Tử vong
Tỉ lệ tử vong chung trong nghiên cứu của
chúng tôi là 38,1%, tương tự với kết quả nghiên
cứu khác(5,8,9,10). Theo ATS(2), VPTM làm gia tăng
tỷ lệ tử vong 34-48%. Hầu hết các trường hợp tử
vong đều mang ít nhất một bệnh lý kèm theo, tỉ
lệ này cao là do VPBV thường xảy ra ở bệnh
nhân đang nằm viện điều trị vì một bệnh lý khác
như bệnh phổi mạn tính, đái tháo đường, tai
biến mạch não, suy tim Đây là những bệnh lý
nội khoa hay gặp gặp ở người lớn tuổi cần điều
trị lâu ngày và hay phải nhập viện nhiều lần.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có mối
liên hệ giữa bệnh lý phối hợp và tỉ lệ tử vong.
Một số tác giả còn đánh giá hiệu quả của việc
can thiệp điều trị, trong đó quan trọng n