Các rối loạn phosphore-calci và PTH thứ phát do bệnh thận mạn như tăng phosphore máu, hạ calci máu,
cường năng tuyến cận giáp thứ phát (CNTCGTP) có thể gây một loạt các triệu chứng như ngứa, cảm giác kiến
bò, yếu cơ, đau cơ xương , và các biến chứng nguy hiểm khác như calci hóa mạch máu đặc biệt là động mạch
vành, calci hóa mô mềm, loạn dưỡng xương do thận làm gãy xương bệnh lý.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 80 bệnh nhân (BN) chạy thận nhân tạo (CTNT) định kỳ tại
khoa Thận-Niệu bệnh viện Nhân Dân 115 từ 30/01/2007 đến 30/06/2007. Trực tiếp hỏi bệnh và khám BN, ghi
nhận các triệu chứng lâm sàng có thể liên quan đến các rối loạn phosphore-calci và PTH, đồng thời ghi nhận các
xét nghiệm cận lâm sàng từ bệnh án và xem các rối loạn lâm sàng có tương quan với các rối loạn ghi nhận qua
các kết quả xét nghiêm.
Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng phát hiện được có thể có liên quan đến rối loạn phosphore-calci và PTH
là viêm khớp, ngứa, cảm giác kiến bò, yếu cơ, đau cơ xương, giật sợi cơ, chuột rút. Phân tích cho thấy không có
mối tương quan giữa các triệu chứng này với nồng độ calci, hay phosphore máu, ngoại trừ giật sợi cơ có tương
quan với tăng phosphore máu (p = 0,034). Có sự tương quan giữa yếu cơ (p = 0,0001), và đau cơ xương (p =
0,001) với PTH máu > 300pg/ ml. Cũng có sự tương quan giữa PTH máu < 150pg/ml với các triệu chứng ngứa
(p = 0,000), yếu cơ (p = 0,000, đau cơ xương (p = 0,000), giật sợi cơ (p = 0,008). Điều trị với vitamin D không
ảnh hưởng đến các triệu chứng trên.
Kết luận: Nồng độ phosphore hay calci không có mối tương quan với các triệu chứng lâm sàng ghi nhận
được, trong khi nồng độ PTH máu > 300pg/ ml, và nhất là PTH < 150pg/ ml lại có sự tương quan với một số các
triệu chứng lâm sàng ghi nhận được.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan giữa rối loạn phosphore calci, triệu chứng lâm sàng và cung cấp vitamin D ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo định kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Lão Khoa 68
TƯƠNG QUAN GIỮA RỐI LOẠN PHOSPHORE CALCI,
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ CUNG CẤP VITAMIN D
Ở BỆNH NHÂN CHẠY THẬN NHÂN TẠO ÐỊNH KỲ
Phạm Văn Bùi*
TÓM TẮT
Các rối loạn phosphore-calci và PTH thứ phát do bệnh thận mạn như tăng phosphore máu, hạ calci máu,
cường năng tuyến cận giáp thứ phát (CNTCGTP) có thể gây một loạt các triệu chứng như ngứa, cảm giác kiến
bò, yếu cơ, đau cơ xương, và các biến chứng nguy hiểm khác như calci hóa mạch máu đặc biệt là động mạch
vành, calci hóa mô mềm, loạn dưỡng xương do thận làm gãy xương bệnh lý.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 80 bệnh nhân (BN) chạy thận nhân tạo (CTNT) định kỳ tại
khoa Thận-Niệu bệnh viện Nhân Dân 115 từ 30/01/2007 đến 30/06/2007. Trực tiếp hỏi bệnh và khám BN, ghi
nhận các triệu chứng lâm sàng có thể liên quan đến các rối loạn phosphore-calci và PTH, đồng thời ghi nhận các
xét nghiệm cận lâm sàng từ bệnh án và xem các rối loạn lâm sàng có tương quan với các rối loạn ghi nhận qua
các kết quả xét nghiêm.
Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng phát hiện được có thể có liên quan đến rối loạn phosphore-calci và PTH
là viêm khớp, ngứa, cảm giác kiến bò, yếu cơ, đau cơ xương, giật sợi cơ, chuột rút. Phân tích cho thấy không có
mối tương quan giữa các triệu chứng này với nồng độ calci, hay phosphore máu, ngoại trừ giật sợi cơ có tương
quan với tăng phosphore máu (p = 0,034). Có sự tương quan giữa yếu cơ (p = 0,0001), và đau cơ xương (p =
0,001) với PTH máu > 300pg/ ml. Cũng có sự tương quan giữa PTH máu < 150pg/ml với các triệu chứng ngứa
(p = 0,000), yếu cơ (p = 0,000, đau cơ xương (p = 0,000), giật sợi cơ (p = 0,008). Điều trị với vitamin D không
ảnh hưởng đến các triệu chứng trên.
Kết luận: Nồng độ phosphore hay calci không có mối tương quan với các triệu chứng lâm sàng ghi nhận
được, trong khi nồng độ PTH máu > 300pg/ ml, và nhất là PTH < 150pg/ ml lại có sự tương quan với một số các
triệu chứng lâm sàng ghi nhận được.
Từ khóa: rối loạn phosphore-calci và PTH, chạy thận nhân tạo định kỳ
ABSTRACT
CORRELATION BETWEEN PHOSPHORE – CALCI, PTH DISODERS AND CLINICAL
MANIFESTATION IN PATIENTS WITH END STAGE RENAL DISEASE ON HEMODIALYSIS
Pham Van Bui * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 68 - 74
Background: Phosphore-calci and PTH disorders secondary to chronic kidney disease such as
hyperphosphatemia, hypocalcinemia, and secondary hyperparathyroidism can cause many clinical signs and
symptoms such as arthritis, pruritus, paresthesia, muscle weakness, muscle clonus, squeletal pain, cramps, and
other lethal complications such as systemic calcification, especially coronary calcification, and renal
osteodystrophy with pathological bone fracture.
Patients and methods: A cross- sectional study was conducted on 80 patients on chronic dialysis in
hospital popular 115 from Jan 2007 to June 2007. Clinical signs and symptoms, which likely associated with
*Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS: Phạm Văn Bùi ĐT: 0913670965 Email: buimy55@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 69
phospho-calcic and PTH disorders, revealed during clinical examination would be noted to see whether they
correlated with serum phosphorus, calcium and PTH levels of these patients.
Results: There were no correlation between arthritis, pruritus, paresthesia, muscle weakness, muscle clonus,
squeletal pain, and cramps and the serum calcium or phosphorus levels except muscle clonus correlated with
hyperphosphatemia (p = 0.034). There were statistically significant correlation between muscle weakness (p =
0.0001), and squeletal pain (p = 0.001) and serum PTH > 300pg/ ml. There was also statistically significant
correlation between serum PTH < 150pg/ml and pruritus (p = 0.000), muscle weakness (p = 0.000, squeletal pain
(p = 0.000), and muscle clonus (p = 0.008). Vitamin D supplement did not affect these signs and symptoms.
Conclusion: Serum levels of calcium and phosphorus had no correlation with clinical signs and symptoms
noted, whereas serum PTH > 300pg/ ml, and especially PTH < 150pg/ ml had a strong correlation with some of
them.
Key words: Phosphore-calci and PTH disorders, chronic dialysis
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng phosphore máu do hậu quả của STM
có thể làm hạ calci máu, cường năng tuyến cận
giáp thứ phát (CNTCGTP) và dẫn tới một loạt
các triệu chứng như ngứa, cảm giác kiến bò, yếu
cơ, đau cơ xươngngoài ra còn có thể gây các
biến chứng nguy hiểm khác như calci hóa mạch
máu đặc biệt là động mạch vành, calci hóa mô
mềm, loạn dưỡng xương do thận làm gãy
xương bệnh lý. Calci hóa mạch máu được xem
là yếu tố góp phần đáng kể làm tăng tỷ lệ tử
vong ở BN lọc máu. Tăng phosphore máu kèm
với tăng nguy cơ tử vong tương đối. Khi
phosphore máu tăng từ 5,0-6,0 mg/dl lên trên 9
mg/dl, nguy cơ tử vong tương đối tăng từ 1,07
lên 2,02(9). Tăng 1mg/dl nồng độ phosphore,
nguy cơ tử vong tính chung tăng 10% và tử
vong do biến chứng tim mạch tăng 27%. Mặc
dầu vậy, các bác sỹ lâm sàng lại ít quan tâm đến
các triệu chứng, biến chứng do rối loạn
phosphore, calci và cường tuyến cận giáp gây
ra; do đó chúng tôi làm nghiên cứu này thể thử
xem có mối tương quan nào giữa các rối loạn
phosphore, calci và cường tuyến cận giáp và các
triệu chứng, biến chứng lâm sàng hay không.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả cắt ngang 80 bệnh nhân (BN) chạy
thận nhân tạo (CTNT) định kỳ tại khoa Thận-
Niệu bệnh viện Nhân Dân 115 từ 30/01/2007 đến
30/06/2007.
Phương pháp thu thập số liệu: chọn
những BN có tên trong khung chọn mẫu, trực
tiếp hỏi bệnh và khám BN, ghi nhận các triệu
chứng lâm sàng mà theo y văn có thể liên
quan đến các rối loạn phosphore-calci và
PTH, đồng thời ghi nhân các xét nghiệm cận
lâm sàng từ bệnh án và xem các rối loạn lâm
sàng có tương quan với các rối loạn ghi nhận
qua các kết quả xét nghiệm không.
Số liệu được phân tích và tổng hợp sử dụng
phần mềm Excel 2000 và SPSS 12.0. Sự tương
quan giữa các biến định tính được kiểm định
bằng test Chi-bình phương (khi tần số lý thuyết
> 4) và Fisher's exact test (khi tần số lý thuyết <
4). Khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Nữ chiếm 47,50% và 52,5% là nam. Tỷ lệ BN
> 60 tuổi là 17,5%. Đa số BN ở lứa tuổi lao động,
trung bình là 47,30 ± 13,60, lớn nhất là 74t và trẻ
nhất là 16t.
Thời gian CTNT định kỳ. Dưới 1 năm: 7
tháng (8,75%), từ 1-2 năm: 13 tháng (16,25%), từ
2-3 năm: 8 tháng (16%), từ 3-4 năm: 10 tháng
(12,5%), trên 4 năm: 42 tháng (50,52%). Thời gian
CTNT định kỳ trung bình là: 55,8 ± 50,7 tháng.
58 BN (72,5%) dùng dịch lọc acetate, chỉ 22 BN
(27, 50%) dùng bicarbonate. Nồng độ calci trong
cả hai loại dịch lọc là 3,5mEq/l. 72,5% BN CTNT
có Kt/V 1,2. Kt/V
trung bình là 1,12 ± 0,46.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Lão Khoa 70
Ở thời điểm nghiên cứu, 88,75% (71/80) đã
được sử dụng vitamin D trên 6 tháng.
Bảng 1: Triệu trứng lâm sàng gợi ý rối loạn calci,
phosphore, PTH
Triệu chứng lâm sàng Số BN Tỷ lệ %
Triệu chứng của viêm khớp 5 6,25
Ngứa 62 77,50
Cảm giác kiến bò 21 26,25
Yếu cơ 40 50,00
Ðau cơ xương 35 43,75
Giật sợi cơ 17 21,25
Chuột rút 22 27,50
Bảng 2: Phân bố tích số Ca x P máu
Ca x P máu (mg/dl) Số BN Tỷ lệ %
< 55 9 11,25
55-72 5 6,25
> 72 66 82,50
Tổng 80 100,00
Bảng 3: Phân bố nồng độ Calci, Phosphore, PTH
máu theo thời gian LTNT
Thời gian
LTNT(tháng)
Phosphore máu
> 5,5 mg/dl (%)
Calci máu <
8,4 mg/dl(%)
PTH>300
pg/ml(%)
> 48 29,60 30,00 15,00
36 -48 11,25 10,00 2,50
24-36 10,00 5,00 3,75
12-24 15,00 13,75 2,50
<12 8,75 5,00 0,00
Bảng 4: Tương quan giữa triệu chứng lâm sàng với
nồng độ calci máu
Triệu chứng lâm sàng
Calci máu điều
chỉnh (mg/dl)
Trị số p
(Fisher’s
exact test) < 8,4 ≥ 8,4
Triệu chứng của
viêm khớp
Có 3 2
1
Không 48 27
Ngứa
Có 38 24
0,396
Không 13 5
Cảm giác kiến
bò
Có 13 8
0,838
Không 38 21
Yếu cơ
Có 25 15
0,816
Không 26 14
Ðau cơ xương
Có 23 12
0,747
Không 28 17
Giật sợi cơ
Có 13 4
0,266
Không 38 25
Chuột rút
Có 14 8
0,990
Không 37 21
Ðiều trị với
vitamin D
Có 46 25
0,716
Không 5 4
Không có mối tương quan giữa nồng độ Ca
máu với các triệu chứng lâm sàng và điều trị.
Bảng 5: Tương quan giữa triệu chứng lâm sàng với
nồng độ phosphore máu.
Triệu chứng lâm sàng
P máu (mg/dl) Trị số p
(Fisher’s
exact test)
≤ 5,5 > 5,5
Triệu chứng
của viêm khớp
Có 1 4
0,375
Không 6 69
Ngứa
Có 6 56
1
Không 1 17
Cảm giác kiến
bò
Có 1 20
0,669
Không 6 53
Yếu cơ
Có 6 34
0,108
Không 1 39
Ðau cơ xương
Có 4 31
0,693
Không 3 42
Giật sợi cơ
Có 4 13
0,034
Không 3 60
Chuột rút
Có 1 21
0,667
Không 6 52
Ðiều trị với
vitamin D
Có 6 65
0,581
Không 1 8
Có mối tương quan giữa tăng phosphore
máu và triệu chứng giật sợi cơ.
Bảng 6: Tương quan giữa triệu chứng lâm sàng với
nồng độ PTH máu > 300 pg/ml
Triệu chứng lâm sàng
PTH máu (mg/dl) Trị số p
(Fisher’s
exact test)
≤ 300 > 300
Triệu chứng của
viêm khớp
Có 2 3
0,084
Không 59 16
Ngứa
Có 44 18
0,057
Không 17 1
Cảm giác kiến
bò
Có 16 5
1
Không 45 14
Yếu cơ
Có 23 17
0,0001
Không 38 2
Ðau cơ xương
Có 20 15
0,001
Không 41 4
Giật sợi cơ
Có 10 7
0,057
Không 51 12
Chuột rút
Có 17 5
0,895
Không 44 14
Ðiều trị với
vitamin D
Có 54 17
0,909
Không 7 2
Có mối tương quan giữa nồng độ PTH máu
> 300 pg/ml với triệu chứng yếu cơ và đau cơ
xương.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 71
Bảng 7: Tương quan giữa triệu chứng lâm sàng, sử
dụng vitamin D với PTH máu < 150 pg/ml
Triệu chứng lâm sàng
PTH máu
(mg/dl)
Trị số p
(Fisher’s
exact test) ≥ 150 < 150
Triệu chứng
của viêm khớp
Có 3 2
0,414
Không 31 44
Ngứa
Có 33 29
0,000
Không 1 17
Cảm giác kiến
bò
Có 9 12
0,969
Không 25 34
Yếu cơ
Có 28 12
0,000
Không 6 34
Ðau cơ xương
Có 25 10
0,000
Không 9 36
Giật sợi cơ
Có 12 5
0,008
Không 22 41
Chuột rút
Có 9 13
0,859
Không 25 33
Ðiều trị với
vitamin D
Có 29 42
0,400
Không 5 4
Có mối tương quan giữa nồng độ PTH máu
< 150 pg/ ml với triệu chứng ngứa, yếu cơ, đau
cơ xương và giật sợi cơ.
BÀN LUẬN
Ðặc điểm lâm sàng của rối loạn chuyển hóa
calci (Ca), phosphore(P), PTH
Các triệu chứng như ngứa, đau cơ xương,
yếu cơ trong NC chúng tôi đều lớn hơn nhiều so
với nc Bao HB(2) các lý do có thể giải thích là:
mẫu của chúng tôi lớn hơn mẫu NC Bao HB (n =
39), thời gian CTNT trung bình, tỷ lệ BN tăng
phosphore máu, hạ calci máu của chúng tôi cao
hơn so với của Bảo HB.
Cũng cần nhấn mạnh là triệu chứng ngứa,
cảm giác kiến bò, đau cơ xương không chỉ xuất
hiện trong rối loạn Ca-P-PTH, mà còn có trong
các bệnh khác như bệnh ngoài da, tiểu đường,
rối loạn thần kinh cơ, bệnh lý về cơ xương khớp
không phải do loạn dưỡng xương do thận. Một
đặc trưng rất quan trọng trong STM là giảm Ca
máu, dẫn đến các cơn tétanie. Tuy nhiên hơn
60% BN trong NC của chúng tôi có tình trạng hạ
Ca máu, nhưng không ghi nhận được một cơn
tétanie nào.
Các triệu chứng như calci hóa mô mềm, biến
dạng xương cũng gây nhiều lầm lẫn trên lâm
sàng. Vết loét do calci hóa mô mềm phải phân
biệt với các vết loét của các bệnh lý ngoài da
khác, biến dạng xương có thể khó phân biệt
được với viêm khớp dạng thấp, gout, loãng
xương ở người lớn tuổi, cũng dẫn đến biến dạng
xương. Mặt khác, BN không được chụp X-
Quang xương (xương chậu, cột sống, bàn tay,)
và không làm giải phẫu bệnh (sinh thiết xương,
mô mềm) nên chúng tôi không thể ghi nhận các
triệu chứng: biến dạng xương, gãy xương khó
lành, calci hoá mô mềm.
Theo Block và cs(4), khi phosphore máu tăng
từ 5,0-6,0 mg/dl hay > 6,5 mg/ dl và > 9 mg/ dl thì
nguy cơ tử vong tương đối lần lượt là: 1,07-1,27-
2,02. Ở NC của chúng tôi, tỷ lệ BN có phosphore
máu > 7,5 mg/ dl là 82,5% và > 9,5 mg/ dl là 60%;
đây là những tỷ lệ tương đối cao, có thể sẽ ảnh
hưởng đến tình trạng rối loạn Ca-PTH và nguy
cơ tử vong tương đối ở BN.
Trong các NC về rối loạn Ca-P, ngoài việc
thu thập các dữ liệu về nồng độ Ca-P, người ta
còn tính tích số Ca x P để khảo sát tác động phối
hợp của rối loạn Ca-P trên BN STM, đồng thời
giúp kiểm soát tốt nồng độ Ca-P máu; vì việc
kiểm soát nồng độ Ca máu không thể đạt tối ưu
nếu không kiểm soát tốt nồng độ phosphore
máu song song.
Theo Block và cs(4), khi phosphore máu > 6,5
mg/dl và tích số Ca x P > 72 mg2/dl2 thì làm tăng
cao nguy cơ tử vong ở những BN này. Theo
USDRS(13), P máu > 6,5mg/dl thì nguy cơ tương
đối của tỷ lệ tử vong tăng 27%, và tăng 34% khi
tích số Ca x P > 72 mg2/ dl2. Đối chiếu với mẫu
của chúng tôi: 88,75% BN có nồng độ P máu >
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Lão Khoa 72
6,5mg/ dl và 82,5% BN với tích số Ca x P > 72
mg2/ dl2. Do đó, BN của chúng tôi cũng có thể có
các yếu tố tử vong do biến chứng về tim mạch
không thấp.
Stevens và cs(14) đã chứng minh rằng PTH
thấp, Ca và P cao có tỷ lệ tử vong cao hơn PTH,
Ca và P cao. Nồng độ PTH máu cao sẽ làm tăng
tỷ lệ tử vong(3,5,11), nhưng cũng có một vài NC
khác ghi nhận rằng PTH máu thấp cũng làm
giảm tỷ lệ sống còn(1,7), được so sánh với PTH ở
mức 65-200 pg/ml(1). Các NC trên cũng chưa giải
thích được cơ chế giảm nồng độ PTH máu
nhưng có P và Ca máu cao, và tình trạng này
dẫn tới tăng tỷ lệ tử vong ở BN CTNT. Bệnh lý
xương vô năng (BLXVN) thường gặp ở BN
CTNT định kỳ có nồng độ PTH thấp, và độc lập
với tăng phosphore máu(6). Tỷ lệ BLXVN ngày
càng tăng, gần tương đương với bệnh
CNTCGTP. Bệnh thường liên quan tới sử dụng
muối nhôm, hoặc dùng Vitamin D (Calcitriol)
đơn trị liệu thường quy hoặc phối hợp với thuốc
gắn phosphore để điều trị bệnh CNTCGTP, dẫn
đến tăng Calci máu làm giảm tiết PTH máu, và
là yếu tố nguy cơ của calci hóa mô mềm, nội
tạng. Ngoài ra, BN suy dinh dưỡng hoặc > 65
tuổi dễ bị loãng xương, và bệnh lý xương do
tiểu đường (tăng đường huyết và insulin ức chế
tiết PTH) cũng là một trong các yếu tố làm gia
tăng BLXVN(6,8). Mặc dù cơ chế chưa được
chứng minh rõ ràng, nhưng các yếu tố trên có
thể làm tăng calci máu, giảm PTH máu dẫn đến
vôi hóa mô mềm, mạch máu và giảm thể tích
xương gây gãy xương bệnh lý.
Các bác sĩ lâm sàng chưa thực sự chưa quan
tâm đến mức độ trầm trọng của rối loạn Ca-P-
PTH nên chưa có chế độ kiểm soát và điều trị
các rối loạn này một cách đúng đắn.
Tương quan giữa các triệu chứng lâm
sàng và rối loạn chuyển hóa Calci,
Phosphore, PTH
Chúng tôi chỉ ghi nhận được một vài đặc
điểm lâm sàng liên quan đến rối loạn Ca-P-
PTH. Đó là tương quan giữa nồng độ PTH
máu > 300 pg/ ml và các triệu chứng yếu cơ (p
= 0,0001), đau cơ xương (p = 0,001), tương
quan giữa nồng độ PTH máu < 150 pg/ ml và
các triệu chứng ngứa (p = 0,000), yếu cơ (p =
0,000), đau cơ xương (p=0,000), giật sợi cơ
(p=0,008) và tương quan giữa tăng phosphore
máu và giật sợi cơ (p = 0,034).
Triệu chứng ngứa thường là do tăng
phosphore máu, nhưng chúng lại không có
mối tương quan trong NC chúng tôi. Tuy
nhiên, ngứa và PTH > 300 pg/ ml lại có tương
quan với nhau, do tăng phosphore máu dẫn
đến hậu quả tăng PTH máu. Chúng tôi cũng
ghi nhận được ngứa và PTH <150 pg/ ml. Do
đó ngứa là triệu chứng không đặc hiệu, mang
tính chất chủ quan; các bệnh ngoài da, dị ứng,
cũng có triệu chứng ngứa.
Có mối tương quan giữa đau cơ xương, yếu
cơ với PTH máu cao hoặc thấp. Đây là triệu
chứng của CNTCGTP và BLXVN. Chẩn đoán
xác định loạn dưỡng xương do thận phải sinh
thiết xương làm giải phẫu bệnh, do đó các triệu
chứng trên chỉ có tính chất gợi ý.
Các biểu hiện lâm sàng như chuột rút, cảm
giác kiến bò xuất hiện khá nhiều nhưng lại
không tìm thấy được mối tương quan với các
rối loạn Ca-P mặc dù rối loạn Ca-P rất sâu sắc.
Do các triệu chứng này thường không đặc
hiệu, mang tính chất chủ quan, và có thể gặp
ở các bệnh khác (như tiểu đường, rút nước
nhiều lúc CTNT...):
Mức độ nặng của rối loạn Ca-P-PTH ít
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 73
tương xứng với các biểu hiện trên lâm sàng. Do
đó, các triệu chứng lâm sàng chỉ có giá trị tham
khảo chứ không có giá trị chẩn đoán, chẩn đoán
dựa vào cận lâm sàng là chính, nhất là đối với
BN không có triệu chứng. Theo khuyến cáo, đối
với BN LTNT nên xét nghiệm P máu, Ca máu
hàng tháng, và PTH máu 3 tháng 1 lần.
Tương quan giữa điều trị vitamin D và rối
loạn chuyển hóa Calci, Phosphore, PTH
Chúng tôi nhận thấy không có mối tương
quan giữa nồng độ Ca máu, P máu, PTH máu và
việc sử dụng vitamin D.
Khác biệt giữa NC của chúng tôi so với
F.Maduell(10), DOPPS(15) và USDRS(13) là BN
chúng tôi chỉ được sử dụng vitamin D để điều
trị rối loạn calci, phosphore và PTH mà không
có các thuốc nào khác (thuốc gắn kết Phosphate,
muối Calci, Sevelamer).
Để hạn chế tăng PTH máu, gần 90% BN
của chúng tôi được sử dụng vitamin D. Tuy
nhiên theo khuyến cáo của K/DOQI(12), BN
tăng PTH máu, nếu không kiểm soát được
nồng độ P máu thì ngưng sử dụng vitamin D,
do vitamin D làm tăng hấp thu phosphore từ
ruột, dẫn đến càng làm nặng thêm tình trạng
tăng phosphore máu và cũng không kiểm soát
được nồng độ PTH máu một cách hiệu quả.
Do đó khuyến cáo là nên kiểm soát nồng độ P
máu trước khi dùng Vitamin D thường quy
nhằm hạn chế tăng PTH máu.
NC của chúng tôi cho thấy, với PTH máu <
150 pg/ml, P máu rất cao và Ca máu thấp nhưng
tới hơn 90% BN vẫn được sử dụng vitamin D.
Trong khi đó ở NC của F.Maduell(10) với PTH
máu < 150 pg/ ml thì Ca máu, P máu, và tích số
Ca x P đều đạt chỉ số rất tốt nằm trong giới hạn
cho phép, và chỉ có khoảng 30% BN vẫn tiếp tục
dùng vitamin D (với PTH < 150 pg/ml, BN vẫn
tiếp tục liệu pháp vitamin D với liều thấp và
trong vòng 1 tháng _ theo khuyến cáo của
K/DOQI(12).
So sánh giữa 2 NC trên, chúng tôi nhận thấy,
mặc dù PTH ở mức cao nhưng ở NC của
F.Maduell(10) thì giá trị trung bình của Ca, P
máu, và tích số Ca x P vẫn ở mức có thể chấp
nhận được, và tỷ lệ BN sử dụng vitamin D cũng
tăng theo nồng độ PTH máu (với mức PTH từ
150-300 pg/ ml BN được giảm liều vitamin D
cho phù hợp, với PTH > 300 pg/ ml thì được
điều trị tích cực với vitamin D, và có thể kết hợp
thêm Calcimimetic).
Ngược lại, trong NC chúng tôi, cho dù ở
mức PTH nào, bất kể có tăng Ca máu, hay tăng
P máu thì BN vẫn được sử dụng vitamin D một
cách không được kiểm soát chặt chẽ. Chính vì
việc sử dụng vitamin D không hợp lý đã làm
nặng thêm rối loạn chuyển hóa khoáng ở BN
LTNT định kỳ.
Hạn chế của đề tài là không thực hiện sinh
thiết xương cũng như các hình ảnh học về
xương để có thể các định mối tương quan thực
sự giữa các triệu chứng với các rối loạn Ca-P-
PTH. Ngoài ra do là nghiên cứu cắt ngang nên
chưa ghi nhận được tương quan giữa với các rối
loạn Ca-P-PTH với các biến cố tim mạch hay tử
vong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Avram MM., Mittman N., Wyint MM., Fein P. (2001),
Importance of low serum intact parathyroid hormone as a
predictor of mortality in hemodialysis and peritoneal dialysis
patients: 14 years of prospective observation, Am J Kidney Dis,
38, p.1351-1371.
2. Bao HB. (2006), Nghiên cứu rối loạn cân bằng canxi-phospho và
hóc môn cận giáp ở bệnh nhân suy thận mạn, Luận án tiến sỹ y
học, Ðại học y khoa Huế, tr. 100.
3. Block GA., Hulbert-Shearon TE., Levin NW., Port FK. (1998),
A