Vai trò giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng gây tê ngoài màng cứng phối hợp Bupivacaine 0,1% và thuốc giảm đau

Gây tê ngoài màng cứng với sự phối hợp thuốc tê Bupivacaine và thuốc giảm đau trung ương Fentanyl là phương pháp hữu hiệu dùng để giảm đau trong trong chuyển da. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ các thủ thuật can thiệp y khoa khác, phương pháp này còn tồn tại các tai biến, biến chứng và nhất là những bàn cải về vấn đề sử dụng nồng độ thuốc sao cho thấp nhất, hợp lý nhất mà vẫn đạt được hiệu quả mong muốn. Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. 102 sản phụ vào giai đoạn chuyển dạ hoạt động và được chia làm 2 nhóm. Nhóm 1, các sản phụ được gây tê ngoài màng cứng để giảm đau với Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 1mcg/ml. Nhóm 2, các sản phụ được gây tê ngoài màng cứng để giảm đau với Bupivacaine 0,125% và Fentanyl 1mcg/ml. Tình trạng sức khỏe của thai nhi và sản phụ được theo dõi liên tục trước, trong và sau khi tiêm thuốc giảm đau. Kết quả: Các chỉ số đặc điểm chung, thông số về kỹ thuật và tai biến biến chứng không khác nhau giữa 2 nhóm nghiên cứu. Chỉ số Apgar thời điểm 1 phút nhỏ hơn 7 (p< 0,05), chỉ số SpO2 giảm có ý nghĩa (nhỏ hơn 90%) trong 20 phút đầu sau sanh (P= 0,001) ở cả 2 nhóm, sau đó dần trở về trị số bình thường. Tỷ lệ trẻ sơ sinh tím da sau sanh trong 2 nhóm tăng có ý nghĩa. Kết luận: Giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng với sự phối hợp Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 1mcg/ml an toàn và hiệu quả. Để giảm bớt những bất lợi của phương pháp cần có sự phối hợp chặt chẻ với các nhà sản khoa, chọn lựa phương pháp tốt nhất trên cơ sở giục sanh đúng thời điểm, theo dõi sát nhịp tim thai và đặc biệt là can thiệp đúng lúc.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò giảm đau trong chuyển dạ đẻ bằng gây tê ngoài màng cứng phối hợp Bupivacaine 0,1% và thuốc giảm đau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 397 VAI TRÒ GIẢM ĐAU TRONG CHUYỂN DẠ ĐẺ BẰNG GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP BUPIVACAINE 0,1% VÀ THUỐC GIẢM ĐAU Nguyễn Văn Chinh*, Nguyễn Văn Chừng* TÓM TẮT Gây tê ngoài màng cứng với sự phối hợp thuốc tê Bupivacaine và thuốc giảm đau trung ương Fentanyl là phương pháp hữu hiệu dùng để giảm đau trong trong chuyển da. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ các thủ thuật can thiệp y khoa khác, phương pháp này còn tồn tại các tai biến, biến chứng và nhất là những bàn cải về vấn đề sử dụng nồng độ thuốc sao cho thấp nhất, hợp lý nhất mà vẫn đạt được hiệu quả mong muốn. Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. 102 sản phụ vào giai đoạn chuyển dạ hoạt động và được chia làm 2 nhóm. Nhóm 1, các sản phụ được gây tê ngoài màng cứng để giảm đau với Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 1mcg/ml. Nhóm 2, các sản phụ được gây tê ngoài màng cứng để giảm đau với Bupivacaine 0,125% và Fentanyl 1mcg/ml. Tình trạng sức khỏe của thai nhi và sản phụ được theo dõi liên tục trước, trong và sau khi tiêm thuốc giảm đau. Kết quả: Các chỉ số đặc điểm chung, thông số về kỹ thuật và tai biến biến chứng không khác nhau giữa 2 nhóm nghiên cứu. Chỉ số Apgar thời điểm 1 phút nhỏ hơn 7 (p< 0,05), chỉ số SpO2 giảm có ý nghĩa (nhỏ hơn 90%) trong 20 phút đầu sau sanh (P= 0,001) ở cả 2 nhóm, sau đó dần trở về trị số bình thường. Tỷ lệ trẻ sơ sinh tím da sau sanh trong 2 nhóm tăng có ý nghĩa. Kết luận: Giảm đau trong chuyển dạ bằng gây tê ngoài màng cứng với sự phối hợp Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 1mcg/ml an toàn và hiệu quả. Để giảm bớt những bất lợi của phương pháp cần có sự phối hợp chặt chẻ với các nhà sản khoa, chọn lựa phương pháp tốt nhất trên cơ sở giục sanh đúng thời điểm, theo dõi sát nhịp tim thai và đặc biệt là can thiệp đúng lúc. Từ khóa: Giảm đau trong chuyển dạ, gây tê ngoài màng cứng, giảm đau ngoài màng cứng, trẻ sơ sinh, các giai đoạn trong quá trình chuyển dạ, nhịp thở, nhịp tim thai. ABSTRACT THE ROLE OF PAIN RELIEF IN LABOR BY THE COMBINED OF BUPIVACAINE 0.1% AND FENTANYL IN EPIDURAL ANESTHESIA Nguyen Van Chinh, Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 397 - 403 Background: Epidural anesthesia by Bupivacaine and Fentanyl combined is an efficient way of the labor analgesia but many still question the need for pain relief during labor and delivery. This study is performed to look for the effects of epidural analgesia with Bupivacaine 0.1% and Fentanyl during labor and delivery. Methods: Prospective study, randomized controlled clinical trial. 102 pregnant women in labor stages were randomically divided into 2 groups. The first group have undergone an epidural analgesia with Bupivacaine 0.1% and Fentanyl 1mcg/ml. The second group have undergone an epidural analgesia with Bupivacaine 0.1% and Fentanyl 1mcg/ml. Health status of the neonates and pregnants were monitored right before and after analgesic injection. Results: 2 group: Fetal heart rate decreased significantly within first 20 minutes after analgesic injection. Apgar score less than 7 at 1 minute (p< 0.05), SpO2 decreased significantly (less than 90%) within first 20 * Đại học Y Dược TP.HCM Địa chỉ liên hệ : ThS Nguyễn Văn Chinh ĐT: 0903885497 Email: chinhnghiem2006@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 398 minutes after delivered (P= 0.001) and returned gradually at the baseline level. The proportion of purle skin appearance of neonates of 2 group increased significantly. Conclusions: Pain relief in labor by epidural anesthesia with Bupivacaine 0.1% and Fentanyl 1mcg/ml is safe and effective. To decrease the disadavantages of the epidural anesthesia in the labor, we must collaborate with the obstetricians about the best methods on the basis of performing the stimulation at the approriate time, monitoring of fetal heard rates and specially the intervention must be carried down at time . Keywords: Labor Analgesia, Epidural Anesthesia, Epidural Analgesia, Neonates, Labor Stages, Resspiratory Rate, Fetal Heart Rate. ĐẶT VẤN ĐỀ Đau đớn là cảm giác khó chịu đáp ứng lại một sự tấn công từ bên ngoài hay bên trong cơ thể có thể gây tổn thương trên mô. Đau là vấn đề ám ảnh bệnh nhân và thầy thuốc khi tiến hành các bước điều trị. Đau luôn được các thầy thuốc quan tâm vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lý của bệnh nhân và nhất là phục hồi chức năng các cơ quan. Đau khi sanh hay đau trong chuyển dạ cũng vậy, không phải hiển nhiên mà dân gian ta có câu: “mang nặng, đẻ đau”. Cơn đau có thể làm cho cuộc chuyển dạ trở nên khó khăn, phức tạp hơn, nhất là trong trường hợp sản phụ có các bệnh lý kèm theo như tim mạch, hô hấp, nội tiết...và đã có không ít những phụ nữ phải đánh đổi bằng chính tính mạng của mình trong những lần “vượt cạn” để thực hiện thiên chức lớn nhất của đời mình(4,10). Áp dụng gây tê ngoài màng cứng (GTNMC)để giảm đau chuyển dạ cũng đã có từ hơn 50 năm về trước. Năm 1956, Hingson đã có những công trình có hệ thống đầu tiên về các phương pháp giảm đau chuyển dạ. Năm 1972, Bonica đã viết “Principles And Practice Of Obstetric Anesthesia And Analgesia”(2). Kể từ đó các quan điểm về giảm đau trong chuyển dạ đã được củng cố vững chắc dựa trên tác dụng của thuốc tê và quá trình chuyển dạ. Hiện nay, phương pháp giảm đau trong chuyển dạ được áp dụng rộng rãi nhất là GTNMC với sự phối hợp giữa thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương vì đã cho thấy những ưu điểm, thuận lợi rõ rệt như cải thiện chất lượng giảm đau, giảm bớt được liều lượng sử dụng của cả hai nhóm thuốc, giảm tai biến ngộ độc thuốc, duy trì nồng độ thuốc ổn định, giảm tải công việc người làm công tác sản khoa(1,5) Tuy nhiên, cũng như bất kỳ các thủ thuật can thiệp y khoa khác, phương pháp này còn tồn tại các tai biến, biến chứng và nhất là những bàn cải về vấn đề sử dụng nồng độ thuốc sao cho thấp nhất, hợp lý nhất mà vẫn đạt được hiệu quả mong muốn. Chính vì những lý do đó, chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá, so sánh các nồng độ thuốc hiện đang sử dụng để chọn lựa sự phối hợp tốt hơn giữa thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương dùng bằng đường ngoài màng cứng phổ biến hiện nay trong lĩnh vực giảm đau trong chuyển dạ. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá vai trò giảm đau trong chuyển dạ bằng GTNMC với sự phối hợp thuốc tê Bupivacaine 0,1% và thuốc giảm đau trung ương. Xác định tỉ lệ các tai biến, biến chứng trên sản phụ và thai nhi của phương pháp giảm đau trong chuyển dạ bằng GTNMC với sự phối hợp thuốc tê Bupivacaine 0,1% và thuốc giảm đau trung ương. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiền cứu, can thiệp lâm sàng có nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu Là những sản phụ (SP) đến sanh tại Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương và bệnh viện Quận Thủ Đức thời gian từ 04/2009 đến 10/2010. Kỹ thuật chọn mẫu Tiêu chuẩn nhận SP có khả năng sanh được ngã âm đạo. SP có yêu cầu được làm giảm đau chuyển dạ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 399 Tiêu chuẩn loại SP đang nhiễm trùng toàn thân, tình trạng sốc, hay thiếu khối lượng tuần hoàn. Không thực hiện chọc dò NMC được. Có chống chỉ định GTNMC: - Tiền sử dị ứng thuốc tê hoặc thuốc họ Morphin. - Có dị dạng, bệnh lý cột sống. - Rối loạn đông máu. - Nhiễm trùng tại chỗ chọc kim. - Có bệnh của hệ thần kinh trung ương, tăng áp lực nội sọ. Sa dây rốn. Sản giật, tiền sản giật nặng. Thai suy cấp. Nhau tiền đạo. SP không giao tiếp được. Phương tiện và trang thiết bị Phương tiện theo dõi và hồi sức: nguồn dưỡng khí, ống nghe tim phổi, máy đo HA động mạch, nhiệt độ, kim luồn 20G, 18G Máy đo độ bão hòa oxy (pulse oximeter), máy monitor theo dõi tim thai và cơn gò Dụng cụ: bộ GTNMC, hộp đựng dụng cụ gây tê đã vô khuẩn, bơm tiêm điện liên tục, găng tay vô trùng. Thuốc và dịch truyền: Lidocaine 2% 2ml, Bupivacain (Marcain) 0,5%, 20ml; Fentanyl 100 mcg (2ml). Thuốc sát trùng, cấp cứu, dịch truyền: Phương thức tiến hành Chọn bệnh theo yêu cầu tiêu chuẩn nhận và tiêu chuẩn loại. Hội chẩn sản khoa về khả năng sanh đường dưới, những bất thường trong cuộc sanh, thời điểm GTNMC để giảm đau là chuyển dạ giai đoạn hoạt động. 102 sản phụ chọn ngẫu nhiên được áp dụng kỹ thuật giảm đau trong chuyển dạ bằng GTNMC với thuốc tê là Bupivacain (Marcain) phối hợp với thuốc giảm đau trung ương là Fentanyl.và chia thành 2 nhóm: Nhóm 1: Bupivacaine 0,1% and Fentanyl 1mcg/ml. Nhóm 2: Bupivacaine 0,125% and Fentanyl 1mcg/ml. Giải thích cho SP ký phiếu yêu cầu được làm giảm đau chuyển dạ. Thăm khám, giải thích và chuẩn bị bệnh nhân như một cuộc gây mê bình thường: thăm khám tiền mê, đặc biệt vùng lưng, cột sống, các chức năng vận động kiểm tra các xét nghiệm thường qui, các yếu tố đông máu, điện tâm đồ Đánh giá, phân loại nguy cơ theo ASA, kiểm tra những chỉ định và chống chỉ định của GTNMC. Thực hiện phương pháp GTNMC cho các SP của 2 nhóm. Sau khi GTNMC, các sản phụ được theo dõi liên tục dấu sinh tồn: mạch, huyết áp tại các thời điểm: trước GTNMC, sau GTNMC 5 phút, 10 phút, 15 phút, 20 phút, 25 phút, 30 phút, 60 phút và > 1 giờ. Trong và sau khi sanh, tất cả 100 trẻ sơ sinh được theo dõi chặt chẻ, nhất là trong 30 phút đầu tiên, bao gồm: chỉ số Apgar, màu da, nhịp thở, nhịp tim, SpO2ứng với từng thời điểm 1 phút (T1), 5 phút (T5), 10 phút (T10), 15 phút (T15), 20 phút (T20), 25 phút (T25), 30 phút (T30). Ngoài ra, còn theo dõi các thong số khác như: cách sanh, chiều cao, cân nặng,... Thu thập và xử lý số liệu Tất cả các số liệu đều được ghi lại trong phiếu theo dõi nghiên cứu và nhập vào máy vi tính để phân tích và xử lý số liệu. Quản lý và xử lý tất cả các số liệu theo chương trình SPSS 13.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ 04/2009 đến 10/2010 tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương và bệnh viện Quận Thủ Đức TPHCM, chúng tôi đã tiến hành theo dõi 102 trường hợp thuộc nhóm 1 và nhóm 2. Kết quả thu thập và phân tích như sau: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 400 Đặc điểm chung Bảng 1: Nhóm Thông số NHÓM 1 (%) NHÓM 2 (%) Tuổi 26,8±2,5 26,2±3,3 Cân nặng (kg) 55,6±3,8 54,7±4,1 Chiều cao (cm) 154,6±13,8 152,5±12,7 So 29 (56,9%) 31 (60,8%) Con Rạ 22 (43,1%) 20 (39,2%) Trai 28 (54,9%) 24 (47,1%) Giới tính con Gái 23 (45,1%) 27 (52,9%) < 2,5 1 (1,9%) 2 (3,9%) 2,5-3.5 41 (80,5%) 42 (82,4%) Cân nặng con(kg) >3,5 9 (17,6%) 7 (13,7%) Sanh thường 46 (90,2) 44 (86,3) Sanh dụng cụ 2 (3,9) 3 (5,9) Cách sanh Sanh mổ 3 (5,9) 4 (7,8) N 51 51 Đặc điểm về kỹ thuật – tai biến biến chứng Đặc điểm về kỹ thuật Bảng 2: Thông số NHÓM 1 (%) NHÓM 2 (%) Thời gian làm tê NMC (phút) 15,14 ± 1,12 16,41 ± 0,49 Thời gian lưu catheter (giờ) 3,48 ± 0,77 4,27 ± 0,82 Đường giữa 38 (74,5) 32 (62,7) Đường chích Đường bên 13 (25,5) 19 (37,3) Tốt 30 (58,8) 34 (66,6) Khá 15 (29,4) 13 (25,5) Trung bình 5 (9,8) 4 (7,9) Hiệu quả giảm đau trong cuộc sanh Kém 1 (2,0) 0 (0,0) Bên trái 5 (9,8) 2 (3,9) Bên phải 2 (3,9) 3 (5,9) Hai bên 43 (84,3) 46 (90,2) Vùng mất cảm giác đau Không 1 (2,0) 0 (0,0) N 51 (100%) 51 (100%) Thang điểm đau (VAS) Bảng 3: Thang điểm đau 0 – 1 >1 – 3 >3 – 5 >5 - 8 >8 - 10 NHÓM 1 (%) 13(25,5) 21(41,5) 12(23,5) 4(7,8) 1(2,0) NHÓM 2 (%) 15(29,4) 20(39,2) 14(27,5) 2(3,9) 0(0,0) P < 0,05 ⇒ có sự khác biệt thống kê giữa các điểm đau ở 2 nhóm. Phong bế vận động: đánh giá theo thang điểm Bromage Bảng 4: Phong bế vận động Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3 NHÓM 1 (%) 41(80,4) 8(15,7) 2(3,9) 0(0,0) NHÓM 2 (%) 38(74,5) 9(17,6) 3(5,9) 1(2,0) Tai biến biến chứng Bảng 5: Biến chứng NHÓM 1 (%) NHÓM 2 (%) Tụt HA 1(2,0) 2(3,9) Lạnh run 2(3,9) 3(5,9) Buồn nôn - nôn 1(2,0) 2(3,9) Đau đầu 2(3,9) 1(2,0) Đau lưng 3(5,9) 6(11,8) Rối loạn BQ 1(2,0) 5(9,8) Đặc điểm về sức khỏe Mẹ và Con Thay đổi sinh hiệu của Mẹ trước và sau bơm thuốc Bảng 6: Mạch Huyết áp trung bình Thông số trên Mẹ Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 1 Nhóm 2 Trước bơm thuốc 83,5 ± 7,4 81,7 ± 6,2 92,1 ± 11,4 92,1 ± 9,5 Sau 5 phút 91,8 ± 10,5 89,2 ± 9,4 87,9 ± 10,8 87,9 ± 10,3 Sau 10 phút 91,5 ± 10,3 90,5 ± 10,7 85,7 ± 9,8 87,6 ± 8,5 Sau 15 phút 87,8 ± 9,9 89,3 ± 8,7 90,3± 8,4 91,5± 8,1 Sau 20 phút 88,6 ± 8,2 86,6 ± 9,1 87,5 ± 7,6 86,8 ± 8,6 Sau 25 phút 87,7 ± 7,8 82,7 ± 7,9 86,4 ± 6,7 83,6 ± 7,9 Sau 30 phút 86,9 ± 8,4 85,8 ± 8,1 88,7 ± 7,9 87,7 ± 8,2 Sau 1 giờ 83,5 ± 7,4 82,9 ± 7,8 85,6 ± 7,6 88,2 ± 7,2 > 1 giờ 82,8 ± 7,3 80,3 ± 6,5 89,2 ± 8,7 87,6 ± 8,4 P value > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 Đặc điểm các thông số trên trẻ sơ sinh tại thời điểm mới sanh Bảng 7: Nhóm Thông số NHÓM 1 (%) NHÓM 2 (%) < 30 3 (5,9) 2 (3,9) 30-50 48 (94,1) 48 (94,1) Nhịp thở > 50 0 1 (2,0) < 120 4 (7,8) 2 (3,9) 120-160 47 (92,2) 48 (94,1) Nhịp tim > 160 0 1 (2,0) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 401 Hồng 48 (94,1) 46 (90,2) Màu da Tím 3 (5,9) 5 (9,8) Có 3(5,9) 5 (9,8) Hồi sức Sau sanh Không 48(94,1) 46(90,2) Thay đổi chỉ số Apgar Bảng 8: Nhóm Apgar NHÓM 1 (%) NHÓM 2 (%) P value < 7 4 (7,8%) 5 (9,8%) T1 ≥ 7 47 (92,2%) 46 (90,2%) < 0,05 < 7 0 1 (2,0) T5 ≥ 7 51 50 (98,0%) > 0,05 Thay đổi SpO2 Bảng 9: Nhóm Thời điểm NHÓM 1 n (%) NHÓM 2 n (%) P value < 90 39 (76,5) 45 (89,3) T5 ≥ 90 12 (23,5) 6 (11,7) 0,001 < 90 29 (56,9) 30 (58,8) T10 ≥ 90 22 (43,1) 21 (41,2) 0,001 < 90 24 (47,1) 25 (49,1) T15 ≥ 90 27 (52,9) 26 (50,9) 0,001 < 90 7 (13,7) 11 (21,6) T20 ≥ 90 44 (86,3) 40 (78,4) 0,001 < 90 2 (3,9) 3 (5,9) T25 ≥ 90 49 (96,1) 48 (94,1) > 0,05 < 90 1 (2,0) 1 (2,0) T30 ≥ 90 50 (98,0) 50 (98,0) > 0,05 NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm chung: (bảng 1) Đa số các SP thuộc 2 nhóm đều nằm trong tuổi sanh đẻ, chiếm gần 90% từ 20 – 40 tuổi, tuổi trung bình: 26,3 tuổi ± 2,4 tuổi. Tuổi thấp nhất là 17 tuổi, tuổi cao nhất là 39 tuổi. Theo y văn, liều lượng thuốc tê có ảnh hưởng đến tuổi bệnh nhân nhưng thường là GTNMC toàn phần. Mặc khác, thuốc tê được hấp thu một phần qua tuần hoàn máu ngay sau khi tiêm vào và phần còn lại hấp thu chậm hơn. Thuốc tê khuếch tán xuyên qua màng não đến dịch não tủy và tủy sống. Ơ người trẻ, thuốc tê có thể thấm qua các lỗ cạnh đốt sống làm tăng tác dụng của thuốc tê(8). Cân nặng SP phù hợp với thể tạng SP người Việt Nam, chiếm 90% cân nặng từ 50 đến 70kg. Cân nặng trung bình 2 nhóm lần lượt: 55,6 ± 3,8 kg và 54,7 ± 4,1kg, cao nhất 80kg, thấp nhất 41kg. Chúng tôi nhận thấy ở các SP béo phì, không chỉ là những nguy cơ chọc dò khó khăn mà còn những vấn đề hô hấp, tuần hoàn và bệnh lý đi kèm ở người mẹ sẽ ảnh hưởng nhiều đến con. Chiều cao chiếm đa số là 150 – 160 cm, cao nhất 165 cm, thấp nhất 140 cm. Chiều cao trung bình 2 nhóm lần lượt: 154,6 ± 13,8 cm và 152,5 ± 12,7 cm. Yếu tố chiều cao chỉ ảnh hưởng khiêm tốn đến mức lan rộng của thuốc tê và trong việc tính liều lượng thuốc tê trong GTNMC. Tỷ lệ sanh con so và con rạ gần tương đương nhau ở 2 nhóm nhưng nhóm sản phụ sanh con so chiếm tỷ lệ cao hơn. Với những SP sanh con so, do quá trình chuyển dạ lâu hơn, cảm giác đau nhiều hơn. Hơn nữa tâm lý không ổn định: lo lắng, mệt mỏi, chuyển dạ kéo dài, và nhiều những yếu tố khác làm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dạ. Có lẽ vì thế mà nhiều sản phụ sanh con so yêu cầu được làm giảm đau hơn .Mặc khác, phương pháp giảm đau này hiện nay khá phổ biến trong cộng đồng nên được nhiều người biết đến nhất là sản phụ sanh con đầu lòng. Cân nặng của trẻ trung bình 2 nhóm: 3,06 kg ± 0,18 kg, trẻ nặng nhất 4,2 kg gặp SP bị bệnh tiểu đường, trẻ nhẹ nhất 2,4 kg. Hơn nữa, với những SP sanh con > 4 kg thì nhiều nguy cơ có bệnh tiểu đường đi kèm và như vậy kéo theo một loạt các nguy cơ khác từ bệnh lý này. Cách sanh và cân nặng trẻ sơ sinh không khác nhau giữa 2 nhóm. Các cách sanh thường, sanh mổ và sanh dụng cụ khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê. Đặc điểm về kỹ thuật – tai biến biến chứng Thời gian làm thủ thuật trung bình: 15,48 phút ± 0,73 phút, cao nhất là 30 phút, thấp nhất là 10 phút. Trên thực tế, đối với những người có kinh nghiệm GTNMC thì thời gian tiến hành thủ thuật chỉ cần 5 phút hay chỉ cần đâm kim 1 lần là thành công. Thời gian lưu catheter trung bình: 4,17 giờ ± 0,52 giờ, cao nhất là 7 giờ, thấp nhất là 1,5 giờ. Đối với các SP sanh con rạ thì thời gian chuyển dạ sanh ngắn hơn và như vậy quá trình lưu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 402 catheter cũng ngắn hơn, trong khi những SP sanh con so thì ngược lại, do quá trình chuyển dạ thường kéo dài nên kéo theo thời gian lưu catheter lâu hơn. Hơn nữa, thời điểm mà chúng tôi tiến hành GTNMC để giảm đau cho tất cả các SP là khi chuyển dạ vào giai đoạn hoạt động, nghĩa là CTC mở ≥ 4 cm. Do đó so với các tác giả khác, thời gian lưu catheter trong nghiên cứu này tương đối ngắn hơn. Tôi tiến hành rút catheter ngay khi sanh xong hoặc khi may TSM xong (nếu có cắt TSM). Trong TH SP có chỉ định mổ lấy thai, thông qua catheter NMC, tôi sẽ tiến hành GTNMC toàn phần để mổ bắt con và bơm thuốc liên tục để giảm đau sau mổ. Hiệu quả khác trong cuộc sanh được đánh giá bao gồm những yếu tố: cảm giác mắc rặn, hiệu quả lúc sổ thai như mức độ giãn nỡ TSM hay mức độ đau khi may TSM. Kết quả cho thấy các chỉ số thay đổi không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm và GTNMC không ảnh hưởng đến cảm giác mắc rặn của SP. Đặc biệt là ở những SP có cắt TSM thì sau sổ thai, khi may lại TSM thì SP không đau 100%, đây chính là ưu thế của GTNMC liên tục vì qua catheter NMC sẽ tiếp tục giảm đau cho các thủ thuật thực hiện sau đó như sanh dụng cụ, may TSM, bóc nhau, kiểm tra tử cung,..và ngay cả giảm đau sau sanh mổ. - Trong nghiên cứu ghi nhận được tỉ lệ mất cảm giác đau hai bên là 84 - 90% ở cả 2 nhóm, chỉ có tỷ lệ nhỏ giảm đau 1 bên. Sự không đối xứng này liên quan đến sự khuếch tán không tốt của thuốc tê, vị trí catheter trong khoang NMC hoặc có thể chọc dò chưa đúng. Tuy nhiên các tỉ lệ giảm đau một bên thấp và không phải là bên còn lại hoàn toàn bình thường, cũng có giảm đau nhưng không đạt hiệu quả mong muốn. Điều này cũng phù hợp theo các nghiên cứu khác(3, 6). Ngoài ra, các biến số về thang điểm đau và mức độ phong bế vận động cũng không khác nhau giữa 2 nhóm. So sánh các tai biến biến chứng trong 2 nhóm, chúng tôi ghi nhận các tai biến biến chứng chiếm tỷ lệ thấp và không khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu, không ghi nhận những tai biến nặng hay đe dọa sự an toàn cho sản phụ và thai nhi. Trong đó, trong nhóm 1 có 1(2,0%) TH tụt HA, 2 (3,9%) TH lạnh run, 1(2,0%) TH buồn nôn, nôn, 2(3,9%)TH đau đầu, 3(5,9%) TH đau lưng và 1(2,0%) TH có rối loạn đi tiểu. Tỷ lệ tai biến trong nhóm 2 có 2(3,9%) TH tụt HA, 3 (5,9%) TH lạnh run, 2(3,9%) TH buồn nôn, nôn, 1(2,0%)TH đau đầu, 6(11,8%) TH đau lưng và 5(9,8%) TH có rối loạn đi tiểu. Đặc điểm về sức khỏe Mẹ và Con Sau khi tiến hành xong gây tê ngoài màng cứng, luồn và cố định catheter, bơm thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương, chúng tôi theo dõi sát các yếu tố cần khảo sát ở cả 2 nhóm (bảng 6), nhận thấy: Sinh hiệu sản phụ bao gồm: mạch, huyết áp (HA) thay đổi không có ý nghĩa thống kê, có một số trường hợp có tụt huyết áp nhưng rất ít và thường có cảm giác khó chịu, nôn và ói kèm theo hoặc xảy ra
Tài liệu liên quan