Cơ sở: Các nghiên cứu về vitamin D trong thập niên qua cho thấy vitamin D đóng vai trò quan trọng cho
sức khỏe con người. Tình trạng thiếu vitamin D không những liên quan đến bệnh loãng xương, sự té ngã và gãy
xương mà còn liên quan đến nhiều bệnh lý khác như đái tháo đường, các bệnh tim mạch, bệnh ung thư Các
nghiên cứu gần đây trên thế giới cho thấy tình trạng thiếu vitamin D ở người lớn là khá phổ biến, tuy nhiên tình
trạng thiếu vitamin D ở nước ta, đặc biệt ở các bệnh nhân mắc các bệnh lý mạn tính còn chưa được nghiên cứu
và đánh giá đầy đủ.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tình trạng thiếu vitamin D ở các bệnh nhân nhập viện tại Khoa Nội Cơ
Xương Khớp Bệnh Viện Chợ Rẫy và khảo sát đặc điểm phân bố tình trạng thiếu vitamin D.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hang lọat ca, thực hiện trên 324 bệnh nhân (216 bệnh
nhân nữ và 108 bệnh nhân nam) tuổi từ 14 đến 96 nhập viện tại Khoa Nội Cơ Xương Khớp Bệnh Viện Chợ Rẫy
từ tháng 2/2010 – 6/2010. Nồng độ 25(OH)D và PTH được đo bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát
quang (Chemiluminescent Immunoassay – CLIA) bằng máy miễn dịch tự động Liaison của Italy tại khoa Sinh
hóa BVCR, kỹ thuật này có thể xác định nồng độ 25(OH)D trong giới hạn 10 – 375 nmol/L. Đối tượng nghiên
cứu được thu thập đầy đủ các dữ kiện về nhân trắc, địa lý, tiền sử bệnh lý, lối sống và các chỉ số sinh hóa khác
theo mẫu bệnh án thống nhất. Đánh giá tình trạng thiếu vitamin D khi nồng độ 25(OH)D < 50 nmol/L, từ 50 –
75 nmol/l được xem là giảm và > 75 nmol/L là đủ vitamin D.
Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nữ là 55 ± 20 và của nhóm bệnh nhân nam là 54 ± 18. BMI
trung bình của cả hai nhóm là 21 ± 3 kg/m2. 63% bệnh nhân cư trú ở nông thôn. Nồng độ 25(OH)D trung bình
ở nhóm bệnh nhân nữ (26.2 ± 12.4 nmol/L) thấp hơn đáng kể so với bệnh nhân nam (36.8 ± 15; p < 0.0001).
Không có bệnh nhân nữ nào và chỉ 2.8% bệnh nhân nam có đủ vitamin D trong máu. Ở nữ, tỷ lệ giảm vitamin
D chiếm 4% và thiếu vitamin D là 96% trong khi ở nam giới tỷ lệ này là 13% và 84%. Tỷ lệ thiếu vitamin D
hầu như gặp ở mọi lứa tuổi. Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ 25(OH)D và PTH ở cả hai giới nhưng
không phát hiện ngưỡng 25(OH)D mà trên ngưỡng đó PTH ổn định.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tình trạng thiếu vitamin D ở bệnh nhân bệnh cơ xương khớp rất phổ biến ở
cả hai giới. Kết quả nghiên cứu cũng ủng hộ quan điểm không thể dùng việc tăng PTH máu như một chỉ điểm
cho tình trạng thiếu vitamin D.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng vitamin D của các bệnh nhân nội trú tại khoa Nội cơ xương khớp Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 545
TÌNH TRẠNG VITAMIN D CỦA CÁC BỆNH NHÂN NỘI TRÚ
TẠI KHOA NỘI CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Cao Thanh Ngọc*, Lê Anh Thư**
TÓM TẮT
Cơ sở: Các nghiên cứu về vitamin D trong thập niên qua cho thấy vitamin D đóng vai trò quan trọng cho
sức khỏe con người. Tình trạng thiếu vitamin D không những liên quan đến bệnh loãng xương, sự té ngã và gãy
xương mà còn liên quan đến nhiều bệnh lý khác như đái tháo đường, các bệnh tim mạch, bệnh ung thư Các
nghiên cứu gần đây trên thế giới cho thấy tình trạng thiếu vitamin D ở người lớn là khá phổ biến, tuy nhiên tình
trạng thiếu vitamin D ở nước ta, đặc biệt ở các bệnh nhân mắc các bệnh lý mạn tính còn chưa được nghiên cứu
và đánh giá đầy đủ.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tình trạng thiếu vitamin D ở các bệnh nhân nhập viện tại Khoa Nội Cơ
Xương Khớp Bệnh Viện Chợ Rẫy và khảo sát đặc điểm phân bố tình trạng thiếu vitamin D.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hang lọat ca, thực hiện trên 324 bệnh nhân (216 bệnh
nhân nữ và 108 bệnh nhân nam) tuổi từ 14 đến 96 nhập viện tại Khoa Nội Cơ Xương Khớp Bệnh Viện Chợ Rẫy
từ tháng 2/2010 – 6/2010. Nồng độ 25(OH)D và PTH được đo bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát
quang (Chemiluminescent Immunoassay – CLIA) bằng máy miễn dịch tự động Liaison của Italy tại khoa Sinh
hóa BVCR, kỹ thuật này có thể xác định nồng độ 25(OH)D trong giới hạn 10 – 375 nmol/L. Đối tượng nghiên
cứu được thu thập đầy đủ các dữ kiện về nhân trắc, địa lý, tiền sử bệnh lý, lối sống và các chỉ số sinh hóa khác
theo mẫu bệnh án thống nhất. Đánh giá tình trạng thiếu vitamin D khi nồng độ 25(OH)D < 50 nmol/L, từ 50 –
75 nmol/l được xem là giảm và > 75 nmol/L là đủ vitamin D.
Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nữ là 55 ± 20 và của nhóm bệnh nhân nam là 54 ± 18. BMI
trung bình của cả hai nhóm là 21 ± 3 kg/m2. 63% bệnh nhân cư trú ở nông thôn. Nồng độ 25(OH)D trung bình
ở nhóm bệnh nhân nữ (26.2 ± 12.4 nmol/L) thấp hơn đáng kể so với bệnh nhân nam (36.8 ± 15; p < 0.0001).
Không có bệnh nhân nữ nào và chỉ 2.8% bệnh nhân nam có đủ vitamin D trong máu. Ở nữ, tỷ lệ giảm vitamin
D chiếm 4% và thiếu vitamin D là 96% trong khi ở nam giới tỷ lệ này là 13% và 84%. Tỷ lệ thiếu vitamin D
hầu như gặp ở mọi lứa tuổi. Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ 25(OH)D và PTH ở cả hai giới nhưng
không phát hiện ngưỡng 25(OH)D mà trên ngưỡng đó PTH ổn định.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy tình trạng thiếu vitamin D ở bệnh nhân bệnh cơ xương khớp rất phổ biến ở
cả hai giới. Kết quả nghiên cứu cũng ủng hộ quan điểm không thể dùng việc tăng PTH máu như một chỉ điểm
cho tình trạng thiếu vitamin D.
Từ khóa: vitamin D.
ABSTRACT
VITAMIN D STATUS IN THE INPATIENTS IN RHEUMATOLOGY DEPARTMENT
Cao Thanh Ngoc, Le Anh Thu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 545 - 549
Background: Vitamin D insufficience is common in several diseases, including osteoporosis, diabetes,
cardiovascular disease, tuberculosis, malignancy However, it is not well documented in our country, especially
in the inpatients with chronic diseases.
Aims: This study sought to investigate the vitamin D status in the inpatients in Rheumatology Department
* Bộ môn Lão Khoa, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh** Khoa Nội Cơ Xương Khớp, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS Cao Thanh Ngọc ĐT: 0908484246 Email: caothanhngoc@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 546
of Cho Ray Hospital and to examine the characteristic of vitamin D deficiency distribution.
Methods: The study was designed as cases study which involved 324 patients (216 women and 109 men)
aged between 14 and 96 years who had been hospitalized in the Rheumatology Department, Cho Ray hospital, Ho
Chi Minh City between Feb 2010 and Jun 2010. The serum 25OH Vit.D measurement was carried out in the
ChoRay Hospital’s Department of Biochemistry by the Chemiluminescent Immunoassay method on an
automated Liaison System (Italy), which can reliably measure 25OH vit D levels ranged between 10 and 375
nmol/L. In addition, data on anthropometric, demographic, clinical history, and lifestyle factors were collected
from all participants by using a structured questionnaire. Vitamin D status was classified as insufficiency and
deficiency when serum 25(OH)D levels below 70 nmol/L and below 50 nmol/L, respectively.
Results: The average age for women and men was 55 ± 20 years (mean ± SD) and 54 ± 18 years,
respectively. The mean 25(OH)D concentration in women (26.2 ± 12.4 ng/mL) was significantly lower than in
men (36.8 ± 15; P<0.0001). None of the women and 3% men had normal vitamin D. In women, the prevalence of
vitamin D insufficiency and deficiency was 9% and 96% respectively. The corresponding figures in men were
13.2% and 84%. In both sexes, there was a linear inverse relationship between serum 25(OH)D and PTH
concentrations, but there was no existing threshold of 25(OH)D at which PTH levels were plateau.
Conclusions: These data show that vitamin D deficiency is common in joint disorder patients, in both
women and men. These data also support previous data that an elevation in PTH can not be used as a marker for
vitamin D deficiency.
Key words: Vitamin D
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu về vitamin D trong thập
niên qua cho thấy vitamin D đóng vai trò quan
trọng cho sức khỏe con người. Tình trạng thiếu
vitamin D không những liên quan đến bệnh
loãng xương, sự té ngã và gãy xương mà còn
liên quan đến nhiều bệnh lý khác như đái tháo
đường, các bệnh tim mạch, bệnh ung thư, các
bệnh tự miễn, các bệnh nhiễm trùng, tình
trạng đau mạn tính, tình trạng trầm
cảm(11,14,9).
Các nghiên cứu gần đây trên thế giới cho
thấy tình trạng thiếu vitamin D ở người lớn là
khá phổ biến, ở Châu Âu khoảng 30 – 70%, ở
Mỹ khoảng 30 – 60%, ở Châu Á khoang 40 –
96%(10). Ở các nước Đông Nam Á như Thái
Lan 47%, Malaysia 49%, Nhật Bản 90%, Hàn
Quốc 92%(3). Ở Việt Nam, nghiên cứu vitamin
D ở cộng đồng tại TPHCM cho thấy có khoảng
20% nam giới và 46% nữ giới có tình trạng
thiếu vitamin D(2). Ở phía Bắc, tỷ lệ thiếu
vitamin D còn cao hơn, 77.4% ở nữ và 58.3% ở
nam(1). Các nghiên cứu cũng cho thấy bệnh
nhân lớn tuổi và các bệnh nhân nhập viện là
những đối tượng có nguy cơ thiếu vitamin D
cao. Hơn nữa, hiện nay cũng chưa có nghiên
cứu có hệ thống nào về tình trạng vitamin D
của các bệnh nhân nhập viện nên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Đánh giá tình trạng thiếu vitamin D ở các
bệnh nhân nhập viện tại Khoa Nội Cơ Xương
Khớp bệnh Viện Chợ Rẫy.
Mục tiêu phụ
Bước đầu khảo sát đặc điểm phân bố tình
trạng thiếu vitamin D trên các dạng bệnh lý.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả bệnh nhân nhập viện tại Khoa Nội
Cơ Xương Khớp Bệnh Viện Chợ Rẫy từ tháng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 547
2 đến tháng 6 năm 2010 và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không thuộc tiêu chuẩn nhận
vào nghiên cứu.
Dữ liệu thu thập
Đối tượng nghiên cứu được thu thập đầy
đủ các dữ kiện có liên quan (tuổi, giới, chiều
cao, cân nặng, nghề nghiệp, nơi cư trú, vận
động thể lực, và các chỉ số sinh hóa) theo mẫu
bệnh án thống nhất.
25(OH)D được đo bằng phương pháp miễn
dịch điện hóa phát quang (Chemiluminescent
Immunoassay – CLIA) bằng máy miễn dịch tự
động Liaison của Italy tại khoa Sinh hóa, bệnh
viện Chợ Rẫy, kỹ thuật này có thể xác định
nồng độ 25(OH)D trong giới hạn 10 – 375
nmol/L. Đánh giá tình trạng thiếu vitamin D
khi nồng độ 25(OH)D < 50 nmol/L, từ 50 – 75
nmol/l được xem là giảm và > 75 nmol/L là đủ
vitamin D(8).
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Đặc điểm nhân trắc
Bệnh nhân nữ trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ
cao hơn so với nam giới (66,7% so với 33,3%).
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nữ là
55 ± 20 (trong đó cao nhất 96 và thấp nhất là
14). Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nam
là 54 ± 18 (cao nhất là 84 và thấp nhất là 15).
Tuy nam giới có chiều cao và cân nặng cao
hơn nữ giới nhưng chỉ số khối cơ thể của 2
nhóm bằng nhau (21 ± 3). BMI trung bình của
mẫu nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn một số
nghiên cứu khác(12,5). Điều này cũng phù hợp vì
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đa phần là
nông dân, cư trú ở nông thôn và có điều kiện
sống không cao.
Nữ Nam
Số bệnh nhân 216 (66,7%) 108 (33,3%)
Tuổi (năm) 55 ± 20 54 ± 18
Nữ Nam
Chiều cao (cm) 153 ± 6 163 ± 6
Cân nặng (kg) 49 ± 8 57 ± 10
BMI (kg/m2) 21 ± 3 21 ± 3
Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi
Nhóm bệnh nhân lớn tuổi chiếm tỷ lệ cao
(46,8% ở nữ và 35,2% ở nam)
Phân bố bệnh nhân theo nơi cư trú
Nơi cư trú Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Nông thôn 204 63
Thành thị 102 31,5
Không xác định 18 5,5
Đa số bệnh nhân sống ở nông thôn (63%).
Điều này cũng phù hợp vì bệnh viện Chợ Rẫy
là tuyến sau cùng của các tỉnh phía Nam tiếp
nhận điều trị bệnh nhân từ những tỉnh khác
chuyển đến.
Phân bố bệnh nhân theo nghề nghiệp
Số bệnh nhân là nông dân chiếm tỷ lệ cao
(40,7%). Điều này hoàn toàn phù hợp vì đa số
bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu sống ở nông
thôn nên chủ yếu làm nông nghiệp.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 548
Đặc điểm về hoạt động thể lực
Đa số bệnh nhân có hoạt động thể lực trung
bình (56,2%).
Đặc điểm về các chỉ số sinh hóa
Nồng độ 25 (OH) D và creatinin ở nữ thấp
hơn có ý nghĩa thống kê so với nam giới (p <
0,0001 và p = 0,007), còn các chỉ số khác khác
nhau không có ý nghĩa thống kê giữa hai giới.
Về điểm này, nghiên cứu của chúng tôi cho kết
quả tương tự với nghiên cứu trong cộng đồng,
tuy nhiên nồng độ vitamin D trung bình của
hai nhóm trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn rất nhiều so với nghiên cứu trong cộng
đồng(2). Điều này cho thấy bệnh nhân nhập
viện có nồng độ vitamin D thấp hơn người
khỏe mạnh trong công đồng.
Chỉ số Chung Nữ Nam P
Creatinin (mg/dl) 1 ± 0,03 0,9 ± 0,3 1,1 ± 0,4 p = 0,007
Calcium (mmol/L) 2,1 ± 0,2 2,1 ± 0,3 2,2 ± 0,3 p = 0,093
Phosphorus
(mg/dl)
43,2 ± 0,8 44,1 ±
15,6
41,2 ±
11,5
p = 0,095
PTH (pg/ml) 37,5 ± 1,3 38,8 ±
23,4
34,9 ±
22,9
p = 0,151
25(OH)D (nmol/L) 29,7 ± 0,8 26,2 ±
12,4
36,8 ± 15 p <
0,0001
Tình trạng vitamin D ở nữ và nam
Kết quả nghiên cứu cho thấy 96% bệnh nhân
nữ thiếu vitamin D trong máu và đặc biệt không
có bệnh nhân nữ nào có đủ nồng độ vitamin D.
Trong khi đó 84% bệnh nhân nam bị thiếu
vitamin D, tỷ lệ bệnh nhân nam có đủ vitamin D
rất thấp (3%). Mặc dù đối tương nghiên cứu của
chúng tôi đa phần là nông dân, cư trú ở nông
thôn, là những đối tượng không có thái độ tiêu
cực đối với ánh nắng mặt trời; tuy nhiên kết quả
nghiên cứu lại cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D
trong nhóm bệnh nhân nhập viện là khá cao.
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với nghiên
cứu tại Singapore của Hawkins RC cho thấy
100% phụ nữ gốc Mã Lai và Ấn Độ bị thiếu
vitamin D và 90% nam giới gốc Mã Lai thiếu
vitamin D(7).
Điều này cho thấy quan niệm trước đây cho
rằng tình trạng thiếu hụt vitamin D không phổ
biến ở các nước nhiệt đới là không đúng.
Mức độ thiếu vitamin D
Nghiên cứu cho thấy nữ giới bị thiếu
vitamin D mức độ nhẹ đến trung bình chiếm đa
số (42,1% và 42,6%) trong khi nam giới thiếu
vitamin mức độ nhẹ chiếm đa số (62%). Tỷ lệ
thiếu vitamin D nặng ở nữ giới là 11,1% và ở
nam giới là 2,8%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 549
Tỷ lệ thiếu vitamin D theo nhóm tuổi
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thiếu
vitamin D ở các nhóm tuổi tương tự nhau.
Nghiên cứu của chúng tôi khác với một số
nghiên cứu khác(2,7). Điều này có thể do đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi có một hoặc
nhiều bệnh kèm theo.
Tương quan giữa vitamin D và PTH
Kết quả cho thấy có sự tương quan nghịch
không có ý nghĩa thống kê giữa vitamin D và
PTH ở nam (p = 0,634) nhưng lại có mối tương
quan nghịch có ý nghĩa thống kê (p = 0,004) giữa
vitamin D và PTH ở nữ giới, tuy nhiên mối
tương quan này không có ý nghĩa về mặt lâm
sàng (r = 0,19). Nghiên cứu của chúng tôi cũng
tương tự một số nghiên cứu khác(13,15,4). Điều này
có thể do PTH chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
khác ngoài vitamin D.
KẾT LUẬN
Tình trạng thiếu vitamin D ở bệnh nhân
bệnh cơ xương khớp rất phổ biến ở cả hai giới.
Nữ giới là 96% và nam là 83%.
Chưa ghi nhận mối tương quan giữa
vitamin D và PTH trong nhóm nghiên cứu vì
vậy không dùng PTH máu để chỉ điểm cho tình
trạng thiếu vitamin D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thanh Hương và cộng sự (2010), “Tần số và yếu
tố thiếu vitamin D ở miền Bắc”, Báo cáo khoa học hội nghị
thường niên Hội Loãng Xương TPHCM, tr.5-7
2. Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự (2010), “Thiếu vitamin D
trong cộng đồng: thực trạng và yếu tố nguy cơ”, Thời sự Y học,
(46), tr. 3 – 10.
3. Caryl A Nowson, “Vitamin D in Australia”, Reprinted from
Australian Family Physician Vol. 33, No. 3, March 2004.
4. Diana Rucker et al (2002), “Vitamin D insufficiency in a
population of healthy western Canadians”, Canadian Medical
Association, 166 (12)
5. Harinarayan C.V. (2005), “Prevalence of vitamin D
insufficiency in postmenopausal south Indian women”,
Osteoporos Int;16, 4: 397-402.
6. Hashemipour et al (2004), “Vitamin D deficiency and
causative factors in the population of Tehran”, BMC Public
Health, 10: 4 - 38
7. Hawkins RC (2009), “25-OH vitamin D3 concentrations in
Chinese, Malays and Indian”, Clin Chem 55: 1749 – 1751
8. Holick MF. (2007), “Vitamin D deficiency”. N Engl J Med, 266
– 357
9. Joel M. Kauffman, Ph.D (2009), “Benefits of Vitamin D
Supplementation”, Journal of American Physicians and Surgeons,
Volume 14, 2: 38 - 45
10. 10/ Nidhi Malhotra and Ambrish Mithal (2009), “Vitamin D
status in Asia”, Global vitamin D status and determinants of
hypovitaminosis D - Osteoporosis International
11. Rizzolia R. (2008), “The role of calcium and vitamin D in the
management of osteoporosis”, Bone 42: 246–249.
12. Seeman E.(1998), “Osteoporosis in men”, Int. 9 (2), 97-110.
13. Von Mũhlen DG et al (2005), “Vitamin D, parathyroid
hormone levels and bone minereal density in community-
dwelling older women: the Rancho Bernardo Study”,
Osteoporos Int.; 16(12):1721-6
14. William B. Grant (2005), “Benefits and Requirements of
Vitamin D for Optimal Health: A Review”, Alternative
Medicine Review, Volume 10 (2), 94 – 111
15. Yan L, Prentice A, Zhang H et al (2000), “Vitamin D status
and parathyroid hormone concentrations in Chinese women
and men from north – east of the People’s Republic of China”,
European Journal of Clinical Nutrition (2000) 54: 68-72.