Đặt vấn đề: Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh hiệu quả của phương pháp thuyên tắc
động mạch trong điều trị bảo tồn các tạng đặc trong chấn thương bụng kín. Hiện nay, Hiệp hội kiểm soát chấn
thương Hoa Kỳ đã công nhận thuyên tắc động mạch là một lựa chọn điều trị.
Mục tiêu: 1. Đánh giá tính hiệu quả của phương pháp tắc mạch trong vỡ tạng đặc chấn thương bụng kín.
2. Đưa vào phác đồ điều trị bảo tồn gan ứng dụng trong bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp: Nghiên cứu lâm sàng, tiền cứu, không đối chứng. Đánh giá tính hiệu quả bằng cách so sánh
lượng dịch bù trước và sau can thiệp, chỉ số sốc trước và sau khi can thiệp, và tổng số ngày điều trị.
Kết quả: Trong tổng số 09 trường hợp điều trị, 08 trường hợp thành công và cải thiện rõ rệt các thông số
liên quan đến sốc và lượng dịch bù trước và sau. Bảo tồn thành công 08 trong số 09 trường hợp vỡ gan và lách
do chấn thương bụng kín.
Kết luận: Phương pháp tắc mạch trong vỡ tạng đặc do chấn thương bụng kín cho thấy tính hiệu quả và khả
thi trong việc ứng dụng kỷ thuật mới. Ứng dụng phương pháp này trong phác đồ điều trị có thể mang lại kết
quả khả quan cho các bệnh nhân trong việc bảo tồn các tạng đặc trong chấn thương bụng kín
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò tắc mạch trong vỡ tạng đặc do chấn thương bụng kín, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 237
VAI TRÒ TẮC MẠCH TRONG VỠ TẠNG ĐẶC
DO CHẤN THƯƠNG BỤNG KÍN
Nguyễn Đình Luân*, Nguyễn Anh Dũng*, Trần Minh Hiền*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh hiệu quả của phương pháp thuyên tắc
động mạch trong điều trị bảo tồn các tạng đặc trong chấn thương bụng kín. Hiện nay, Hiệp hội kiểm soát chấn
thương Hoa Kỳ đã công nhận thuyên tắc động mạch là một lựa chọn điều trị.
Mục tiêu: 1. Đánh giá tính hiệu quả của phương pháp tắc mạch trong vỡ tạng đặc chấn thương bụng kín.
2. Đưa vào phác đồ điều trị bảo tồn gan ứng dụng trong bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp: Nghiên cứu lâm sàng, tiền cứu, không đối chứng. Đánh giá tính hiệu quả bằng cách so sánh
lượng dịch bù trước và sau can thiệp, chỉ số sốc trước và sau khi can thiệp, và tổng số ngày điều trị.
Kết quả: Trong tổng số 09 trường hợp điều trị, 08 trường hợp thành công và cải thiện rõ rệt các thông số
liên quan đến sốc và lượng dịch bù trước và sau. Bảo tồn thành công 08 trong số 09 trường hợp vỡ gan và lách
do chấn thương bụng kín.
Kết luận: Phương pháp tắc mạch trong vỡ tạng đặc do chấn thương bụng kín cho thấy tính hiệu quả và khả
thi trong việc ứng dụng kỷ thuật mới. Ứng dụng phương pháp này trong phác đồ điều trị có thể mang lại kết
quả khả quan cho các bệnh nhân trong việc bảo tồn các tạng đặc trong chấn thương bụng kín.
Từ Khóa: Thuyên tắc động mạch, chấn thương bụng kín.
ABSTRACT
ROLE OF TRANSCATHETER ARTERIAL EMBOLIZATION (TAE)
IN SOLID ORGAN RUPTURE CAUSED BY BLUNT ABDOMINAL INJURY
Nguyen Dinh Luan, Nguyen Anh Dung, Tran Minh Hien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 236 ‐ 243
Background: According to published papers, Transcatheter Arterial Embolization is effective in
conservative treatment in solid organ rupture caused by blunt abdominal trauma. TAE is now a therapeutic
option which is approved by AAST (American Association for Surgeon of Trauma).
Objective: 1. Estimate the effectiveness of TAE in ruptured solid organ due to blunt abdominal trauma. 2.
Therapeutic algorithm of AAST related to TAE is carefully inserted in our standard clinical practiced.
Method: It is clinical trial, prospective, non randomized. We evaluate the effectiveness by comparaision of
fluid volume and shock index pre and post intervention.
Result: We totally collected nine cases which appropriate for TAE and controversy treatment. Of nine cases,
eight have been successfully treated by endovascular hemostasis. They all have been conservative and avoid open
surgery or splenotomy. All successful cases were critically reduced fluid and blood infusion.
Conclusion: TAE in blunt abdominal trauma is shown effective and proved to increase successfulness of
conservative treatment. Application of this technique may help patient to save their life, abdominal solid organ
and also avoid open surgery.
Keyword: Transcatheter arterial embolization, Blunt abdominal injury.
* Đơn vị can thiệp mạch máu – Bệnh viện Nhân Dân Gia Đinh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Đình Luân ĐT: 0944222672 Email: drluannguyen@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 238
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương bụng kín là một cấp cứu ngoại
khoa, việc chẩn đoán sớm và điều trị sớm giúp
cải thiện tỷ lệ sống còn của bệnh nhân. Ngày
nay, việc phát triển các kĩ thuật chẩn đoán giúp
phát hiện nhanh, chính xác các tổn thương, giúp
các nhà lâm sàng cải thiện tỷ lệ tử vong của
nhóm bệnh lý. Ngày nay, nguyên nhân chấn
thương bụng kín được thống kê chủ yếu là tai
nạn lưu thông, ngoài ra, còn do tai nạn lao động
hoặc đả thương.
Các cơ quan trong ổ bụng thường bị tổn
thương sau chấn thương bụng là các tạng đặc
như: gan, lách. Ngoài ra, các tạng đặc sau phúc
mạc như tụy thận cũng gặp với tỷ lệ ít hơn nhất
là sau những chấn thương nặng. Theo y văn thế
giới, tỷ lệ vỡ gan trong chấn thương bụng kín
thay đổi vào khoảng 1% đến 8%(5), cao nhất
trong chấn thương bụng. Cơ quan xếp thứ hai
sau gan thường vỡ khi chấn thương bụng kín là
lách. Trong một số nghiên cứu trên MSCT, tỷ lệ
vỡ lách khoảng 4% so với 14% đối với gan(24,7).
Theo tài liệu của các tác giả Việt nam, thống kê
trong hai năm 2001 và 2002, bệnh viện Chợ rẫy
có 267 trường hợp chấn thương bụng kín, trong
đó vỡ gan chỉ chiếm 55 các trường hợp (30%),
trong khi vỡ lách chiếm đến 112 trường hợp
(67%)(4).
Trước đây, điều trị chấn thương bụng kín
chủ yếu là phẫu thuật mở bụng, tuy nhiên việc
điều trị bằng phẫu thuật có tỷ lệ tử vong và tỷ
lệ biến chứng khá cao(9,3,6,19). Điều trị chấn
thương bụng kín bằng kĩ thuật tắc mạch
(Transarterial embolization‐TAE) đã được áp
dụng đầu tiên trong chấn thương vỡ lách vào
năm 1981(1). Kể từ đó đến nay, nhiều báo cáo
cho thấy tính hiệu quả và an toàn của TAE
trong điều trị chấn thương bụng kín có tổn
thương tạng đặc gây xuất huyết(11,10,23). Gần đây
nhất, Hiệp hội phẫu thuật chấn thương Hoa kỳ
ACST đã đưa phương pháp TAE vào trong
phác đồ điều trị cầm máu trong chấn thương
bụng kín có tổn thương tạng đặc. Ngoài ra,
một số nghiên cứu cho thấy điều trị thuyên tắc
mạch trong chấn thương lách giúp duy trì sự
ổn định cơ chế miễn dịch và lượng tiểu cầu,
đây là một trong những lý do thuyết phục
khẳng định việc điều trị bảo tồn lách là cần
thiết.
Tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, chúng tôi
ứng dụng phương pháp cầm máu tắc mạch từ
tháng 01/2012, đến nay chúng tôi có được 9
trường hợp điều trị bằng phương pháp TAE
trong chấn thương bụng kín. Chúng tôi thống kê
và hồi cứu tất cả 9 trường hợp và đánh giá chỉ số
sốc (SI), tổng lượng dịch truyền trước và sau can
thiệp, thời gian từ lúc nhập viện đến khi được
điều trị can thiệp, hình ảnh học MSCT, siêu âm,
phân loại mức độ nặng và kết quả của phương
pháp TAE.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả bệnh nhân bị chấn thương bụng kín
nhập bệnh viện Nhân Dân Gia Định được khám
và điều trị tích cực ban đầu tuân theo nguyên tắc
sơ cấp cứu ban đầu. Tất cả các bệnh nhân đều
được siêu âm bụng và làm các xét nghiệm tiền
phẫu khẩn. Quy trình xử trí một trường hợp
chấn thương bụng kín tại bệnh viện Nhân Dân
Gia Định được tuân theo quy trình xử lý chấn
thương bụng kín của AAST (Hiệp hội kiểm soát
chấn thương Hoa Kỳ). Sau khi đánh giá và phân
loại cơ quan tổn thương bằng MSCT nếu bệnh
nhân đủ điều kiện khảo sát. Trong trường hợp
huyết động không ổn định, tình trạng bệnh
nhân nặng khó khảo sát được MSCT, bệnh nhân
sẽ được phẫu thuật mở bụng cấp cứu. Với hình
ảnh MSCT bụng có cản quang, xác định được cơ
quan tổn thương và bằng chứng có tổn thương
động mạch (thoát mạch, giả phình), việc cân
nhắc điều trị bảo tồn nội khoa hoặc điều trị can
thiệp nội mạch cầm máu tối thiểu được đặt ra
sau khi thống nhất hội chẩn. Tất cả bệnh nhân
được lựa chọn phải được loại trừ các tổn thương
phối hợp khác trong ổ bụng có chỉ định phẫu
thuật ngoại khoa hoặc ngoại khoa thám sát.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 239
Hình 1: Phác đồ xử lý vỡ lách được chuẩn hoá bởi hội Chấn thương Hoa kỳ.
Hình 2: Phác đồ xử lý vỡ gan được chuẩn hoá bởi hội Chấn thương Hoa kỳ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 240
Liver injury = tổn thương gan; initial
evaluation = đánh giá sơ bộ; stable = huyết động
ổn định; unstable = huyết động không ổn định;
Resuscitation = hồi sức tích cực; Abdominal CT =
chụp cắt lớp điện toán ổ bụng; no extravasion =
không có dấu thoát mạch; no clinical bleeding =
không có biểu hiện chảy máu trên lâm sang;
extravasion = có dấu thoát mạch trên chụp cắt
lớp điện toán; clinical bleeding = dấu hiệu chảy
máu trên lâm sàng; acute angiography = khảo
sát mạch máu ổ bụng; DPL/FAST = nội soi ổ
bụng chẩn đoán/ siêu âm bụng tổng quát; acute
embolization = tắc mạch khẩn; OIS = đánh giá
mức độ tổn thương cơ quan; angiography the
next day = khảo sát mạch máu trì hoản;
observation = theo dõi; Laparotomy = mở ổ bụng
thám sát; DCS = trung tâm kiểm soát chấn
thương; look for the other bleeding source = tìm
các nguyên nhân chảy máu khác.
Hình 3 Một trường hợp vỡ gan
Thuyên tắc động mạch gan điều trị vỡ gan
do chấn thương bụng kín ở bệnh nhân nữ 21
tuổi. (a) Trên MSCTscan hiện diện thoát mạch
đang hoạn động (mũi tên). (b) Chụp động mạch
thân tạng thấy vị trí giả phình (mũi tên). (c)
Chọn lọc nhánh động mạch có giả phình lớn và
thoát mạch (mũi tên). (d) Hình ảnh động mạch
thân tạng sau khi đã tắc thành công chổ chảy
máu bằng keo.
Hình ảnh siêu âm được dùng để chẩn đoán
sơ bộ ban đầu, xác định có hay không có dịch ổ
bụng và đánh giá sơ lược tìm nguyên nhân xuất
huyết. Trong trường hợp các dấu hiệu lâm sàng
như mạch, huyết áp xấu, lựa chọn hồi sức nhanh
và mổ hở là biện pháp tích cực và đang được áp
dụng tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Trong
trường hợp hồi sức có hiệu quả, khảo sát chụp
cắt lớp điện toán có dùng thuốc cản quang là lựa
chọn tiếp theo để chẩn đoán xác định và đánh
giá mức độ thương tổn, đánh giá cơ quan tổn
thương và phân độ. Đây là biện pháp cận lâm
sàng góp phần quyết định lựa chọn biện pháp
can thiệp.
Phương pháp TAE (tắc mạch) bắt đầu bằng
đường xuyên kim nơi động mạch đùi phải.
Yashiro 5,0F là dụng cụ vừa giúp chẩn đoán
bằng cách gắn vào động mạch thân tạng hoặc
động mạch mạc treo tràng trên, vừa là dụng cụ
dẫn đường cho microcatheter chọn lọc vào
nhánh tổn thương. Progreat 2.7F là
microcatheter được sử dụng để chọn lọc động
mạch tổn thương để gây tắc cầm máu. Gelfoam,
PVA contour 550 – 710 micron (Boston –
Scientific), hoặc hổn hợp keo NBCA (B‐Braun)
và lipiodol với tỷ lệ thay đổi sẽ là những vật liệu
gây tắc giúp cầm máu động mạch tổn thương.
Sau khi tắc mạch, bệnh nhân được chuyển
về khoa Hồi sức ngoại để theo dõi và điều trị
hậu phẫu. Siêu âm sẽ được thực hiện tuỳ thuộc
vào sinh hiệu và tình trạng bụng.
KẾT QUẢ
Từ hai năm 2012 và 2013, có tổng cộng 09
trường hợp vỡ tạng đặc được lựa chọn điều trị
can thiệp nội mạch cầm máu được liệt kê trong
bảng 1.
Trong 09 trường hợp, có một trường hợp
thất bại khi làm TAE, chúng tôi sẽ bàn sau về
trường hợp này liên quan đến nguyên nhân và
hướng xử trí tiếp. Tám trong số 09 bệnh nhân
thành công về mặt kỷ thuật (cầm máu, bệnh
nhân ra khỏi giai đoạn sốc).
Các trường hợp thành công về mặt kỷ thuật
làm tắc TAE đều giúp làm giảm chỉ số sốc của
bệnh nhân, điều trị bảo tồn nội khoa được duy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 241
trì tiếp tục cho đến xuất viện. Tất cả các trường
hợp vỡ tạng đặc do chấn thương bụng kín đều
luôn đi kèm một hoặc nhiều chấn thương khác,
điều này cho thấy chấn thương bụng kín là chấn
thương nặng và tác động của lực chấn thương
lớn gây tổn thương cơ quan.
Bảng 1: Tổng số các trường hợp vỡ tạng đặc do
chấn thương bụng kín được điều trị bằng phương
pháp TAE.
Giới Tuổi Lý do nhập viện Chẩn đoán
Nam 20 Tai nạn giao thông
Vỡ gan độ IV/Chấn thương bụng
kín – Gãy đầu dưới hai xương cẳng
tay (P).
Nam 57 Tai nạn giao thông
Vỡ gan độ IV/Chấn thương bụng
kín – Gãy đầu dưới xương mác
chân (P).
Nam 20 Tai nạn sinh hoạt
Vỡ gan độ IV/ Chấn thương bụng
kín.
Nữ 21 Tai nạn giao thông
Vỡ gan độ IV/ Chấn thương bụng
kín – Gãy xương sườn VII (P).
Nữ 26
Tai nạn
nghề
nghiệp
Vỡ gan độ III/ Chấn thương bụng
kín – Tràn dịch màng phổi (P) –
Gãy cung bên trước xương sườn V
– VI.
Nữ 22 Tai nạn giao thông
Vỡ gan độ III/ Chấn thương bụng
kín – Dập cực trên thận (P) – Tràn
máu ổ bụng lượng vừa.
Nam 16 Tai nạn giao thông
Vỡ thận độ IV/ Chấn thương bụng
kín
Nam 28 Tai nạn giao thông
Vỡ lách độ IV/ Chấn thương bụng
kín – Dập thận (T) độ II.
Nam 53 Tai nạn giao thông
Vỡ gan độ III/ Chấn thương bụng
kín – Gãy xương sườn XI – Gãy hai
xương cẳng chân (P).
Chỉ số sốc là yếu tố tham khảo và đánh giá
tốt nhất mức độ nặng nhẹ của vỡ tạng đặc gây
chảy máu ổ bụng.
Bảng 2: Bảng số đánh giá chỉ số sốc.
Phân độ V máu mất (ml) Huyết áp Mạch (lần/phút) Hô hấp Ý thức
Độ I 750 bình thường <100 bình thường bình thường
Độ II 750-1500 bìnhthường hoặc giảm ít >100 nhịp thở tăng Lo lắng
Độ III 1500-2000 HA tâm thu 120 Khó thở kích thích, vật vã
Độ IV >2000 HA tâm thu 120 Suy hô hấp nặng Lơ mơ,Hôn mê
Tất cả các bệnh nhân khi nhập viện ban
đầu được khám lâm sàng và thực hiện siêu âm
chẩn đoán nhanh để xác định chẩn đoán. Sau
đó bệnh nhân được chỉ định khảo sát cắt lớp
điện toán bụng, và qua đó đánh giá mức độ
nặng của tổn thương.
Bảng 3: Phân loại mức độ nặng vỡ gan do chấn
thương bụng kín theo Moore
Phân
độ Thương tổn
1
Tụ máu dưới bao ≤ 10 % diện tích
Rách bao gan, < 1 cm chiều sâu nhu mô
2
Tụ máu dưới bao 10 – 50 % diện tích hay trong nhu
mô < 10 cm đường kính
Vỡ gan 1-3 cm bề sâu và < 10 cm chiều dài
3
Tụ máu dưới bao > 50 % diện tích hay trong nhu mô
≥ 10 cm đường kính
Vỡ gan > 3 cm bề sâu
4 Vỡ 25-75% thùy gan hay từ 1-3 hạ phân thùy theo Coinaud trong một thùy gan
5
Vỡ > 75% thùy gan hay > 3 hạ phân thùy theo
Coinaud trong một thùy gan
Có tổn thương tĩnh mạch gan (tĩnh mạch chủ sau
gan, các tĩnh mạch gan chính yếu)
6 Gan bị bứt ra khỏi các dây chằng treo gan, cuống gan.
Bảng 4: Phân loại mức độ vỡ lách do chấn thương
bụng kín dựa theo Moore.
Phân độ Thương tổn
1
Tụ máu dưới bao < 10 % diện tích
Rách bao gan , vỡ nhu mô < 1 cm chiều sâu
2
Tụ máu dưới bao 10 – 50 % diện tích; tụ máu
trong nhu mô < 5 cm đường kính
Vỡ nhu mô 1-3 cm bề sâu không ảnh hưởng
mạch máu nhu mô
3
Tụ máu dưới bao > 50 % diện tích; vỡ khối máu tụ
dưới bao; tụ máu trong nhu mô > 5 cm đường
kính
Vỡ nhu mô > 3 cm bề sâu hay có ảnh hưởng
mạch máu bè
4 Vỡ thùy lách hay đứt mạch máu rốn lách chi phối > 25% lách
5 Vỡ nát, Đứt cuống lách
( (
((
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 242
Hình 4: Một trường hợp vỡ lách
Thuyên tắc động mạch lách điều trị vỡ lách
do chấn thương bụng kín ở bệnh nhân nam 28
tuổi. (a) Trên MSCTscan hiện diện thoát mạch
đang hoạn động (mũi tên). (b) Chụp động mạch
thân tạng thấy vị trí giả phình (mũi tên). (c)
Chọn lọc nhánh động mạch có giả phình (mũi
tên). (d) Hình ảnh động mạch thân tạng sau khi
đã tắc thành công chổ chảy máu bằng keo.
Ngoài ra dựa trên hình ảnh cắt lớp điện toán
có thể đánh giá mức và xếp loại mức độ nặng
nhẹ của lượng máu chảy trong ổ bụng. Và đồng
thời cũng đánh giá được tình trạng xuất huyết ở
trạng thái hoạt động thông qua hình ảnh thoát
mạch hoặc đã ngưng chảy máu.
Trong số 09 trường hợp, có 04 trường hợp có
chỉ số sốc >1 cho thấy mức độ tổn thương mạch
máu lớn và phù hợp giữa chụp cắt lớp điện toán
cũng như trên hình ảnh chụp mạch máu. Và
điều trị tắc mạch thành công 03 trong số đó cho
thấy cải thiện rõ rệt chỉ số sốc.
Biểu đồ 1: So sánh chỉ số sốc trước và sau khi làm tắc mạch, và lượng dịch bù trước và sau khi làm can thiệp tắc
mạch
Các trường hợp còn lại, dù chỉ số sốc chưa
đạt mức độ được định nghĩa là sốc (>1), tuy
nhiên hình ảnh khảo sát cho thấy chảy máu
đang hoạt động qua hình ảnh thoát mạch, và
hình khảo sát mạch máu cho thấy chảy máu ở
các nhánh nhỏ và rỉ rả trong bao, giải thích được
tình trạng không trong tình huống sốc của bệnh
nhân. Tuy nhiên kết quả tắc mạch đã mang lại
kết quả khả quan và giảm nguy cơ đưa đến tình
trạng sốc của bệnh nhân.
BÀN LUẬN
Theo các báo cáo gần đây, điều trị bảo tồn
các tạng đặc như gan, lách cho thấy có nhiều
thành công đã được chứng minh cụ thể. Tuy
nhiên để đạt được thành công theo phương
pháp này, sự phát triển của chụp cắt lớp điện
toán vùng bụng chậu đã giúp ích rất nhiều cho
chẩn đoán, đánh giá và đưa ra quyết định điều
trị kịp thời và đúng mức(8,17). Đó là lý do chúng
tôi bắt buộc gần như đa số các trường hợp chấn
thương bụng kín đều phải khảo sát chụp cắt lớp
điện toán có cản quang, chỉ trừ trường hợp
huyết động không thực sự ổn định và xấu dù đã
được hồi sức nội khoa không hiệu quả ngay
trong thời gian bệnh nhân cấp cứu.
Theo các nhà phẫu thuật ngoại khoa chấn
thương, quan niệm điều trị chấn thương bụng
kín trong trường hợp huyết động không ổn định
là phẫu thuật càng sớm càng tốt; lý do được đưa
ra là nhằm giảm lượng máu mất càng sớm càng
tốt và đồng thời đánh giá các cấu trúc trong ổ
bụng trong chấn thương bụng kín. Tuy nhiên,
các nghiên cứu đương đại chứng minh là quan
niệm không phù hợp vì gần như đa số các báo
cáo chứng minh là các cơ quan chảy máu đã
ngừng vào thời điểm mở bụng(15,16).
Với những lý do vừa viện dẫn, kể từ năm
1988 khuynh hướng điều trị bảo tồn các chấn
thương bụng kín có khuynh hướng ứng dụng
rộng rãi đối với các trường hợp có huyết động
ổn định. Các báo cáo cho thấy tỷ lệ thành công
các trường hợp như trên lên đến 84% tổng các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 243
trường hợp(21,20).
Theo y văn, thuyên tắc mạch (TAE) ứng
dụng trong cấp cứu chấn thương bụng kín để
cầm máu được báo cáo đầu tiên vào cuối thập
niên 1970 bởi tác giả Hashimoto và cộng sự điều
trị vỡ gan trong chấn thương bụng kín(19,20,21,22).
Báo cáo cho thấy tính hiệu quả và khả năng cầm
máu tốt trong trường hợp chấn thương gan
phức tạp cũng như trong trường hợp cấp cứu
với bệnh nhân có huyết động không ổn định.
Vai trò của thuyên tắc mạch (TAE) được cho
là khác nhau tuỳ theo chấn thương vỡ lách hay
vỡ gan. Các báo cáo cho thấy đối với chấn
thương gan, TAE cho thấy hiệu quả hơn cho dù
là chấn thương gan mức độ nặng và huyết động
không ổn định(12,18,26). Ngược lại, với vỡ lách, vai
trò của TAE có vẽ hạn chế hơn và tỷ lệ thành
công trong trường hợp chấn thương nặng và
huyết động không ổn định có vẻ giới hạn hơn
theo nhiều nghiên cứu, đặc biệt là ở những
người lớn tuổi(15,22). Với số liệu hạn chế, điều này
chúng tôi chưa thể so sánh với những nghiên
cứu lớn hơn. Tuy với những số liệu dù chưa
nhiều nhưng chúng tôi cũng cho thấy tính khả
thi của phương pháp điều trị TAE trong chấn
thương lách phức tạp và nặng trong một số
trường hợp.
Trong số liệu của chúng tôi, có một trường
hợp chấn thương vỡ gan thất bại bằng phương
pháp điều trị thuyên tắc mạch phải chuyển mổ.
Khi lựa chọn vật liệu gây tắc, chúng tôi đã sử
dụng gelfoam, vật liệu gây tắc không vĩnh viễn,
mặc dù việc khảo sát kiểm tra ngay sau khi tắc
không cho thấy bất thường nào, nhưng khi rút
microcatheter ra và kiểm tra động mạch thân
tạng qua ống thông lớn lại ghi nhận mạch máu
tái thông và động mạch tổn thương không tắc
hoàn toàn. Quyết định ngưng thủ thuật k