Mục tiêu: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng (VTHSDVGXT) là bệnh cảnh hiếm gặp.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp điển hình, qua đó trình bày hệ thống về bệnh cảnh, chẩn đoán và xử trí của
loại vết thương này.
Báo cáo ca: Một VTHSDVGXT hiếm gặp được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Một bệnh
nhân nam 32 tuổi, bi đánh vào vùng mặt bằng một khúc cây tre. Bệnh nhân được chuyển tới chúng tôi trể gần 2
tuần sau chấn thương với chẩn đoán dị vật hốc mắt xuyên nội sọ. Quá trình chẩn đoán, điều trị cũng như xử trí
biến chứng được báo cáo.
Bàn luận: Dị vật gỗ của ca báo cáo được lấy thành công. Những nét đặc thù của VTHSDVGXT được bàn
luận và tổng quan.
Kết luận: VTHSDVGXT ít gặp và là thương tổn chấn thương dễ bỏ xót. Chẩn đoán và nhận dạng sớm
thương tổn dị vật là điều cần thiết để tránh nhiễm trùng. Điều trị có những nét đặc thù cần phải đánh giá toàn
diện trước mổ bằng phương tiện chẩn đoán hình ảnh.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vết thương hốc mắt sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng - Báo cáo ca, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 289
VẾT THƯƠNG HỐC MẮT SỌ NÃO DO DỊ VẬT GỖ XUYÊN THỦNG -
BÁO CÁO CA
Huỳnh Lê Phương*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng (VTHSDVGXT) là bệnh cảnh hiếm gặp.
Chúng tôi báo cáo một trường hợp điển hình, qua đó trình bày hệ thống về bệnh cảnh, chẩn đoán và xử trí của
loại vết thương này.
Báo cáo ca: Một VTHSDVGXT hiếm gặp được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Một bệnh
nhân nam 32 tuổi, bi đánh vào vùng mặt bằng một khúc cây tre. Bệnh nhân được chuyển tới chúng tôi trể gần 2
tuần sau chấn thương với chẩn đoán dị vật hốc mắt xuyên nội sọ. Quá trình chẩn đoán, điều trị cũng như xử trí
biến chứng được báo cáo.
Bàn luận: Dị vật gỗ của ca báo cáo được lấy thành công. Những nét đặc thù của VTHSDVGXT được bàn
luận và tổng quan.
Kết luận: VTHSDVGXT ít gặp và là thương tổn chấn thương dễ bỏ xót. Chẩn đoán và nhận dạng sớm
thương tổn dị vật là điều cần thiết để tránh nhiễm trùng. Điều trị có những nét đặc thù cần phải đánh giá toàn
diện trước mổ bằng phương tiện chẩn đoán hình ảnh.
Từ khóa: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng; Dị vật gỗ hốc mắt; CT scan; MRI.
ABSTRACT
TRANSORBITO-CRANIAL PENETRATING INJURY BY WOODEN FOREIGN BODY
-CASE REPORT -
Huynh-Le Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 289 - 294
Objective: A transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body (TOCPIWFB) case is
rarely. We report a single typically case and discuss and describe clinical diagnosis and treatment of TOCPIWFB
in a systematic clinical way.
Clinical presentation: To present single typical case of transorbito-cranial penetrating injury by wooden
organic foreign body diagnosed and successfully operated at Cho ray hospital in 2012. A 32-year-old was kicked in
the face by a branch of the bamboo. The patient was transfer to our hospital with belated diagnosis. The course of
diagnosis and surgical treatment had been reported.
Discussion: Some specific points of a transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body
case have been discussed and considered.
Conclusion: A transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body is common follow an
orbital injury. However, intraorbital wooden or vegetable foreign bodies are less common, are often not recognized
and identification of wooden intraorbito-cranial foreign bodies is crucial for avoiding orbital infection. CT and
MRI helped to identificated it to have a pre-operative evaluation.
Key words: Transorbito-cranial penetrating injury; orbital wooden organic foreign body; CT scan; MRI.
* Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS BS Huỳnh Lê Phương, ĐT: 0909225188 Email: phuongsb5@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 290
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương đâm thủng vào hốc mắt
thường gây bởi dị vật cứng. Đây là loại chấn
thương đặc biệt của hốc mắt thường ít gặp
chiếm tỉ lệ khoãng 1 trên 6 trong các chấn
thương hốc mắt nói chung. Trong những trường
hợp dị vật hốc mắt, thường gặp vẫn là các chất
kim loại, gạch đá, thủy tinh, nhựa cứng v.v... Dị
vật là chất hữu cơ như gỗ, đặc biệt cây cối thực
vật tương đối hiếm gặp, chiếm khoảng 6% các
trường hợp dị vật hốc mắt(1,3,4,6).
Đặc biệt, vết thương sọ não do dị vật gỗ thực
vật hốc mắt xuyên thủng nội sọ rất hiếm gặp và
thường tiềm tàng nguy cơ cho người bệnh.
Mảnh gỗ và những mảnh vở có thể gây chấn
thương các thành phần trong hốc mắt cũng như
có thể bị đẩy lệch di chuyển về đỉnh hốc mắt nơi
có khe ổ mắt trên và ống thần kinh thị, để xuyên
thủng vào nội sọ gây thương tổn các cấu trúc
thần kinh và mạch máu nội sọ. Những trường
hợp vết thương hốc mắt sọ não do dị vật gỗ
xuyên thủng (VTHMSNDVXT) gây vết thương
sọ não đều ẩn chứa nguy cơ rò dịch não tủy,
nhiễm trùng hay áp xe nội sọ(4,8,9).
Trong y văn thế giới các báo cáo về
VTHMSNDVXT rãi rác, không nhiều(1,3,4,7,9) Tại
Việt Nam, chưa một báo cáo nào về loại vết
thương sọ não này. Trong báo cáo này, chúng
tôi trình bày một trường hợp điển hình
VTHMSNDVXT. Đặc điểm diễn tiến bệnh, quá
trình chẩn đoán và điều trị được phân tích. Qua
đó, tổng quan và những nét cần chú ý trong
điều trị của bệnh cảnh này được nêu ra.
BÁO CÁO CA
Bệnh nhân nam A.N., 32 tuổi, chuyển đến
bệnh viện Chợ Rẫy từ bệnh viện tuyến tỉnh với
lý do: Rò dịch vết thương vùng hốc mắt trái có
dị vật. Mười ngày trước chuyển tới bệnh viện
Chợ Rẫy, bệnh nhân bị người khác đánh bằng
cây tre vào vùng mặt. Sau chấn thương, bệnh
nhân nhập bệnh viện huyện sơ cứu và chuyển
đến bệnh viện tỉnh. Bệnh nhân được điều trị
như vết thương vùng mắt với những săn sóc tại
chổ. Tuy nhiên, bệnh nhân đau đầu và hiện
tượng rò dịch ngay vết thương mắt kéo dài.
Bệnh nhân được chẩn đoán dị vật hốc mắt sau
chấn thương mắt bằng CT scan và chuyển cấp
cứu bệnh viên Chợ rẫy. Lâm sàng: Vết thương
khoảng 1cm góc trên trong hốc mắt bên trái
mọng đỏ viêm đang rò dịch. Bệnh nhân thể hiện
hội chứng đỉnh hốc mắt: Mắt trái lồi nhẹ, sụp mi
kèm giới hạn vận nhãn và thị lực mắt trái mất
hoàn toàn. Trên CT scan cho thấy hình ảnh dị
vật tăng đậm độ được bao quanh bởi mô viêm
nằm dọc cạnh trên hốc mắt kéo dài từ trước ra
sau đến tận khe ổ mắt trên và vào nội sọ (hình
1). Một hội chẩn liên khoa Mắt và Ngoại thần
kinh cấp cứu được tiến hành. Bệnh nhân được
rút dị vật trực tiếp từ ngoài hốc mắt tại phòng
mổ. Dị vật là mảnh vỏ tre dài khoảng gần 10 cm.
Tuy nhiên, sau 10 ngày điều trị với kháng sinh
bệnh nhân được chụp MRI kiểm tra, phát hiện
dị vật còn tồn lưu. Đầu ngoài dị vật nằm gần
đỉnh trong hốc mắt xuyên khe ổ mắt trên kéo
dài vào nội sọ trong mô não kèm ổ áp xe bao
bọc dọc theo dị vật vùng thái dương. Khảo sát
bằng hình ảnh CT và MRI, chẩn đoán dị vật
không gây tổn thương xoang hang, các mạch
máu lớn nội sọ. Thêm nữa, vì ổ áp xe bao bọc
quanh dị vật vùng thái dương, một đường mổ
trực tiếp từ đỉnh hốc mắt cho lần mổ thứ hai lấy
dị vật và tháo lưu mủ theo ngã hốc mắt sau khi
múc nhãn cầu. Bệnh nhân được điều trị kháng
sinh như phác đồ áp xe não liên tiếp 3 tuần. Một
MRI được chụp kiểm tra sau đó cho thây dị vật
đã được lấy hết và ổ áp xe đã sạch.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 291
Hình 1: Hình ảnh CT scan của bệnh nhân lúc nhập viện cho thấy hình ảnh tăng đậm độ dạng thanh gỗ kéo dài từ
hốc mắt qua vùng khe ổ mắt trên (hình A) bên ngoài xoang hang ra sau trên gờ xương đá (hình B và C).
Hình 2: Hình ảnh MRI. Hình ảnh ổ áp xe vùng thái dương (hình A và B) cạnh xoang hang theo đường đi của dị
vật, sau khi phẫu thuật rút dị vật lần đầu. Hình B và C, ghi nhận ổ áp xe đã được điều trị thành công ba tuần sau
khi phẫu thuật lấy dị vật lần hai.
BÀN LUẬN
Nhận xét ca
Ca báo cáo đã thành công trong việc lấy dị
vật. Tuy nhiên vài nhận xét về bệnh cảnh diễn
tiến và xử trí còn hạn chế thường gặp trong
VTHMSNDVXT như sau:
- Điều trị tuyến đầu đã bỏ qua chẩn đoán về
VTHMSNDVXT. Điều này dẫn tới một nguy cơ
nhiễm trùng nội sọ tiềm tàng.
- Lần phẫu thuật cấp cứu, một thám sát
không đầy đủ về hố mổ để lấy hết dị vật, cũng
như không tiên lượng mẫu dị vật gỗ (mảnh võ
cây tre) có thể tách nhiều mảnh.
- Sau phẫu thuật (lần đầu) lấy dị vật, kiểm
tra ngay bằng hình ảnh (CT, MRI) là cần thiết.
Nhận xét - tổng quan
Yếu tố giải phẫu
Hình dáng hốc mắt với các thành xương bao
quanh có hình tháp bốn cạnh có đỉnh phía
trong, điều này hướng dị vật có khuynh hướng
đi chệch về phía những vị trí giải phẫu đặc biệt.
Trần hốc mắt là thành xương mỏng của phần
xương trán so với các thành còn lại, Dị vật
A C B
A B
C D
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 292
thường làm vở xương trần hốc mắt gây chấn
thương thùy trán. Ở vị trí giải phẫu đặc biệt
vùng đỉnh, dị vật dễ qua khe ổ mắt trên và ống
thần kinh thị để vào nội sọ. Vì khe ổ mắt trên
trải dài ở góc thành ngoài và sàn hốc mắt kéo
dài tới đỉnh, nên dị vật dễ vào nội sọ qua khe ổ
mắt trên hơn ống thần kinh thị (4), (8). Sau khi
vào nội sọ, do hướng của cấu trúc xương, dị vật
có khuynh hướng đi ngoài xoang hang, bên
dưới thùy trán, bên trong thuỳ thái dương, trên
gờ xương đá và đi ngoài thân não. Tuy nhiên,
do kích thước hình dáng dị vật, hướng chấn
thương từ ngoài hốc mắt, dị vật có thể làm rách
xoang hang, tổn thương thân não gây nên nguy
hiểm nặng nề(5,6,7).
Bệnh cảnh lâm sàng VTHMSNDVXT
Thăm khám lâm sàng cần tỉ mỉ và toàn diện
với sự phối hợp chuyên khoa Ngoại thần kinh
và Mắt là bước quan trọng trong việc chẩn đoán
và có hướng điều trị thích đáng.
VTHMSNDVXT dễ bỏ sót trong lần chẩn đoán
ban đầu. VTHMSNDVXT có thể không có triệu
chứng thần kinh giai đoạn sớm. Bệnh cảnh có
thể xảy ra do một chấn thương riêng biệt tại hốc
mắt hoặc đi cùng với một chấn thương đầu mặt
hoặc một đa chấn thương toàn thân. Nếu những
trường hợp VTHMSNDVXT chỉ để lại trên vùng
hốc mắt một hoặc vài vết thương da cạnh quanh
hốc mắt, ngay cả một bệnh nhân không hôn mê
nhưng đang trong tình trạng say rượu, hoặc
nhất là ở trẻ em, bệnh cảnh chấn thương khó
được khai thác đầy đủ. Cũng có khi,
VTHMSNDVXT đã được cơ sở y tế cấp cứu ban
đầu sơ cứu, vội vã hay vô tình lấy
VTHMSNDVXT phần thấy được, và không nghi
ngờ phần dị vật bị giữ lại sâu trong hốc mắt.
Triệu chứng lâm sàng của VTHMSNDVXT
có thể đa dạng và đôi lúc dễ làm sai lệch trong
hướng chẩn đoán. Dấu chứng hằng định là có
một hay nhiều vết thương trên da quanh hốc
mắt. Vết thương da có thể nhiều vị trí, rách phức
tạp và cũng có thể sắc gọn và nhỏ dễ làm nhầm
lẫn vết xướt da. Tùy thời điểm nhập viện sau
chấn thương, có thể vết thương da hoặc đã tạm
lành, có thể vết thương da đang rỉ máu không
cầm hoặc chảy từng hồi do đã có một nhánh
mạch máu bị rách trong hốc mắt. Quanh hốc
mắt có thể bị mọng đỏ nhiễm trùng và hiện điện
sự rò rỉ mũ qua vết thương kéo dài.
Ba triệu chứng cơ bản của thương tổn sau
nhãn cầu là lồi mắt, giới hạn vận nhãn và suy
giảm thị lực có thể xuất hiện giai đoạn cấp, bán
cấp hay muộn tuy thuộc vào hướng vào, kích
thước vị trí số lượng của dị vật, những tổn
thương mạch máu thần kinh sau nhãn cầu do dị
vật gây ra.
Triệu chứng thần kinh khu trú xuất hiện khi
dị vật gây xuất huyết nội sọ do rách xoang
hang, tổn thương động mạch nội sọ hoặc và tổn
thương thân não.
Hình ảnh học chẩn đoán
X-quang sọ với nhiều tư thế không giúp ích
nhiều chẩn đoán phát hiện VTHMSNDVXT.
Siêu âm mắt kết hợp thể A và B tiêu chuẩn cũng
là phương tiện có thể tận dụng. Tuy nhiên, việc
siêu âm hốc mắt tìm VTHMSNDVXT cần người
thực hiện có kinh nghiệm và phương tiện đủ
phần mềm yêu cầu mà điều này ở vài cơ sở
tuyến trước không thể đáp ứng. Hơn nữa, siêu
âm không thể đánh giá toàn diện hốc mắt cũng
như không thể nhận biết VTHMSNDVXT nếu
xung quanh dị vật có khí(5).
CT scan là phương tiện lựa chọn hữu ích cho
việc nhận dạng VTHMSNDVXT. CT scan có thể
cho biết vị trí của dị vật gỗ (DVG) cũng như cho
biết các vấn đề kèm theo như tình trạng gãy vỡ
xương hốc mắt, áp xe, tình trạng mô hạt viêm
quanh dị vật(2,5). Tuy nhiên, chỉ định và đánh giá
tìm kiếm một DVG trên CT scan là thử thách
khó khăn cần lưu ý các điểm sau: Sự nhận dạng
được DVG trên CT scan lệ thuộc giai đọan sớm,
bán cấp hay muộn sau chấn thương; phụ thuộc
chất liệu gỗ, loại cây của dị vật và độ ngậm
nước của chất liệu dị vật đó; phụ thuộc vị trí của
dị vật gần cạnh vùng xoang khí; độ lan rộng mô
phản ứng viêm quanh dị vật do thời gian và
quan trọng nhất là độ nghi ngờ chẩn đoán có
DVGHM của người thầy thuốc(2,5,6).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 293
Trong giai đoạn cấp, DVG có đậm độ trên
CT scan thấp hơn mô mở hốc mắt nên có thể
giống tụ khí trong hốc mắt. Tuy nhiên, những
đường viền có đậm độ thấp thường là DVG
hơn bọt khí đồng nhất. Một chỉ số cửa sổ trên
CT thích hợp (chỉ số CT của gỗ từ -500 đến -
200HU; đối với khí vào khoảng -1000HU) và
góc chụp khác nhau có thể phân biệt DVG với
bọt khí(2,5,8). Trong giai đoạn bán cấp, phản
ứng viêm xung quanh dị vật có thể nhìn thấy
trên CT scan có cản quang. Tuy nhiên ở giai
đọan muộn, dị vật gỗ có thể trở nên có đậm
độ bằng hoặc cao hơn cơ hốc mắt. Một báo
cáo đã cho rằng, dị vật gỗ đã thay đổi độ
ngậm nước hoặc đang hình thành sự can xi
hóa trong môi trường viêm(1). Với sự phát
triển công nghệ vi tính, gần hai thập niên qua
thế hệ CT scan đa lát cắt tái tạo 3D đã có thể
giúp phát hiện, khảo sát vị trí DVG hữu hiệu
hơn(1).
Một khi một VTHMSNDVXT nghi ngờ
trong chẩn đoán với CT scan, chỉ định MRI
nên xem xét để hổ trợ xác định cũng như
đánh giá thương tổn cấu trúc não kế cận có
thể kèm theo. Hình ảnh DVG trên MRI đều
cho tín hiệu thấp hoặc ít khi bằng với mô mỡ
hốc mắt trên các loại xung cũng như có cản
từ. Xung T1 sẽ dễ có hình ảnh rõ hơn trong
phân biệt giữa mô mỡ và gỗ. Một sự kết hợp
về đường ranh của khí tạo bởi hình dáng khác
thường của dị vật và hình ảnh viêm của
đường hầm nối lổ vào của vết thương ngoài
da với dị vật cho chúng ta hướng đến chẩn
đoán DVG(1,3).
Chỉ định khảo sát mạch máu não bằng
những phương thức như CT mạch máu có tiêm
thuốc (CT angiography), cộng hưởng từ mạch
máu (MRA) hay chụp mạch máu não kỹ thuật
số xóa nền (DSA) được đặt ra một khi qua hình
ảnh chẩn đoán từ CT scan và MRI cho thấy có
xuất huyết nội sọ đáng kể hay / và hướng xuyên
thủng của DVG có khả năng cao làm tổn thương
xoang hang, động mạch nội sọ(4,9).
Chẩn đoán
VTHMSNDVXT phải được nghi ngờ đặt ra
trong chẩn đoán một khi có một bệnh cảnh
chấn thương hốc mắt, có vết thương rõ hay
chỉ là vết thương nhỏ vùng hốc mắt hoặc có
kèm theo sự nhiễm trùng kéo dài qua vết
thương; ba triệu chứng sớm thường gặp: lồi
mắt, giới hạn vận nhãn hay giảm thị lực sau
một chấn thương mắt. Hình ảnh chẩn đoán
xác định nếu trên CT scan cho thấy có những
khối hình thể bất thường có đậm độ tương
đương chất khí hoặc tăng đậm độ so với mô
trong hốc mắt tùy thời gian sau chấn thương.
Trên MRI thường giúp phân biệt loại trừ khối
cho hình dáng bất thường trên CT scan đó
không phải là những cấu trúc giải phẫu trong
hốc mắt. Một bệnh cảnh không có dấu hiệu
hay triệu chứng thần kinh khu trú không có
nghĩa có thể loại trừ nguy cơ tiềm ẩn biến
chứng nội sọ(1,3,9).
Xử trí
Như bất cứ trường hợp chấn thương, với
những nguyên lý hàng đầu trong cấp cứu,
người thầy thuốc phải đảm bảo dấu hiệu sinh
tồn và xử trí những cấp cứu đe dọa sinh mạng
kịp thời. Việc đáng giá dị vật chỉ thực hiện khi
tổng trạng người bệnh ổn định(9).
Nếu một phần DVG có thể nhìn thấy từ
ngoài qua hốc mắt, việc chỉ định rút DVG phải
trì hoãn cho đến khi thăm khám đầy đủ và toàn
diện cũng như đã có sự đánh giá chi tiết qua
việc thực hiện các chẩn đoán hình ảnh trong
điều kiện có thể có. Thêm nữa, việc rút DVG ở
những cơ sở sơ cứu tuyến trước hay những nơi
điều kiện phòng mổ chưa chuẩn bị, đôi khi có
thể dẫn tới nguy cơ xuất huyết không thể kiểm
soát.
Kháng sinh phổ rộng và steroid, dù vẫn
còn bàn cãi, nên được dùng trước khi có kết
quả kháng sinh đồ từ việc cấy dịch / mũ qua
vết thương(4,6).
Thành công trong điều trị DVG trong
VTHMSNDVXT là việc đánh giá toàn diện và
kế hoạch phẫu thuật lấy dị vật. Nguyên tắc cơ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 294
bản trong phẫu thuật là lấy được hết dị vật,
làm sạch vết thương và bảo tồn tối đa các trúc
thần kinh mạch máu tinh tế trong hốc mắt. Số
lượng, hình dáng và vị trí dị vật liên quan với
các cấu trúc giải phẫu mạch máu và thần kinh
trong hốc mắt và trong hộp sọ sẽ quyết định
đường mổ vào để lấy di vật. Vì vậy, đường
mổ nên chọn lựa sao cho thỏa được các điều
kiện: tiếp cận di vật và có thể lấy được và lấy
hết dị vật; tháo lưu được mủ dễ dàng và
không làm lan rộng sự nhiễm trùng; hạn chế
tổn thương mới và bảo tồn tối đa các cấu trúc
thần kinh và mạch máu trong hốc mắt và nội
sọ. Các đường mổ trực tiếp thường có ưu thế
và đôi khi phải kết hợp nhiều đường mổ để
mở rộng trường mổ thuận lợi cho việc lấy hết
dị vật đồng thời tránh thương tổn các cấu trúc
mô hốc mắt(1,3,6,9).
Sự phối hợp chuyên khoa Ngoại thần kinh,
Mắt và đôi khi Tai mũi họng trong nhóm phẫu
thuật là cần thiết một khi dị vật gây vết thương
phức tạp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Balasubramanian C., Jadun C.K., Dias P.S. (2009). Transorbital
Intracranial Penetrating Injry – An Anatomical classification. Surg
Neurology 71:238-240.
2. Bonceur-Martel M.P., Adenis J.P., et al. (2001). CT Appearances of
Chronically Retained Wooden Intraorbital Foreign Bodies.
Neuroradiology, 43:165-168.
3. Domenicucci M., Qasho R., et al, (1999). Surgical Treatment of
Penetrating Orbito-cranial Injuries. J Neurosurg Sci 43:229-234.
4. Dunn I.F., Kim D.H., et al. (2009). Orbitocranial Wooden Foreign
Body: A pre-, intra-, and Postoperative Chronicle: Case Report.
Neurosurgery 65(2):383-384
5. Ho V.T., McGuckin J.F., et al. (1996). Intraorbital Wooden Foreign
Body: CT and MRI Appearance. AJNR Am J Neuroradiol 17:134-
136.
6. Huỳnh Lê Phương, cs. (2011). Dị vật gỗ hốc mắt. Y Học TP Hồ
Chí Minh. Tập 15, phụ bản số 4, tr:91-96.
7. Matsumoto S., Hasuo K., et al. (1998). Intracranial Penetrating
Injuries via the Optic Canal. AJNR Am J Neuroradiol 19:1163-
1165.
8. Matsuyama T., Okuchi K., et al. (2001). Transorbital penetrating
injury by a chopstick. Neurol Med Chir (Tokyo) 41:345-348.
9. Schreckiger M., Orringer D., et al, (2011). Transorbital Penetrating
Injury: case series, review of the literature, and proposed
management algorithm. J Neurosurg 114:53-61.