Ứng dụng nội soi hướng dẫn điều trị gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới

Mục tiêu: Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị gãy lồi cầu xương hàm dưới bằng kết hợp xương qua đường miệng với nội soi hướng dẫn. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu lâm sàng, 17 bệnh nhân gãy cổ lồi cầu được kết hợp xương dưới hướng dẫn nội soi qua đường miệng tại khoa Phẫu thuật hàm mặt-Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW TPHCM được đánh giá trên lâm sàng và trên phim. Kết quả và kết luận: Phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu qua đường miệng với nội soi hướng dẫn đem lại kết quả giải phẫu và chức năng tốt, đặc biệt là về phương diện thẩm mỹ do không tạo sẹo mổ ngoài mặt và không làm tổn thương thần kinh VII.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng nội soi hướng dẫn điều trị gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 180 ỨNG DỤNG NỘI SOI HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ GÃY CỔ LỒI CẦU XƯƠNG HÀM DƯỚI Hồ Nguyễn Thanh Chơn*, Lâm Hoài Phương* TÓM TẮT Mục tiêu: Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị gãy lồi cầu xương hàm dưới bằng kết hợp xương qua đường miệng với nội soi hướng dẫn. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu lâm sàng, 17 bệnh nhân gãy cổ lồi cầu được kết hợp xương dưới hướng dẫn nội soi qua đường miệng tại khoa Phẫu thuật hàm mặt-Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW TPHCM được đánh giá trên lâm sàng và trên phim. Kết quả và kết luận: Phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu qua đường miệng với nội soi hướng dẫn đem lại kết quả giải phẫu và chức năng tốt, đặc biệt là về phương diện thẩm mỹ do không tạo sẹo mổ ngoài mặt và không làm tổn thương thần kinh VII. Từ khóa: Gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới, nội soi hướng dẫn ABSTRACT ENDOSCOPY-ASSISTED OPEN TREATMENT OF MANDIBULAR CONDYLAR NECK FRACTURES Ho Nguyen Thanh Chon, Lam Hoai Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 180 - 185 Objectives: Follow-up and evaluate the treatment result of mandibular condylar neck fractures by osteosynthesis via endoscopy-assisted intraoral approach. Method: Prospective study, 17 patients with mandibular condylar neck fractures treated osteosynthesis via endoscopy-assisted intraoral approach at Department of Maxillofacial Surgery-National Hospital of Odonto- Stomatology were evaluated clinically and on radiographs. Results and conclusion: Endoscopy-assisted open treatment of mandibular condylar fractures via intraoral approach showed good function and anatomy, especially aesthetic caused of not to create visual skin scars and not to damage facial nerve. Key words: Mandibular condylar neck fractures, endoscopy-assisted ĐẶT VẤN ĐỀ Tỉ lệ gãy lồi cầu xương hàm dưới theo y văn chiếm khoảng 30-50% trong gãy xương hàm dưới(9,10). Lồi cầu xương hàm dưới nằm trong một cấu trúc giải phẫu quan trọng của vùng hàm mặt, đó là khớp thái dương-hàm và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng của xương hàm dưới. Do vậy, gãy lồi cầu sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến chức năng của hệ thống nhai; sự di lệch của lồi cầu gãy sẽ phá vỡ sự toàn vẹn cấu trúc diện khớp, đĩa khớp, các dây chằng và cơ bám dính vào khớp; từ đó có thể để lại các di chứng như loạn năng khớp, cứng khớp, rối loạn vận động hàm dưới, rối loạn tăng trưởng hàm dưới, sai khớp cắnảnh hưởng trực tiếp đến chức năng ăn nhai và thẩm mỹ của bệnh nhân(9). Có hai phương pháp điều trị gãy lồi cầu xương hàm dưới là bảo tồn và phẫu thuật. Tuy vậy, nhiều nghiên cứu về điều trị gãy lồi cầu bằng phương pháp bảo tồn đã không thể đạt * Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc: BS. Hồ Nguyễn Thanh Chơn, ĐT: 0918836655, Email: thanhchon@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 181 được sự nắn chỉnh đúng giải phẫu học tại ổ gãy, nhất là trong các trường hợp gãy di lệch nhiều và gãy trật khớp. Trong khi đó, phương pháp phẫu thuật với việc nắn chỉnh hở và kết hợp xương tại ổ gãy đã chứng tỏ kết quả tốt về giải phẫu và chức năng tốt ngay sau phẫu thuật. Tuy nhiên, phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu là một phương pháp đòi hỏi phẫu thuật viên có nhiều kinh nghiệm, khéo léo, nhất là trong trường hợp đường vào phẫu thuật trong miệng(9,11). Tại Việt Nam, với tình hình chấn thương hàm mặt ngày càng tăng về số lượng và mức độ trầm trọng như hiện nay, thì việc điều trị gãy lồi cầu xương hàm dưới bằng phương pháp phẫu thuật đang ngày càng trở nên cần thiết. Có nhiều kỹ thuật đã được mô tả trong việc điều trị kết hợp xương lồi cầu, trong đó, sử dụng hệ thống nẹp vít nhỏ đang trở nên ngày càng thông dụng. Vấn đề biến chứng của phương pháp phẫu thuật liên quan trực tiếp đến đường vào phẫu thuật. Đường vào phẫu thuật ngoài mặt gồm các đường vào trước tai, sau hàm và dưới hàm đã được báo cáo có một số biến chứng xảy ra như dò nước bọt, sẹo mổ có thể nhìn thấy được, tổn thương tạm thời hay vĩnh viễn nhánh của thần kinh mặt(9).Do có thể xảy ra những biến chứng trên, nên việc điều trị phẫu thuật gãy lồi cầu xương hàm dưới là vấn đề đã được bàn cãi nhiều. Và để tránh những biến chứng trên, phương pháp phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu bằng đường vào trong miệng đã ra đời, với sự trợ giúp của một số dụng cụ phẫu thuật mới và nhất là máy nội soi. Các nghiên cứu sử dụng các phương pháp phẫu thuật bằng đường vào ngoài mặt hay trong miệng đều kết luận đã đạt được kết quả điều trị tốt(1,2,4). Đường vào phẫu thuật trong miệng được cho rằng giảm thiểu tối đa di chứng tổn thương thần kinh mặt và không để lại sẹo bên ngoài, nhưng thời gian thực hiện thường kéo dài. Do vậy, cần có nhiều bằng chứng mạnh mẽ hơn nữa để chứng tỏ những ưu điểm của phương pháp kết hợp xương lồi cầu bằng đường vào trong miệng so với đường vào ngoài mặt. Do đó, chúng tôi bắt đầu thực hiện đề tài nghiên cứu tiến cứu lâm sàng “ Ứng dụng nội soi hướng dẫn điều trị gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới ” với các mục tiêu sau: - Đánh giá lâm sàng kết quả điều trị phẫu thuật gãy lồi cầu xương hàm dưới qua đường miệng với nội soi hướng dẫn. - Đánh giá trên phim kết quả điều trị phẫu thuật gãy lồi cầu xương hàm dưới qua đường miệng với nội soi hướng dẫn. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 17 bệnh nhân chấn thương gãy cổ lồi cầu và gãy dưới lồi cầu xương hàm dưới một bên hoặc hai bên (theo phân loại của Lindahl) nhập viện vào khoa Phẫu thuật hàm mặt và tạo hình, bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương TPHCM, trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 2 năm 2013. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân có bệnh lý toàn thân chống chỉ định phẫu thuật gây mê toàn diện qua nội khí quản; bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu lâm sàng. Tiến trình nghiên cứu Chuẩn bị bệnh nhân Giải thích cho bệnh nhân rõ về sự cần thiết của điều trị phẫu thuật và tái khám đúng hẹn; lập hồ sơ bệnh án theo dõi; chụp hình khớp cắn và mặt nhìn thẳng; chụp phim: toàn cảnh, mặt thẳng, Towne’s và cắt lớp điện toán có tái tạo 3 chiều (nếu cần); hỏi bệnh nhân về tiền sử và bệnh sử; khám bệnh nhân và ghi nhận các triệu chứng: đau vùng trước tai bên gãy khi sờ/khi vận động hàm, mất cân xứng mặt, chảy máu ống tai ngoài bên gãy, mức độ sai khớp cắn: vị trí cắn hở, vị trí chạm sớm; khảo sát trên phim tia X: phân loại gãy lồi cầu (sử dụng phân loại của Lindahl: vị trí gãy: gãy cổ lồi cầu/gãy dưới lồi cầu, hình thái di lệch: gập góc: ra trước/lui sau/ra ngoài/vào trong, mức độ gập góc, chồng ngắn: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 182 đoạn gãy lồi cầu ra trước/lui sau/ra ngoài/vào trong, mức độ chồng ngắn, mất tiếp hợp xương giữa hai đầu gãy, đoạn lồi cầu gãy xoay quanh trục dọc, tương quan giữa đầu lồi cầu và hõm khớp: không di lệch, di lệch ít trong hõm khớp, trật khớp: ra trước/lui sau/ra ngoài/vào trong), ghi nhận các vị trí gãy khác (nếu có). Chuẩn bị dụng cụ-vật liệu Máy khoan xương và bộ dụng cụ phẫu thuật kết hợp xương hàm mặt, bộ dụng cụ sử dụng nẹp-vít nhỏ và bộ trocar của Tập đoàn Y khoa Jeil (Hàn Quốc), bộ dụng cụ hỗ trợ kết hợp xương lồi cầu qua đường miệng với nội soi hướng dẫn và tay khoan bắt vít 900 (Synthes, Hoa Kỳ), cung và chỉ thép cố định hàm, nẹp-vít nhỏ bằng Titanium của Tập đoàn Y khoa Jeil (Hàn Quốc), máy nội soi với ống nội soi đường kính 4mm, nghiêng 300 (ShenDa, Đài Loan). Tiến trình điều trị Bệnh nhân được gây mê toàn diện qua nội khí quản đường mũi; điều trị phẫu thuật ở các vị trí gãy khác của tầng giữa mặt (nếu có chỉ định); mở các ổ gãy khác ở xương hàm dưới và kết hợp xương vững chắc đúng giải phẫu; gây tê co mạch dọc niêm mạc bờ trước cành cao đến ngách tiền đình dưới vùng răng cối lớn bên cần kết hợp xương lồi cầu bằng 4ml dung dịch thuốc tê Lidocain 2% với Epineprine 1:100000; rạch niêm mạc từ bờ trước cành cao đến ngách tiền đình răng cối lớn thứ nhất hàm dưới; bóc tách dưới màng xương, tách các vị trí bám của cơ cắn ở mặt ngoài cành cao, bộc lộ toàn bộ mặt ngoài cành cao đến khuyết sigma và mỏm vẹt; đưa ống nội soi vào phẫu trường; bộc lộ ổ gãy lồi cầu; nắn chỉnh ổ gãy về đúng giải phẫu; cố định liên hàm về đúng vị trí lồng múi tối đa; kết hợp xương qua trocar xuyên từ ngoài da má vào ổ gãy bộc lộ trong miệng bằng nẹp-vít nhỏ (2.0) với ít nhất 1 nẹp và ít nhất 2 vít ở mỗi bên đường gãy (hoặc sử dụng kết hợp tay khoan bắt vít 900); khâu đóng vết mổ với chỉ Vicryl 3/0; sử dụng thuốc kháng sinh, kháng viêm và giảm đau trong khoảng 1 tuần. Một tuần sau mổ: tháo cố định liên hàm, sử dụng 2 sợi thun ¼ inch mắc liên hàm hai bên phải và trái; hướng dẫn bệnh nhân tập vận động chức năng hàm dưới dưới hướng dẫn của thun về vị trí lồng múi tối đa, bao gồm các vận động há-ngậm, đưa hàm dưới ra trước và sang bên. Hai tuần sau mổ: tháo tất cả cung và chỉ thép cố định hàm, tiếp tục hướng dẫn bệnh nhân tập vận động chức năng hàm dưới tích cực. Đánh giá kết quả Ghi nhận thời gian từ lúc chấn thương đến ngày phẫu thuật (ngày). Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá lâm sàng bằng một người đánh giá độc lập và đánh giá trên phim tia X bằng một bác sĩ chuyên về tia X răng hàm mặt nhiều năm kinh nghiệm theo phương pháp mù đơn. Đánh giá lâm sàng Tuần đầu tiên sau mổ: kiểm tra khớp cắn ở vị trí lồng múi tối đa: đúng/sai; tình trạng vết mổ sau phẫu thuật: bung chỉ, hở vết mổ: có/không (nếu có: khâu lại vết mổ); nhiễm trùng vết mổ: chia 3 mức độ (nhẹ: chỉ cần điều trị nội khoa _ kháng sinh, vừa: chỉ cần tiểu phẫu rạch dẫn lưu mủ, kết hợp điều trị kháng sinh, nặng: cần phải điều trị bằng phẫu thuật rạch rộng dẫn lưu và bơm rửa sạch mủ, kết hợp kháng sinh toàn thân bằng đường tĩnh mạch); tụ máu vết mổ: nhiều (cần phải rạch thoát máu tụ)/ít (chỉ cần điều trị nội khoa)/không; thương tổn thần kinh mặt: có/không. Hai tuần sau mổ: kiểm tra khớp cắn ở vị trí lồng múi tối đa: đúng/sai; thương tổn thần kinh mặt: có/không. Một tháng, hai tháng và sáu tháng sau mổ: kiểm tra khớp cắn ở vị trí lồng múi tối đa: đúng/sai; ghi nhận biên độ vận động hàm dưới (milimet): há tối đa, đưa hàm dưới ra trước, sang bên gãy/lành (phải/trái nếu gãy lồi cầu 2 bên) tối đa không tiếp xúc răng; thương tổn thần kinh mặt: có/không; dò mủ vết mổ: có/không; dò nước bọt vết mổ: có/không; ghi nhận các triệu chứng: đau vùng trước tai bên gãy khi sờ/ khi vận động hàm: có/không, cân xứng mặt: có/ít/không. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 183 Đánh giá trên phim Bệnh nhân được chụp phim toàn cảnh, mặt thẳng và Towne’s và đánh giá kết quả ở tuần đầu tiên sau mổ, một tháng, hai tháng và sáu tháng sau mổ; được ghi nhận các dấu hiệu sau trên phim: tiếp hợp xương: tốt/lệch ít/lệch nhiều; tương quan lồi cầu-hõm khớp: không di lệch/lệch ít/trật khớp; sự cân xứng xương hàm dưới trên phim toàn cảnh: có/ít/không; gãy nẹp: có/không; lỏng vít: có/không. Xử lý và phân tích kết quả Các dữ liệu sau mỗi lần điều trị và theo dõi được nhập liệu và phân tích bằng phần mềm SPSS 14.0 for Windows. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Chúng tôi bắt đầu triển khai kỹ thuật phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu qua đường miệng với nội soi hướng dẫn tại khoa Phẫu thuật hàm mặt-Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW TPHCM từ tháng 12/2012 và đến nay (tháng 2/2013) chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật trên 17 bệnh nhân với 17 ổ gãy lồi cầu. Trong đó, có 3 bệnh nhân gãy lồi cầu hai bên được phẫu thuật 1 bên, bên còn lại được điều trị bảo tồn. Đa số bệnh nhân là nam, có 3/17 bệnh nhân là nữ. Khoảng tuổi của các bệnh nhân là từ 18 đến 65 tuổi, với số ngày từ lúc chấn thương đến ngày phẫu thuật từ 4 đến 22 ngày, đây là khoảng thời gian tương đối thuận lợi cho việc nắn chỉnh và kết hợp xương. Đặc điểm dịch tễ của các bệnh nhân được trình bày trong bảng 1. Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ của 17 bệnh nhân. STT Tuổi Gãy phối hợp XHD Gãy phối hợp TGM Ghi chú 1 23 cành ngang - 2 22 cằm - 2 bên 3 43 cằm - 4 30 - - 5 22 cằm phức hợp gò má (PHGM) 6 40 cằm - nữ 7 51 cằm - 8 27 cành ngang PHGM, xương ổ HT 9 21 cành ngang - STT Tuổi Gãy phối hợp XHD Gãy phối hợp TGM Ghi chú 10 28 cằm Lefort II nữ 11 38 cằm - 12 43 cằm - 13 65 - phức hợp gò má nữ 14 18 cằm phức hợp gò má 15 34 cằm - 2 bên 16 27 - phức hợp gò má 2 bên 17 20 cằm 2 bên - Có 14/17 bệnh nhân có gãy xương hàm dưới phối hợp đa số ở vùng cằm, còn lại là vùng cành ngang. Có 6 bệnh nhân có gãy phối hợp tầng giữa mặt, trong đó đa phần là gãy phức hợp gò má. Đây là thể gãy không làm di lệch cung răng trên nên việc kiểm soát khớp cắn đúng vị trí lồng múi tối đa chỉ là việc nắn chỉnh, cố định liên hàm và kết hợp xương hàm dưới, độc lập với việc điều trị phẫu thuật gãy phức hợp gò má. Đánh giá lâm sàng Không có trường hợp sai khớp cắn nào được ghi nhận sau phẫu thuật, tất cả bệnh nhân đều có vị trí lồng múi tối đa đúng sau phẫu thuật. Tương tự như vậy, không ghi nhận được trường hợp bung chỉ vết mổ nào. Tuy nhiên có 1 trường hợp nhiễm trùng ngay tại vị trí xuyên trocar ở vùng trước tai xảy ra trong tuần đầu sau phẫu thuật ở bệnh nhân thứ 17. Đây là một trường hợp nhiễm trùng mức độ vừa, được rạch nhỏ tháo ra ít mủ trắng đục, bơm rửa và dùng kháng sinh tĩnh mạch; kết quả là ổ nhiễm trùng ổn sau 3 ngày. Ngoài ra, có 1 trường hợp tụ máu mức độ vừa, được tháo máu tụ qua vết mổ trong miệng và nặn ép, bơm rửa sạch. Các bệnh nhân đều được băng ép thun dãn cằm-đầu ngay sau phẫu thuật trong 2-3 ngày, do đó hạn chế được khoảng chết và hình thành máu tụ. Ưu điểm của kỹ thuật phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu qua đường miệng với nội soi hướng dẫn là không xảy ra di chứng dò nước bọt, không gây thương tổn thần kinh mặt và nhất là không để lại sẹo mổ ngoài da(3,5,6,7,8). Tất cả 17 bệnh nhân trong nghiên cứu đều có được ưu điểm trên. Đây là điểm vượt trội của kỹ thuật kết hợp xương này so với các đường vào phẫu thuật Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 184 ngoài mặt kinh điển kết hợp xương lồi cầu. Hơn nữa, với đường vào phẫu thuật từ trong miệng, việc tiếp cận ổ gãy lồi cầu sẽ nhanh hơn, ít xâm lấn hơn so với đường vào ngoài mặt. Ngoài ra, việc khâu đóng vết mổ trong miệng cũng nhanh hơn so với khâu đóng các đường vào ngoài mặt truyền thống. Vì thời gian theo dõi còn ngắn và số bệnh nhân chưa nhiều nên chúng tôi chưa trình bày các dấu hiệu lâm sàng cần theo dõi khác như đau vùng trước tai, vận động chức năng hàm dưới... trong phạm vi bài báo cáo này. Đánh giá trên phim Đánh giá kết quả trên phim sau phẫu thuật được trình bày trong bảng 2. Bảng 2: Kết quả trên phim của các bệnh nhân. Dấu hiệu Số BN Tiếp hợp xương Tốt 11 Lệch ít 5 Lệch nhiều 1 Tương quan lồi cầu-hõm khớp Không lệch 15 Di lệch ít 2 Trật khớp 0 Gãy nẹp/vít 0 Lỏng vít 0 Đánh giá trên phim toàn cảnh và Towne's được thực hiện trên các bệnh nhân từ sau phẫu thuật 1 tuần đến tối đa 2 tháng tùy thuộc vào từng thời điểm phẫu thuật ở mỗi bệnh nhân. Đa số bệnh nhân có tiếp hợp xương tốt (11/17 bệnh nhân), còn lại lệch ít và có 1 trường hợp được đánh giá là lệch nhiều ở bệnh nhân số 16 do đường gãy di lệch nhiều trước phẫu thuật và khó nắn chỉnh chính xác ổ gãy bằng đường miệng trên bệnh nhân bị gãy cả hai bên lồi cầu. Về tương quan lồi cầu và hõm khớp thì hầu hết bệnh nhân đều có đầu lồi cầu nằm đúng trong hõm khớp (15/17 bệnh nhân), và không có trường hợp nào có dấu hiệu trật khớp trên phim chụp kiểm tra theo dõi sau phẫu thuật. Ngoài ra, chúng tôi cũng chưa ghi nhận được trường hợp nào có hiện tượng gãy nẹp/vít hay lỏng vít trên phim và đây cũng là một dấu hiệu thành công bước đầu. Tuy nhiên, các dấu hiệu này cần được theo dõi với thời gian đủ dài hơn. Chúng tôi cũng chưa so sánh được các số liệu trong nghiên cứu với các nghiên cứu về kết hợp xương lồi cầu dưới nội soi hướng dẫn qua đường miệng trên thế giới do cỡ mẫu chưa đủ lớn. Chúng tôi sẽ so sánh kết quả điều trị trong những bài báo cáo sau này. KẾT LUẬN Nghiên cứu này đã bước đầu cung cấp những kết quả đáng khích lệ về lâm sàng và trên phim trong điều trị phẫu thuật gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới, có thể xem là nghiên cứu mở đường cho việc áp dụng một kỹ thuật điều trị mới trong điều trị phẫu thuật gãy lồi cầu. Tuy vậy, với thời gian điều trị và theo dõi tất cả 17 bệnh nhân trong vòng 3 tháng, cần có thời gian nhiều hơn để theo dõi và điều trị nhiều bệnh nhân hơn nữa. Chúng ta có thể khẳng định rằng, với các ưu điểm vượt trội của kỹ thuật phẫu thuật kết hợp xương lồi cầu dưới hướng dẫn nội soi qua đường miệng thì kỹ thuật này nên được thực hiện và nghiên cứu tiếp tục. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. González-García R, Sanromán JF, Goizueta-Adame C, Rodríguez-Campo FJ, Cho-Lee GY (2009). Transoral endoscopic-assisted management of subcondylar fractures in 17 patients: an alternative to open reduction with rigid internal fixation and closed reduction with maxillomandibular fixation. Int J Oral Maxillofac Surg, 38(1):19-25. 2. Jacobovicz J, Lee C, Trabulsy PP (1998). Endoscopic repair of mandibular subcondylar fractures. Plast Reconstr Surg, 101(2):437-441. 3. Kellman RM, Cienfuegos R (2009). Endoscopic approaches to subcondylar fractures of the mandible. Facial Plast Surg, 25(1):23-28. 4. Lauer G, Schmelzeisen R (1999). Endoscope-Assisted Fixation of Mandibular Condylar Process Fractures. J Oral Maxillofac Surg, 57:36-39. 5. Cho-Lee GY, Rodríquez Campo FJ, Gonzaléz García R, Munoz Guerra MF, Sastre Pérez J, Naval Gías L (2008). Endoscopically-assisted transoral approach for the treatment of subcondylar fractures of the mandible. Med Oral Patol Oral Cir Bucal, 13(8):E511-515. 6. Miloro M (2003). Endoscopic-assisted repair of subcondylar fractures. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod, 96(4):387-391. 7. Schmelzeisen R, Cienfuegos-Monroy R, Schön R, Chen CT, Cunningham L Jr, Goldhahn S (2009). Patient benefit from endoscopically assisted fixation of condylar neck fractures-a randomized controlled trial. J Oral Maxillofac Surg, 67(1):147- 158. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 185 8. Schoen R, Fakler O, Metzqer MC, Weyer N, Schmelzeisen R (2008). Preliminary functional results of endoscope-assisted transoral treatment of displaced bilateral condylar mandible fractures. Int J Oral Maxillofac, 37:111–116. 9. Silvennoinen U, Iizuka T, Oikarinen K, Lindqvist C (1992). Different patterns of condylar fractures: an analysis of 382 patients in a 3- year period. J Oral Maxillofac Surg, 50(10):1032- 1037. 10. Trần Văn Trường, Trương Mạnh Dũng (1999): Tình hình chấn thương hàm mặt tại Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội trong 11 năm (1988-1998) trên 2149 trường hợp. Tạp chí Y học Việt Nam 10(11): 71-80. 11. Troulis MJ & Kaban LB (2001). Endoscopic approach to the ramus/condyle unit: Clinical applications. J Oral Maxillofac Surg, 59(5):503-509.
Tài liệu liên quan