Đặt vấn đề: PET/CT kết hợp hình ảnh chuyển hóa của PET và hình ảnh giải phẫu CT trong một lần
ghi hình, đang được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán và theo dõi bệnh lý ung thư, đặc biệt trong ung thư
phổi trên thế giới. Ở nước ta, PET/CT vừa mới đưa vào sử dụng từ năm 2009 và chưa có nhiều nghiên
cứu trong ung thư phổi.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát vai trò FDG-PET/CT trong phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi
trước điều trị, so sánh với phương pháp chẩn đoán thường qui.
Kết quả: 57 bệnh nhân ung thư phổi từ 12/2010 đến 12/2011, gồm 40 bệnh nhân nam và 17 nữ, tuổi
trung bình 59 tuổi (từ 40 đến 84 tuổi) đã tham gia vào nghiên cứu. Sự tương hợp giữa phương pháp
PET/CT với phương pháp chẩn đoán thường qui trong phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi ở 47/57
(82,5%) bệnh nhân với hệ số Kappa là 0,68 và trong chẩn đoán di căn hạch ở 38/57 bệnh nhân (66,7%) với
hệ số Kappa là 0,56. 10/25 bệnh nhân (40%) chưa có di căn xa được chẩn đoán theo phương pháp thường
qui đã tăng giai đoạn bệnh khi khảo sát bằng hình ảnh PET/CT. 17/32 bệnh nhân (53%) có di căn xa được
chẩn đoán theo phương pháp thường qui đã phát hiện có thêm di căn ở các cơ quan khác khi khảo sát bằng
hình ảnh PET/CT. Các cơ quan di căn thường gặp là xương (22 bệnh nhân, 59,5%), não (12 bệnh nhân,
32,4%), thượng thận (8 bệnh nhân, 21,6%), phổi (7 bệnh nhân, 18,9%), gan (4 bệnh nhân, 10,8%). 6/12
bệnh nhân (50%) có tổn thương di căn não không tăng hoạt động chuyển hóa glucose, nhưng xác định rõ
trên hình ảnh CT có dùng thuốc cản quang trong qui trình ghi hình PET/CT.
Kết luận: PET/CT có lẽ hữu ích trong phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi. Việc thêm chỉ định kỹ
thuật PET/CT vào trong qui trình thường qui để phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi trước điều trị cần
được xem xét.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của PET/CT trong phân chia giai đoạn ung thư phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 109
VAI TRÒ CỦA PET/CT TRONG PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
Nguyễn Xuân Cảnh*, Nguyễn Đức Khuê**, Nguyễn Văn Khôi***, Trần Minh Thông****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: PET/CT kết hợp hình ảnh chuyển hóa của PET và hình ảnh giải phẫu CT trong một lần
ghi hình, đang được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán và theo dõi bệnh lý ung thư, đặc biệt trong ung thư
phổi trên thế giới. Ở nước ta, PET/CT vừa mới đưa vào sử dụng từ năm 2009 và chưa có nhiều nghiên
cứu trong ung thư phổi.
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát vai trò FDG-PET/CT trong phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi
trước điều trị, so sánh với phương pháp chẩn đoán thường qui.
Kết quả: 57 bệnh nhân ung thư phổi từ 12/2010 đến 12/2011, gồm 40 bệnh nhân nam và 17 nữ, tuổi
trung bình 59 tuổi (từ 40 đến 84 tuổi) đã tham gia vào nghiên cứu. Sự tương hợp giữa phương pháp
PET/CT với phương pháp chẩn đoán thường qui trong phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi ở 47/57
(82,5%) bệnh nhân với hệ số Kappa là 0,68 và trong chẩn đoán di căn hạch ở 38/57 bệnh nhân (66,7%) với
hệ số Kappa là 0,56. 10/25 bệnh nhân (40%) chưa có di căn xa được chẩn đoán theo phương pháp thường
qui đã tăng giai đoạn bệnh khi khảo sát bằng hình ảnh PET/CT. 17/32 bệnh nhân (53%) có di căn xa được
chẩn đoán theo phương pháp thường qui đã phát hiện có thêm di căn ở các cơ quan khác khi khảo sát bằng
hình ảnh PET/CT. Các cơ quan di căn thường gặp là xương (22 bệnh nhân, 59,5%), não (12 bệnh nhân,
32,4%), thượng thận (8 bệnh nhân, 21,6%), phổi (7 bệnh nhân, 18,9%), gan (4 bệnh nhân, 10,8%). 6/12
bệnh nhân (50%) có tổn thương di căn não không tăng hoạt động chuyển hóa glucose, nhưng xác định rõ
trên hình ảnh CT có dùng thuốc cản quang trong qui trình ghi hình PET/CT.
Kết luận: PET/CT có lẽ hữu ích trong phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi. Việc thêm chỉ định kỹ
thuật PET/CT vào trong qui trình thường qui để phân chia giai đoạn bệnh ung thư phổi trước điều trị cần
được xem xét.
Từ khóa: PET/CT (Positron Emission Tomography/Computed Tomography), FDG, ung thư phổi.
ABSTRACT
ROLE OF PET/CT IN INITIAL STAGING OF LUNG CANCER
Nguyen Xuan Canh, Nguyen Duc Khue, Nguyen Van Khoi, Tran Minh Thong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 109 - 115
Introduction: PET/CT is a imaging technology that can provide metabolic from PET and anatomic
information from CT in a single scan. PET/CT is extensively used in the world for diagnosis and follow-up
of cancer, especially lung cancer. PET/CT has been putting into clinical practice from 2009 in Vietnam and
there were not many papers on PET/CT in lung cancer.
Aim of study: to assess the role of FDG-PET/CT application in initial staging of lung cancer in
comparing with conventional work-up (CWU).
Results: Fifty seven consecutive patients with lung cancer were enrolled prospectively to undergo
* Đơn vị PET/CT và Cyclotron, BV Chợ Rẫy ** Khoa Ngoại Lồng Ngực, BV Chợ Rẫy
*** Trung tâm Ung Bướu, BV Chợ Rẫy **** Khoa Giải Phẫu Bệnh, BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Nguyễn Xuân Cảnh. ĐT: 0903882729 . Email: nxcanh2000@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 110
FDG PET/CT at Choray hospital from Dec 2010 to Dec 2011. There were forty males and 17 females with
mean age of 59 years (range from 40 to 84). There was an agreement between PET/CT with CWU on initial
staging of the disease in 47/57 patients (82.5%) with a Kappa of 0.68 and on staging of locoregional lymph
nodes in 38/57 patients (66.7%) with a Kappa of 0.56. Ten of 25 patients (40%) without distant metastasis
diagnosed by CWU were modified more advanced stage of the disease on PET/CT. Seventeen of 32 patients
(53%) with metastasis diagnosed by CWU had more organs of metastasis on PET/CT. The common
metastatic sites included bone (22 cases, 59.5%), brain (12 cases, 32.4%), adrenal (8 cases, 21.6%), lung (7
cases, 18.9%), liver (4 cases, 10.8%). Six of 12 patients (50%) with brain metastasis which were showed no
glucose hypermetabolism in brain metastasis on PET, but detected by contrast-enhanced CT of PET/CT.
Conclusion: FDG PET/CT may be helpful in initial staging of lung cancer. Adding PET/CT imaging
in conventional work-up for lung staging may be considered.
Keywords: PET/CT (Positron Emission Tomography/Computed Tomography), FDG, lung cancer.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là một trong những nguyên
nhân gây tử vong hàng đầu trong các loại ung
thư trên thế giới. Theo báo cáo của tổ chức y tế
thế giới, có khoảng 1,3 triệu người chết trong
năm 2004 do ung thư phổi(1). Ở Việt Nam, ung
thư phổi đứng hàng đầu trong các loại ung thư
ở nam giới tại thành phố Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh, với suất độ chuẩn theo tuổi ASR
là 39,8 tại thành phố Hà Nội và 19,4 tại thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2001-2004(15).
Chẩn đoán sớm và phân chia giai đoạn
chính xác ung thư phổi sẽ rất quan trọng
trong việc quyết định phương pháp điều trị.
Khám lâm sàng kết hợp hình ảnh cần thiết
như X-quang phổi, CT ngực-bụng, siêu âm
vùng cổ, vùng bụng chậu, MRI não, xạ hình
xương là phương pháp thường qui trong
phân chia giai đoạn bệnh trước điều trị. Gần
đây, một phương pháp ghi hình tiên tiến là
PET/CT (Positron Emission
Tomography/Computed Tomography) với
thuốc phóng xạ 18F-FDG, kết hợp hình ảnh
chuyển hóa của PET và hình ảnh giải phẫu CT
đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong
chẩn đoán và theo dõi bệnh lý ung thư và đặc
biệt trong ung thư phổi, PET/CT đã cho thấy
nhiều lợi điểm trong phân chia giai đoạn bệnh
trước điều trị(5,16,8,3).
Ở nước ta, phương pháp ghi hình PET/CT
vừa mới đưa vào sử dụng và còn tương đối mới
mẻ, chưa có nhiều nghiên cứu đánh vai trò của
PET/CT trong phân chia giai đoạn bệnh trong
ung thư phổi. Do đó, chúng tôi mong muốn
thực hiện đề tài “Vai trò của PET/CT trong phân
chia giai đoạn ung thư phổi”.
BỆNH NHÂN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiền cứu so sánh giữa phương
pháp PET/CT và phương pháp chẩn đoán
thường qui trong việc phân chia giai đoạn bệnh
trước điều trị cho các bệnh nhân ung thư phổi
được ghi hình PET/CT tại bệnh viện Chợ Rẫy từ
tháng 12 năm 2010 đến tháng 12 năm 2011.
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu đều
chưa được điều trị đặc hiệu bằng phẫu trị, hóa
trị hay xạ trị. Bệnh nhân đã được khám lâm
sàng, chụp CT scan hoặc X-quang phổi và các
phương pháp hình ảnh khác tùy theo bệnh cảnh
lâm sàng như CT bụng chậu, siêu âm vùng cổ,
vùng bụng, xạ hình xương, CT hoặc MRI não.
Phân chia sơ bộ giai đoạn bệnh ung thư phổi
được xác lập theo AJCC-VI(1).
Sau đó bệnh nhân được chỉ định ghi hình
trên máy PET/CT True D w/ True V 64 lát cắt
của hãng Siemens. Bệnh nhân được nhịn đói tối
thiểu 4-6 giờ trước khi tiêm tĩnh mạch thuốc
phóng xạ 18F-FDG (FDG) với liều 5,18 MBq/kg
cân nặng (0,14 mCi/kg). Bệnh nhân được nằm
nghĩ ngơi trong phòng riêng, hạn chế nói
chuyện, đi lại và được ghi hình PET/CT khoảng
60 phút sau khi tiêm thuốc FDG. Đầu tiên bệnh
nhân được chụp CT có dùng thuốc cản quang từ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 111
đỉnh đầu cho đến 1/3 phần trên đùi, tiếp theo
bệnh nhân được ghi hình PET theo trường chụp
của CT. Những bệnh nhân suy thận không tham
gia vào nghiên cứu do chống chỉ định dùng
thuốc cản quang. Bệnh nhân được phân chia lại
giai đoạn bệnh ung thư phổi sau khi thêm vào
hình ảnh PET/CT. Nồng độ glucose máu đo
được trước khi tiêm 18F-FDG trung bình là 105,5
mg/dL (từ 84 đến 145 mg/dL).
Chẩn đoán xác định ung thư phổi dựa vào
kết quả giải phẫu bệnh tổn thương u nguyên
phát hoặc tổn thương di căn hoặc chẩn đoán
ung thư phổi dựa vào lâm sàng, các xét nghiệm
chẩn đoán, hình ảnh PET/CT có khả năng cao
do có khối u ở phổi nghĩ là tổn thương nguyên
phát kèm các tổn thương di căn rõ, sau đó bác sĩ
chuyên khoa đã chẩn đoán và quyết định điều
trị theo hướng ung thư phổi di căn. Chúng tôi
không thể lấy tất cả các mẫu bệnh phẩm tổn
thương để làm kết quả giải phẫu bệnh để đánh
giá như tiêu chuẩn vàng để phân chia giai đoạn
bệnh. Nên việc phân chia giai đoạn bệnh dựa
vào sự tin tưởng của kết quả khám lâm sàng và
các xét nghiệm chẩn đoán thường qui. Đối với
phân chia gia đoạn theo PET/CT, ghi nhận có
bệnh khi hình ảnh tổn thương với khả năng cao.
Những tổn thương ác tính trên nguyên tắc sẽ
tăng hấp thu FDG trên hình ảnh PET so với mô
lành cùng cơ quan hoặc mô cạnh tổn thương.
Hạch di căn tại chổ tại vùng sẽ tăng hấp thu
FDG hơn so với mức FDG trong mạch máu
trung thất kết hợp với hội chẩn của các bác sĩ Y
học hạt nhân. Di căn thượng thận sẽ tăng hấp
thu FDG hơn so với mức hấp thu FDG của gan.
Những trường hợp khó xác định, thì sẽ được
xem như là không có tổn thương. Kỹ thuật ghi
hình PET/CT trong nghiên cứu có dùng thuốc
cản quang, nên một số trường hợp tổn thương
khả năng ác tính cao trên hình ảnh CT trong ghi
hình PET/CT cũng được cho là ác tính, mặc dù
không tăng hấp thu FDG trên hình ảnh PET.
Đánh giá sự tương hợp việc phân chia giai
đoạn bệnh ung thư phổi theo PET/CT và theo
phương pháp chẩn đoán thường qui sẽ được
đánh giá theo hệ số Kappa và phân tích mô tả.
Các dữ liệu nghiên cứu sẽ được phân tích thống
kê nhờ phần mềm Medcalc version 12.1.4.0.
KẾT QUẢ
Tổng cộng có 57 bệnh nhân tham gia vào
nghiên cứu. 40 bệnh nhân nam và 17 nữ. Tuổi
trung bình 59 tuổi (từ 40 đến 84 tuổi). 42 bệnh
nhân được chẩn đoán ung thư phổi nhờ kết quả
giải phẫu bệnh. 15 bệnh nhân được chẩn đoán
ung thư phổi dựa lâm sàng, các xét nghiệm chẩn
đoán, hình ảnh PET/CT có khả năng cao do có
khối u ở phổi nghĩ là tổn thương nguyên phát
kèm các tổn thương di căn rõ và bác sĩ chuyên
khoa quyết định chẩn đoán và điều trị theo
hướng ung thư phổi di căn. Đặc điểm của bệnh
nhân được mô tả trong bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm các bệnh nhân trong nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng
BN
Tỷ lệ
%
Giới
Nam 40 70,2
Nữ 17 29,8
Chẩn đoán nhờ giải phẫu bệnh
Carcinoma tuyến 31 54,4
Carcinoma tế bào gai 8 14,0
Carcinoma 2 3,5
Carcinoma tế bào nhỏ 1 1,8
Chẩn đoán nhờ lâm sàng, xét
nghiệm chẩn đoán và PET/CT
15 26,3
Khảo sát phân chia giai đoạn bệnh ung thư
phổi
Trong phân chia giai đoạn ung thư phổi dựa
vào phương pháp chẩn đoán thường qui là
thăm khám lâm sàng và các xét nghiệm hình
ảnh như X-quang phổi, CT, MRI, siêu âm, xạ
hình xương tùy theo chỉ định của bác sĩ lâm
sàng đã có 4 bệnh nhân được phân chia giai
đoạn I, 6 bệnh nhân thuộc giai đoạn II, 8 bệnh
nhân thuộc giai đoạn IIIA, 7 bệnh nhân thuộc
giai đoạn IIIB và 32 bệnh nhân thuộc giai đoạn
IV. Trong khi đó phân chia giai đoạn dựa theo
hình ảnh PET/CT, đã có 2 bệnh nhân thuộc giai
đoạn I, 1 bệnh nhân thuộc giai đoạn II, 10 bệnh
nhân thuộc giai đoạn IIIA, 7 bệnh nhân thuộc
giai đoạn IIIB và 37 bệnh nhân thuộc giai đoạn
IV.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 112
Sự tương hợp trong phân chia giai đoạn
bệnh ung thư phổi giữa phương pháp chẩn
đoán PET/CT với phương pháp chẩn đoán
thường qui trong 47/57 (82,5%) bệnh nhân với
hệ số Kappa là 0,68. (bảng 2)
Bảng 2: So sánh sự phân chia giai đoạn theo PET/CT
và phương pháp chẩn đoán thường qui
Phương pháp thường qui
PET/CT I II IIIA IIIB IV
Số
BN
%
I 2 0 0 0 0 2 3,5
II 0 1 0 0 0 1 1,8
IIIA 1 3 6 0 0 10 17,5
IIIB 0 0 1 6 0 7 12,3
IV 1 2 1 1 32 37 64,9
Số BN 4 6 8 7 32 57
% 7,0 10,5 14,0 12,3 56,1
10 bệnh nhân đã có sự khác biệt trong phân
chia giai đoạn là những trường hợp chưa có di
căn xa trong tổng cộng 25 bệnh nhân được chẩn
đoán theo phương pháp thường qui (chiếm
40%) được đánh giá là tăng giai đoạn bệnh khi
khảo sát bằng hình ảnh PET/CT.
Sơ đồ 1: Sơ đồ biểu diễn tăng giai đoạn khi dùng
PET/CT của 10/25 bệnh nhân chưa có di căn xa
chẩn đoán bởi phương pháp thường qui
Khảo sát các trường hợp di căn xa
Tổng cộng có 37 bệnh nhân có di căn xa trên
hình ảnh PET/CT. 5 bệnh nhân di căn xa không
được phát hiện và 32 bệnh nhân có di căn xa đã
được phát hiện theo phương pháp chẩn đoán
thường qui. Những di căn thường gặp bao gồm
22 trường hợp di căn xương (59,5%), 12 di căn
não (32,4%), 8 di căn thượng thận (21,6%), 7 di
căn phổi (18,9%), 4 di căn gan (10,8%), 2 di căn
tụy (5,4%).
Trong 12 bệnh nhân có di căn não được phát
hiện trên MRI, có 6 bệnh nhân (chiếm 50%) được
xác định có tổn thương di căn não không tăng
hấp thu FDG hình ảnh PET nhưng xác định rõ
hình ảnh CT có dùng thuốc cản quang trong ghi
hình PET/CT, nên cũng được xem là PET/CT
cho kết quả dương tính, tức là có di căn não.
17/32 bệnh nhân (53%) có di căn xa được
chẩn đoán theo phương pháp thường qui
nhưng hình ảnh PET/CT đã phát hiện có thêm
di căn ở các cơ quan khác, trong đó 7 bệnh nhân
có thêm 2 cơ quan bị di căn và 10 bệnh nhân có
thêm 1 cơ quan bị di căn. (bảng 3)
Bảng 3: Số lượng cơ quan có di căn thêm trên hình
ảnh PET/CT trong 32 trường hợp có di căn xa được
chẩn đoán theo phương pháp thường qui
Số BN %
Không thay đổi số lượng cơ quan di căn 15 47
Có thêm 2 cơ quan bị di căn 7 22
Có thêm 1 cơ quan bị di căn 10 31
Khảo sát các trường hợp di căn hạch
38/57 bệnh nhân (66,7%) đã có sự tương hợp
trong chẩn đoán di căn hạch giữa phương pháp
PET/CT và phương pháp chẩn đoán thường qui
với hệ số tương hợp Kappa là 0,56.
28 bệnh nhân không có di căn hạch tại chỗ
tại vùng được đánh giá theo phương pháp
chẩn đoán thường qui, đã có 13 bệnh nhân
(chiếm 46%) phát hiện có di căn hạch tại chỗ
tại vùng trên hình ảnh PET/CT, trong đó 1
trường hợp di căn hạch N1, 9 trường hợp di
căn hạch N2 và 3 trường hợp di căn hạch N3.
Có 1 trong 2 bệnh nhân di căn hạch N1 được
đánh giá theo phương pháp chẩn đoán
thường qui đã có di căn hạch N2 trên hình
ảnh PET/CT và 5/19 bệnh nhân (26%) di căn
hạch N2 được đánh giá theo phương pháp
chẩn đoán thường qui đã có di căn hạch N3
trên hình ảnh PET/CT. (bảng 4)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 113
Bảng 4: Phân chia giai đoạn hạch di căn tại chỗ tại
vùng theo phương pháp thường qui so với hình ảnh
PET/CT
Phương pháp thường qui
PET/CT N0 N1 N2 N3
Số
BN
%
N0 15 0 0 0 15 26,3
N1 1 1 0 0 2 3,5
N2 9 1 14 0 2 42,1
N3 3 0 5 8 16 28,1
Số BN 28 2 19 8 57
% 49,1 3,5 33,3 14,0
BÀN LUẬN
PET/CT là một kỹ thuật chẩn đoán đánh giá
chuyển hóa và giải phẫu đang được sử dụng
rộng rãi trên thế giới. Tế bào ung thư, đặc biệt
ung thư phổi thường gia tăng hoạt động chuyển
hóa glucose, nên biểu hiện hấp thu nhiều thuốc
FDG (một chất tương tự glucose) trong ghi hình
PET/CT. Do có những ưu điểm trong chẩn đoán
những thay đổi chuyển hóa sớm trong các tổn
thương nguyên phát ở phổi, tổn thương di căn
và thực tiễn lâm sàng chứng minh, nên PET/CT
đã được khuyến cáo thêm vào trong các phương
pháp thường qui để xác định chẩn đoán, phân
chia giai đoạn và theo dõi điều trị ung thư phổi
theo các hướng dẫn của NCCN và của hội Y học
hạt nhân Hoa Kỳ(7) v.v.
Nghiên cứu hiện tại cho thấy sự tương hợp
giữa phương pháp PET/CT và phương pháp
chẩn đoán thường qui về phân chia giai đoạn
bệnh ung thư phổi trước điều trị trong 82,5%
trường hợp với hệ số Kappa là 0,68. Kết quả này
tương tự như nghiên cứu của Chin R Jr và CS
năm 2002 đã tìm thấy sự tương hợp trong 83%
các trường hợp với chỉ số Kappa 0,67(6).
10 trường hợp (17,5%) trong nghiên cứu
hiện tại đã có thay đổi giai đoạn khi đánh giá
bằng hình ảnh PET/CT. Kết quả này thấp hơn so
với nghiên cứu của Mai Trọng Khoa và Trần Hải
Bình, bệnh viện Bạch Mai mà cho thấy PET/CT
làm thay đổi giai đoạn bệnh ở 30% trường
hợp(13), hay nghiên cứu của Prévost A và CS cho
thấy PET/CT thay đổi giai đoạn bệnh trong 28%
trường hợp ung thư phổi(4). Điều này có thể giải
thích là do hơn 50% số bệnh nhân trong nghiên
cứu hiện tại được chẩn đoán ở giai đoạn IV
trước khi ghi hình PET/CT và 10 trường hợp
khác biệt giai đoạn, là trong số 25 trường hợp
(chiếm đến 40%) thuộc nhóm chưa có di căn xa
khi chẩn đoán bằng phương pháp thường qui
đã biểu hiện tăng giai đoạn bệnh khi khảo sát
bằng PET/CT. Chúng tôi tin rằng, với sự thay
đổi giai đoạn bệnh khi khảo sát bằng hình ảnh
PET/CT sẽ giúp cho bác sĩ quyết định tốt hơn
phương án điều trị, mặc dù nghiên cứu hiện tại
không đánh giá sự thay đổi quyết định do một
số bác sĩ đã ngần ngại đưa ra những quyết định
lâm sàng khi chưa có hình ảnh PET/CT. Một số
nghiên cứu trong y văn như nghiên cứu của
Prévost A và cs cho thấy PET/CT đã làm thay
đổi quyết định phẫu thuật trong 19% các trường
hợp mà cần phải chuyển sang hóa trị(16), còn
nghiên cứu của Mac Manus MP cho thấy 25-
30% bệnh nhân không thể xạ trị tận gốc vì hình
ảnh PET/CT phát hiện bệnh đã tiến xa(12).
Đánh giá những bệnh nhân di căn xa
không thay đổi giai đoạn bệnh trước và sau
khi ghi hình PET/CT, nhưng số lượng cơ quan
di căn tăng nhiều hơn 50% trường hợp. Điều
này chứng tỏ rằng, PET/CT giúp đánh giá
toàn diện hơn tình trạng bệnh lý, góp phần
vào chọn lựa hướng điều trị và có lẽ giúp tiên
lượng tình trạng bệnh.
Đánh giá tình trạng di căn hạch tại chỗ tại
vùng, chúng tôi nhận thấy có 66,7% trường hợp
đã có sự phù hợp trong chẩn đoán di căn hạch
giữa phương pháp PET/CT và phương pháp
chẩn đoán thường qui với hệ số tương hợp
Kappa 0,56. PET/CT đã phát hiện mức độ hạch
di căn nhiều hơn so với phương pháp chẩn
đoán thường qui hiện nay. Điều này có thể giải
thích do một số hạch nhỏ tại chỗ tại vùng đã
được xem là hạch lành tính trên hình ảnh CT,
nhưng lại tăng hoạt động chuyển hóa ý nghĩa
trên hình ảnh PET/CT. Kết quả này cũng phù
hợp trong một số nghiên cứu khi cho rằng PET
tốt hơn CT trong chẩn đoán di căn hạch trung
thất từ ung thư phổi(4,11). Đối với những hạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 114
khó xác định có phải di căn không trên hình ảnh
PET/CT, chúng tôi không xem những hạch này
là di căn để giảm thiểu những trường hợp
dương tính giả, vì chúng tôi không thể kiểm
chứng các hạch này bằng kết quả giải phẫu bệnh
và theo kinh nghiệm chúng tôi nhận thấy có một
tỷ lệ nhỏ hạch viêm ở trung thất phản ứng từ
viêm phổi kèm theo hay viêm phổi hoặc lao
phổi trước đây cũng biểu hiện tăng hoạt động
chuyển hóa. Vì vậy, việc xác định di căn hạch tại
chỗ tại vùng trong ung thư phổi luôn được hội
chẩn bởi các bác sĩ có kinh nghiệm.
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã kết hợp
CT có cản quang trong qui trình PET/CT để
định vị chính xác hơn vị trí tổn thương và tăng
khả năng phát hiện bệnh, ngay cả những tổn
thương không tăng hoạt động chuyển hóa. Đã
có 50% trường hợp tổn thương di căn não trong
nghiên cứu hiện tại đã không biểu hiện tăng
hoạt động chuyển hóa glucose trên hình ảnh
PET. Điều này có thể được giải thích rằng não là
cơ quan bình thường sử dụng glucose nhiều cho
hoạt động, tổn thương di căn não có thể không
tăng chuyển hóa glucose hơn so với nhu mô não
lành tính và có thể do độ phân giải của kỹ thuật
PET thấp hơn so với CT và MRI. Tuy nhiên
những tổn thương di căn não nêu trên đã được
phát hiện nhờ CT chẩn đoán trong qui trình
PET/CT, vì vậy chúng tôi vẫn xem PET/CT
dương tính trong chẩn đoán tổn thương di căn
não này. Như vậy, nếu dùng CT không cản
quang trong PET/CT để hiệu chỉnh tia xạ hay
định vị giải phẫu như qui trình chuẩn ở một số
trung tâm có khả năng giảm cơ hội phát hiện
tổn thương di căn não n