Mở đầu: Tăng triglyceride máu (TG) rất thường gặp do nguyên nhân nguyên phát hoặc thứ phát do rượu,
đái tháo đường, dùng thuốc Tăng TG máu đặc biệt mức nặng có thể là nguyên nhân của viêm tụy cấp (VTC),
trong khi đó rượu cũng có thể gây ra VTC. Cả 2 có vai trò trong cơ chế bệnh sinh của VTC.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ tăng TG ở bệnh nhân VTC và đánh giá mối liên quan giữa tăng TG
máu và uống rượu ở bệnh nhân VTC.
Thiết kế nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, khảo sát 178 bệnh nhân
bị VTC chẩn đoán dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng. Ghi nhận số bệnh nhân bị viêm tụy hoại tử
và viêm tụy cấp tái phát.Chọn 3 mức tăng TG: > 150mg/dL, > 500mg/dL và > 1000mg/dL. Sử dụng hệ số tương
quan để đánh giá mối tương quan giữa tăng TG, uống rượu và VTC; dùng hồi qui đa biến để đánh giá vai trò
của TG và uống rượu đối với VTC.
Kết quả: Nghiên cứu có 178 bệnh nhân (n=178) gồm 120 nam (67,4%) và 58 nữ (32,6%). Tỉ lệ tăng TG
>150mg/dL: 58,9% , TG>500mg/dL: 19,1% và TG >1000mg/dl: 10,1%. Nhóm uống rượu có tăng TG nhiều hơn
so với nhóm không uống rượu (p=0,0001). Phân tích đa biến, uống rượu, đái tháo đường và BMI đều có tương
quan có ý nghĩa với TG, trong đó uống rượu tương quan nhiều nhất với TG, với hệ số tương quan
B=0,34.Nhóm TG máu > 500mg/dL có VTC tái phát nhiều hơn so với nhóm TG máu < 500mg/dL (p=0,005) và
có sự tương quan giữa TG với VTC tái phát (r=0,19 với p <0,05). Có sự tương quan giữa uống rượu với VTC
tái phát (r=0,33 với p<0,01). Với phân tích hồi qui đa biến, uống rượu có hệ số B=0,56 (p<0,001) và TG có hệ số
B=0,35 (p=0,06) đối với VTC tái phát. TG có tương quan với VTC hoại tử (r=0,24 với p < 0,01). Nhóm uống
rượu cũng có tương quan với viêm tụy hoại tử (r=0,21 với p<0,01). Với phân tích hồi qui đa biến, TG có tương
quan với viêm tụy hoại tử (hệ số tương quan B=0,17 với p=0,02), nhưng rượu tương quan không có ý nghĩa.
Kết luận: Tăng TG ở bệnh nhân VTC khá thường gặp 58,9% (nếu chọn ngưỡng TG>150mg/dL). Nguyên
nhân của VTC chủ yếu liên quan đến rượu và tăng TG. Có mối liên quan giữa tăng TG, uống rượu với VTC tái
phát và VTC hoại tử: rượu có vai trò nhiều hơn TG trong VTC tái phát, nhưng tăng TG lại có vai trò nhiều hơn
rượu trong VTC hoại tử.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của tăng Triglycerid trong viêm tụy cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 395
VAI TRÒ CỦA TĂNG TRIGLYCERID TRONG VIÊM TỤY CẤP
Huỳnh Tấn Đạt*, Nguyễn Thy Khuê*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tăng triglyceride máu (TG) rất thường gặp do nguyên nhân nguyên phát hoặc thứ phát do rượu,
đái tháo đường, dùng thuốcTăng TG máu đặc biệt mức nặng có thể là nguyên nhân của viêm tụy cấp (VTC),
trong khi đó rượu cũng có thể gây ra VTC. Cả 2 có vai trò trong cơ chế bệnh sinh của VTC.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ tăng TG ở bệnh nhân VTC và đánh giá mối liên quan giữa tăng TG
máu và uống rượu ở bệnh nhân VTC.
Thiết kế nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, khảo sát 178 bệnh nhân
bị VTC chẩn đoán dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng. Ghi nhận số bệnh nhân bị viêm tụy hoại tử
và viêm tụy cấp tái phát.Chọn 3 mức tăng TG: > 150mg/dL, > 500mg/dL và > 1000mg/dL. Sử dụng hệ số tương
quan để đánh giá mối tương quan giữa tăng TG, uống rượu và VTC; dùng hồi qui đa biến để đánh giá vai trò
của TG và uống rượu đối với VTC.
Kết quả: Nghiên cứu có 178 bệnh nhân (n=178) gồm 120 nam (67,4%) và 58 nữ (32,6%). Tỉ lệ tăng TG
>150mg/dL: 58,9% , TG>500mg/dL: 19,1% và TG >1000mg/dl: 10,1%. Nhóm uống rượu có tăng TG nhiều hơn
so với nhóm không uống rượu (p=0,0001). Phân tích đa biến, uống rượu, đái tháo đường và BMI đều có tương
quan có ý nghĩa với TG, trong đó uống rượu tương quan nhiều nhất với TG, với hệ số tương quan
B=0,34.Nhóm TG máu > 500mg/dL có VTC tái phát nhiều hơn so với nhóm TG máu < 500mg/dL (p=0,005) và
có sự tương quan giữa TG với VTC tái phát (r=0,19 với p <0,05). Có sự tương quan giữa uống rượu với VTC
tái phát (r=0,33 với p<0,01). Với phân tích hồi qui đa biến, uống rượu có hệ số B=0,56 (p<0,001) và TG có hệ số
B=0,35 (p=0,06) đối với VTC tái phát. TG có tương quan với VTC hoại tử (r=0,24 với p < 0,01). Nhóm uống
rượu cũng có tương quan với viêm tụy hoại tử (r=0,21 với p<0,01). Với phân tích hồi qui đa biến, TG có tương
quan với viêm tụy hoại tử (hệ số tương quan B=0,17 với p=0,02), nhưng rượu tương quan không có ý nghĩa.
Kết luận: Tăng TG ở bệnh nhân VTC khá thường gặp 58,9% (nếu chọn ngưỡng TG>150mg/dL). Nguyên
nhân của VTC chủ yếu liên quan đến rượu và tăng TG. Có mối liên quan giữa tăng TG, uống rượu với VTC tái
phát và VTC hoại tử: rượu có vai trò nhiều hơn TG trong VTC tái phát, nhưng tăng TG lại có vai trò nhiều hơn
rượu trong VTC hoại tử.
Từ khóa: tăng triglyceride máu, viêm tụy cấp, uống rượu, viêm tụy tái phát, viêm tụy hoại tử.
ABSTRACT
ROLE OF HYPERTRIGLYCERIDEMIA IN ACUTE PANCREATITIS
Huynh Tan Dat, Nguyen Thy Khue
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 395 - 401
Background: Hypertriglyceridemia (HTG) is common and may be primary in origin or secondary to alcohol
abuse, diabetes mellitus, use of drugsAcute pancreatitis (AP) can results from HTG, especially severe, and/or
alcohol.
Objective: To determine the prevalence of HTG in acute pancreatitis patients and to evaluate the correlation
between HTG and alcohol abuse in acute pancreatitis (AP).
Bộ Môn Nội Tiết - Đại Học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc ThS.BS. Huỳnh Tấn Đạt ĐT: 0903805435 Email: bsdat71@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa II 396
Research design and methods: With cross-sectional study, we observed 178 AP patients diagnosed by the
clinical criteria and paraclinical criteria. We recorded the cases of necrotizing pancreatitis and recuring
pancreatitis. We chose 3 cut-off levels of HTG: > 150mg/dL, > 500mg/dL and > 1000mg/dL. We used the
correlation coefficient to evaluate the correlation between HTG, alcohol abuse and AP. Multiple logistic regression
analysis was used to assess the roles of triglyceride and alcohol to AP.
Results: There were 178 AP patients (n=178) with 120 males (67.4%) and 58 females (32.6%), mean age of
male 40.9 ± 12.8 and of female 55.6 ± 18.8. Prevalence of HTG > 150mg/dL: 58.9%, TG > 500mg/dL: 19.1% and
TG > 1000mg/dl: 10.1%. Prevalence of HTG in alcohol group is significant higher than that in non-alcohol group
(p=0.0001). With multiple variable analysis, alcohol, diabetes and BMI had the significant correlation to
triglyceride, but alcohol had strongest correlation with correlation coefficient B = 0.34. The ratio of recurring
pacreatitis in patients having triglyceride> 500mg/dL was significantly higher than that in patients having
triglyceride <500mg/dL (p=0.005) and there was a significantly correlation between TG and recurring pacreatitis
(r=0.19, p<0.05). There was also the correlation between alcohol and recuring pancreatitis (r=0.33, p<0.01). With
multiple variable analysis to recuring pancreatitis, alcohol had coefficient B= 0.56 (p<0.001) and TG with B = 0.35
(p=0.06). TG had correlation to necrotizing pancreatitis (r=0.24, p < 0.01). Alcohol use had also correlation to
necrotizing pancreatitis (r = 0.21, p < 0.01). With multiple variable analysis, TG had correlation to necrotizing
pancreatitis (coefficient B=0.17, p = 0.02), but alcohol not significant correlation.
Conclusions : HTG in AP patients is common, prevalence of HTG is 58.9% if the cut-off level of TG >
150mg/dL. The common causes of AP are alcohol use and HTG. There is the correlation between HTG and
alcohol in AP patients and also in recurring pancreatitis or in necrotizing pancreatitis. The role of alcohol is
stronger than that of TG in recurring pancreatitis whereas the role of HTG is more powerful than that of alcohol
in necrotizing pancreatitis.
Keywords: hypertriglyceridemia, acute pancreatitis, alcohol use, recurring pancreatitis, necrotizing
pancreatitis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tụy cấp (VTC) là một bệnh lí cấp cứu
thường gặp, 2 nguyên nhân hàng đầu của VTC
là rượu và sỏi mật; nguyên nhân tăng
triglycerid (TG) máu ít gặp hơn nên ít được
chú ý trên lâm sàng. Trong khi đó tăng TG
máu rất thường gặp trong dân số hiện nay,
nhất là tăng TG thứ phát do tình trạng béo phì,
hội chứng chuyển hoá, bệnh đái tháo đường
típ 2, tình trạng uống rượu, ít vận độngTác
giả Toskes(15) đã ghi nhận tỉ lệ rối loạn lipid
máu trong VTC là 12-38%, trong khi đó
Yadav(16) tổng kết các nghiên cứu thấy trong
VTC do tất cả các nguyên nhân có huyết thanh
đục (tăng TG máu nặng) từ 4% đến 20%, và TG
tăng trên mức bình thường có thể lên đến 50%.
Ngoài ra rượu có thể làm tăng TG
máu(3,12,14,15,16). Như vậy người uống rượu có thể
bị VTC do rượu nhưng cũng có thể do tăng TG
góp phần trong cơ chế bệnh sinh, cả 2 phối
hợp gây nên VTC.
Ở Việt nam chưa có báo cáo về tỉ lệ tăng TG
cũng như đánh giá mối tương quan giữa rượu và
tăng TG ở bệnh nhân VTC, nên chúng tôi thực
hiện đề tài này.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỉ lệ tăng TG máu ở bệnh nhân
VTC theo các mức TG máu, đặc biệt mức tăng
TG máu nặng.
Đánh giá mối liên quan giữa tăng TG máu và
uống rượu ở bệnh nhân VTC.
Đánh giá mối liên quan giữa mức độ tăng
triglycerid với VTC hoại tử và VTC tái phát giữa
nhóm uống rượu và không uống rượu.
THIẾT KẾ - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiền cứu, khảo
sát 178 bệnh nhân bị VTC nằm điều trị ở khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 397
nội tiêu hóa và ngoại tổng quát của 2 bệnh
viện: Chợ Rẫy và Nhân dân 115 từ tháng
5/2005 đến tháng 4/2006.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận lợi, liên tục, không xác suất.
Chẩn đoán VTC dựa trên các tiêu chuẩn lâm
sàng (đau bụng, buồn nôn, nôn) và cận lâm sàng
(Amylase máu > 3 lần bình thường, amylase
niệu > 500 UI/L và/ hoặc lipase máu > 190 UI/L,
siêu âm bụng, CT scan bụng có hình ảnh của
VTC).
Ghi nhận số bệnh nhân bị viêm tụy hoại tử
(chẩn đoán bằng hình ảnh CT scan bụng
và/hoặc sau phẫu thuật) và viêm tụy cấp tái
phát (chẩn đoán bằng tiền sử số lần nhập viện
và được chẩn đoán VTC).
Bệnh nhân được thử bilan mỡ vào sáng sớm
hôm sau khi nhập viện. Chọn 3 ngưỡng tăng
TG: >150mg/dL, >500mg/dL (có nguy cơ VTC)
và >1000mg/dL (nguy cơ rất cao VTC).
Ước lượng rượu bia uống trung bình mỗi
tuần bằng số suất rượu (1 suất rượu =12g cồn),
ghi nhận thời gian bắt đầu uống đến lúc nhập
viện vì VTC trong lần nghiên cứu này.
Sử dụng hệ số tương quan Pearson đối với
biến định lượng hoặc hệ số tương quan
Spearman đối với biến định tính để đánh giá
mối tương quan giữa tăng TG, uống rượu và
VTC; dùng hồi qui đa biến để đánh giá vai trò
của TG và uống rượu đối với VTC.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Dân số nghiên cứu
Giới Nam Nữ Tổng cộng
Số người VTC 120 (67,4%) 58 (32,6%) 178
Nghiên cứu của chúng tôi có 178 bệnh nhân
(n=178), nam chiếm khoảng 2/3 số bệnh nhân
(bảng 1). Trong đó số bệnh nhân ở bệnh viện Chợ
Rẫy là 138 ca ( 67,4% nam), bệnh viện 115 có 40
ca (67,5% nam).
Bảng 2: Mô tả dân số VTC theo giới tính
Giới Nam Nữ p
Tuổi (năm) 40,9±12,8 55,6±18,8 <0,0001
BMI(kg /m²) 22,1±3,3 21,4±3,1 NS
TG(mg/dL) 458,6 ±554,1 211,8±348,7 0,002
Log TG 2,43±0,43 2,15±0,32 0,0001
CT(mg/dL) 193,1±105,5 186,9±119,2 NS
HDL(mg/dL) 35,3±16,8 37,3±5,1 NS
LDL(mg/dL) 78,0±37,8 96,9±35,8 0,005
Trung bình ± SD (độ lệch chuẩn). CT:
Cholesterol. NS: Không có ý nghĩa thống kê.
Ở nam: bệnh nhân trẻ nhất 19 tuổi và già
nhất 76 tuổi; ở nữ người trẻ nhất 20 tuổi và già
nhất 86 tuổi. Tuổi trung bình bệnh nhân nữ lớn
hơn so với bệnh nhân nam một cách có ý nghĩa.
BMI trung bình không khác nhau giữa 2 giới.
Nồng độ TG trung bình ở nam cao hơn ở nữ
có ý nghĩa thống kê (p=0,002). LDL trung bình ở
nữ cao hơn ở nam (p=0,005) và chỉ có 135 bệnh
nhân có kết quả LDL.
Bảng 3: Tỉ lệ tăng TG trong VTC
TG >150mg/dL >500mg/dL >1000mg/dL
Số bệnh nhân
(n=178)
105 ca(58,9%) 34 ca(19,1%) 18 ca(10,1%)
Tỉ lệ tăng TG trong VTC rất thường gặp, đối
với ngưỡng TG > 150mg/dl chiếm 58,9%, tỉ lệ
tăng TG nặng cũng khá cao (bảng 3).
Nguyên nhân của tăng TG nặng (> 500mg/dl
và > 1000mg/dl) chủ yếu liên quan đến rượu và
đái tháo đường (ĐTĐ)(bảng 4).
Bảng 4: Đặc điểm những bệnh nhân có TG >
500mg/dL và TG > 1000mg/dL
Liên quan tăng TG Số ca TG >
500mg/dl
(n=34)
Số ca TG >
1000mg/dL
(n=18)
Rượu 19 7
Rượu và ĐTĐ 8 7
Liên quan đến thuốc
(corticoid, estrogen)
2 2
Không rõ nguyên nhân 5 2
Sỏi đường mật, tụy 0 0
Trong nghiên cứu có 82 người uống rượu
(46,1%, n=178), chỉ gặp trong dân số nam. Nhóm
uống rượu có tăng TG (TG>150mg/dL) nhiều hơn
một cách có ý nghĩa so với nhóm không uống
rượu (bảng 5) (trình bày bằng bảng 2x2).
Bảng 5: So sánh tăng TG và uống rượu
Tăng TG Tổng
cộng
p
Không Có
Uống Có 19 63 82 0,0001
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa II 398
rượu Không 54 42 96
Tổng cộng 73 105 178
Phân tích đa biến cho thấy uống rượu, đái
tháo đường và BMI đều có tương quan có ý
nghĩa với TG, trong đó uống rượu tương quan
nhiều nhất với TG với B cao nhất =0,34 (bảng 6).
Bảng 6: Phân tích đa biến ĐTĐ, rượu và BMI (chỉ số
khối cơ thể)
Log TG B ± SE p
ĐTĐ
Uống rượu
BMI
0,31 ± 0,08
0,34 ± 0,05
0,041 ± 0,008
<0,0001
< 0,0001
< 0,0001
Trong đó B là hệ số tương quan, SE: sai lầm chuẩn.
Xét đến VTC tái phát: có 57 ca (32%, n=178)
VTC tái phát, ít nhất đã bị 1 lần, nhiều nhất là 5
lần. Nhóm TG máu >500mg/dL có VTC tái phát
nhiều hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm TG
máu <500mg/dL (p=0,005) (bảng 7) và có sự
tương quan giữa TG với VTC tái phát (r=0,19 với
p <0,05) (bảng 8). Nhóm uống rượu có tỉ lệ VTC
tái phát nhiều hơn so với nhóm không uống
rượu (46,3% so với 19,8%) (p=0,0001) và có sự
tương quan giữa uống rượu với VTC tái phát
(r=0,33 với p<0,01). Với hồi qui đa biến, uống
rượu có tương quan với VTC tái phát nhiều hơn
so với TG (B=0,56 so với B=0,35) (bảng 9).
Bảng 7: So sánh tăng TG và VTC tái phát
Tăng TG
>500mg/dL Tổng
cộng
p
Không Có
VTC tái phát Không 104 17 121
0,005 Có 38 19 57
Tổng cộng 142 36 178
Bảng 8: Tương quan TG với các biến số khác (phân
tích đơn biến)
Log TG r p
BMI 0,32 < 0,01
HDL - 0,11 NS
Uống rượu 0,42 < 0,01
VTC hoại tử 0,24 < 0,01
VTC tái phát 0,19 < 0,05
Phân tích đơn biến TG tương quan có ý nghĩa
với BMI, uống rượu, VTC hoại tử và VTC tái
phát.
Bảng 9: Phân tích hồi qui đa biến tăng TG, uống
rượu với VTC tái phát
VTC tái phát B ± SE p
Uống rượu
TG > 500mg/dL
0,56 ± 0,08
0,35 ± 0,05
< 0,0001
0,06
B là hệ số tương quan, SE: sai lầm chuẩn
Bảng 10: Phân tích hồi qui đa biến tăng TG, uống
rượu với VTC hoại tử
VTC hoại tử B ± SE p
Uống rượu
Log TG
0,09 ± 0,06
0,17 ± 0,07
NS
0,02
B là hệ số tương quan, SE: sai lầm chuẩn. NS: không
có ý nghĩa.
Xét đến viêm tụy hoại tử: có 29 ca (16,3%,
n=178). TG có tương quan có ý nghĩa với VTC
hoại tử (r=0,24 với p<0,01) (bảng 8) và nhóm tăng
TG máu bị viêm tụy hoại tử nhiều hơn nhóm
không tăng TG máu (23 ca so với 6 ca)(p=0,01).
Nhóm uống rượu cũng có tương quan với viêm
tụy hoại tử (r = 0,21 với p < 0,01) và nhóm uống
rượu bị viêm tụy hoại tử nhiều hơn so với nhóm
không uống rượu (20 ca so với 9 ca) (p=0,008).
Với phân tích hồi qui đa biến, TG có tương quan
có ý nghĩa với viêm tụy hoại tử (p=0,02), nhưng
rượu tương quan không có ý nghĩa (bảng 10).
BÀN LUẬN
Tỉ lệ tăng TG máu trong nghiên cứu của
chúng tôi là 58,9% khi chọn ngưỡng tăng TG
>150mg/dL, cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu
trong dân số chung không bị VTC có cùng tiêu
chuẩn tăng TG như trong nghiên cứu của Duc
Son(10) là 28,4% và trong nghiên cứu NHANES III
ở Mỹ là 30%(6). Có thể giải thích do trong nghiên
cứu của chúng tôi số lượng bệnh nhân uống rượu
bia nhiều nên có thể làm tăng TG, và trong
nghiên cứu cũng có tỉ lệ ĐTĐ khá cao (10,7%)
không điều trị liên tục, đường huyết không ổn
định nên có thể góp phần làm tăng tỉ lệ tăng TG.
So sánh với các nghiên cứu khác trên dân
số VTC thấy rằng với mức TG >150mg/dL
(1,7mmol/L) nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ
tăng TG cao hơn nhiều. Nghiên cứu của Jiang(9)
thực hiện ở Trung Quốc cho thấy tỉ lệ tăng TG
là 11,3%. Tác giả chia 2 nhóm: nhóm VTC có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 399
tăng TG và nhóm không tăng TG và thấy rằng
nhóm không tăng TG có nguyên nhân chủ yếu
là sỏi mật (chiếm 80,2%) và nguyên nhân do
rượu là 4,2% khác biệt có ý nghĩa so với nhóm
VTC có tăng TG (sỏi mật chiếm 28,6%, rượu
chiếm 14,3%). Như vậy nghiên cứu của chúng
tôi có tỉ lệ TG cao hơn là do dân số nghiên cứu
uống rượu nhiều và tỉ lệ sỏi mật thấp, ngược
với nguyên nhân VTC trong nghiên cứu của
Jiang. Trong nghiên cứu của Dominguez-
Munoz(4) thực hiện ở Đức, tỉ lệ tăng TG là 47%
với ngưỡng TG > 140mg/dL (1,6 mmol/L).
Trong nghiên cứu này rượu cũng là nguyên
nhân chiếm tỉ lệ nhiều nhất với 38,8%. Trong
nghiên cứu của Buch(2) thực hiện ở Đan Mạch,
tỉ lệ tăng TG trong VTC là 32,5% sử dụng
ngưỡng tăng TG > 200mg/dL. Tỉ lệ tăng TG ở 2
nghiên cứu này khá tương đồng với nghiên
cứu của chúng tôi, trong đó cũng có sự tương
đồng về nguyên nhân: rượu chiếm đa số, sỏi
mật ít hơn.
Tác giả Yadav(16) thấy rằng nồng độ TG tăng
trên mức bình thường có thể lên đến 50% bệnh
nhân bị VTC do tất cả các nguyên nhân ở các
nghiên cứu. Sự thay đổi lớn tỉ lệ tăng TG trong
các nghiên cứu được giải thích là do sử dụng tiêu
chuẩn chẩn đoán tăng TG khác nhau, dân số
nghiên cứu khác nhau, phụ thuộc nguyên nhân
gây VTC, và liên quan chặt chẽ tới thời gian lấy
máu thử TG khi khởi phát VTC.
Tăng TG >500mg/dL trong nghiên cứu chúng
tôi có tỉ lệ 19,1% (34 ca/ 178). Ở mức tăng này đã
có nguy cơ cao bị VTC, đồng thời ở mức này đều
có huyết thanh đục. Tỉ lệ này phù hợp với ghi
nhận của Yadav(16) huyết thanh của bệnh nhân
VTC có màu đục trong 4 đến 20% bệnh nhân. Tỉ
lệ của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu hồi
cứu của Đào Xuân Lãm(5) tổng kết chỉ có 2 ca tăng
TG ở mức 500-1000mg/dL trong 232 ca VTC, số
trường hợp tăng TG ít này có thể do chỉ có 1/3
trường hợp được đo TG.
Trong nghiên cứu hồi cứu của Fortson(7) thực
hiện ở 4 bệnh viện của Mỹ thì tỉ lệ VTC lúc xuất
viện có nguyên nhân do tăng TG là 1,3 % -3,8%,
sau khi tác giả loại trừ hết các nguyên nhân gây
VTC thường gặp như sỏi mật, rượu, chấn thương
và chọn ngưỡng tăng TG >500mg/dL. Trong
nghiên cứu của chúng tôi nếu chọn theo tiêu
chuẩn như nghiên cứu của Fortson thì tỉ lệ tăng
TG gây VTC là 3,9% (7 ca/178); một tỉ lệ tương tự
như nghiên cứu của Fortson.
Đối với nồng độ TG > 1000mg/dL được cho là
nguy cơ rất cao của VTC, một số nghiên cứu đã
chọn mức này xem như là nguyên nhân của VTC
nếu VTC xảy ra và không có yếu tố nguyên nhân
khác như sỏi mật, rượu, khối u và chấn thương(1,
4). Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ tăng TG ở
mức này là 10,1% (18 ca). Trong đó có 2 trường
hợp không có liên quan đến rượu và sỏi mật: 1
trường hợp tăng TG nặng có sử dụng corticoid để
điều trị hội chứng thận hư và 1 trường hợp có sử
dụng thuốc có estrogen để điều trị hội chứng
buồng trứng đa nang. 2 trường hợp tăng TG này
có thể do thuốc (sử dụng corticoid, estrogen),
cũng có thể do bệnh lí nền điều trị bằng các thuốc
này gây tăng TG (hội chứng thận hư và buồng
trứng đa nang). Nguyên nhân tăng TG nặng chủ
yếu là do rượu và ĐTĐ có đường huyết không ổn
định (bảng 4). Nếu theo tiêu chuẩn chẩn đoán
tăng TG gây VTC như các tác giả nước ngoài(1,4)
thì tăng TG nặng (> 1000mg/dL) gây VTC là 2,3%
(4/ 178 ca). So sánh với nghiên cứu của Athyros
(1) tỉ lệ tăng TG > 1.000mg/dL ở bệnh nhân VTC
là 6,9% (n=246), trong 17 ca tăng TG nặng: 8 ca
tăng TG có tính gia đình, 5 ca do ĐTĐ, do thuốc
2 trường hợp, 1 ca do tăng chylomicron gia đình
và 1 ca tăng TG do mang thai. Có sự khác biệt về
nguyên nhân của nghiên cứu chúng tôi với
nghiên cứu của Athyros, nguyên nhân chủ yếu
tăng TG nặng của chúng tôi là do rượu và ĐTĐ,
không ghi nhận tăng TG có tính gia đình, trong
khi đó trong nghiên cứu của Athyros là tăng TG
có tính gia đình và ĐTĐ. Có lẽ do dân số nghiên
cứu của chúng tôi uống rượu nhiều nên góp
phần làm cho tỉ lệ tăng TG nặng nhiều hơn
(10,1% so với 6,9% của Athyros).
Nguyên nhân gây VTC tái phát nhiều nhất
trong nghiên cứu của chúng tôi là do rượu và
tăng TG máu. Nhiều bệnh nhân bị VTC tái phát,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa II 400
nhiều nhất đến 5 lần do bệnh nhân không ngưng
uống rượu mặc dù đã bị VTC tái phát nhiều lần
và tăng TG máu không được theo dõi và điều trị.
Trong nghiên cứu của chúng tôi với hồi qui đa
biến, uống rượu có tương quan với VTC tái phát
nhiều hơn so với TG (B=0,56 so với B=0,35) (bảng
9). Athyros(1) theo dõi 17 bệnh nhân bị VTC do
tăng TG với thời gian trung bình 42 tháng, thấy
rằng tất cả bệnh nhân không bị VTC tái phát khi
thực hiện đúng chế độ ăn và dùng thuốc hạ lipid
máu liên tục, chỉ có 1 bệnh nhân bị tái phát do
không điều trị tăng lipid máu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tất cả 29
ca viêm tụy hoại tử chiếm 16,3% dân số nghiên
cứu. Kết quả tương tự với nghiên cứu của
Fortson(7), tỉ lệ viêm tụy hoại tử là 15% với cỡ mẫu
70 bệnh nhân. Dominguez-Munoz(4) thấy rằng
nhóm bệnh nhân bị VTC hoại tử có nồng độ TG
máu lúc nhập viện cao hơn so với nhóm VTC
phù nề, và tăng TG có thể có vai trò làm nặng
thêm VTC. Trong nghiên cứu của chúng tôi rượu
cũng có tương quan với viêm tụy hoại tử (r=0,21
với p <0,01) và nhóm uống rượu bị viêm tụy hoại
tử nhiều hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm
không uống rượu (p =0,008). Nếu tính trên