Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 289 
VẾT THƯƠNG HỐC MẮT SỌ NÃO DO DỊ VẬT GỖ XUYÊN THỦNG - 
BÁO CÁO CA 
Huỳnh Lê Phương* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng (VTHSDVGXT) là bệnh cảnh hiếm gặp. 
Chúng tôi báo cáo một trường hợp điển hình, qua đó trình bày hệ thống về bệnh cảnh, chẩn đoán và xử trí của 
loại vết thương này. 
Báo cáo ca: Một VTHSDVGXT hiếm gặp được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Một bệnh 
nhân nam 32 tuổi, bi đánh vào vùng mặt bằng một khúc cây tre. Bệnh nhân được chuyển tới chúng tôi trể gần 2 
tuần sau chấn thương với chẩn đoán dị vật hốc mắt xuyên nội sọ. Quá trình chẩn đoán, điều trị cũng như xử trí 
biến chứng được báo cáo. 
Bàn luận: Dị vật gỗ của ca báo cáo được lấy thành công. Những nét đặc thù của VTHSDVGXT được bàn 
luận và tổng quan. 
Kết luận: VTHSDVGXT ít gặp và là thương tổn chấn thương dễ bỏ xót. Chẩn đoán và nhận dạng sớm 
thương tổn dị vật là điều cần thiết để tránh nhiễm trùng. Điều trị có những nét đặc thù cần phải đánh giá toàn 
diện trước mổ bằng phương tiện chẩn đoán hình ảnh. 
Từ khóa: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng; Dị vật gỗ hốc mắt; CT scan; MRI. 
ABSTRACT 
TRANSORBITO-CRANIAL PENETRATING INJURY BY WOODEN FOREIGN BODY 
-CASE REPORT - 
Huynh-Le Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 289 - 294 
Objective: A transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body (TOCPIWFB) case is 
rarely. We report a single typically case and discuss and describe clinical diagnosis and treatment of TOCPIWFB 
in a systematic clinical way. 
Clinical presentation: To present single typical case of transorbito-cranial penetrating injury by wooden 
organic foreign body diagnosed and successfully operated at Cho ray hospital in 2012. A 32-year-old was kicked in 
the face by a branch of the bamboo. The patient was transfer to our hospital with belated diagnosis. The course of 
diagnosis and surgical treatment had been reported. 
Discussion: Some specific points of a transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body 
case have been discussed and considered. 
Conclusion: A transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body is common follow an 
orbital injury. However, intraorbital wooden or vegetable foreign bodies are less common, are often not recognized 
and identification of wooden intraorbito-cranial foreign bodies is crucial for avoiding orbital infection. CT and 
MRI helped to identificated it to have a pre-operative evaluation. 
Key words: Transorbito-cranial penetrating injury; orbital wooden organic foreign body; CT scan; MRI. 
* Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS BS Huỳnh Lê Phương, ĐT: 0909225188 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 290 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chấn thương đâm thủng vào hốc mắt 
thường gây bởi dị vật cứng. Đây là loại chấn 
thương đặc biệt của hốc mắt thường ít gặp 
chiếm tỉ lệ khoãng 1 trên 6 trong các chấn 
thương hốc mắt nói chung. Trong những trường 
hợp dị vật hốc mắt, thường gặp vẫn là các chất 
kim loại, gạch đá, thủy tinh, nhựa cứng v.v... Dị 
vật là chất hữu cơ như gỗ, đặc biệt cây cối thực 
vật tương đối hiếm gặp, chiếm khoảng 6% các 
trường hợp dị vật hốc mắt(1,3,4,6). 
Đặc biệt, vết thương sọ não do dị vật gỗ thực 
vật hốc mắt xuyên thủng nội sọ rất hiếm gặp và 
thường tiềm tàng nguy cơ cho người bệnh. 
Mảnh gỗ và những mảnh vở có thể gây chấn 
thương các thành phần trong hốc mắt cũng như 
có thể bị đẩy lệch di chuyển về đỉnh hốc mắt nơi 
có khe ổ mắt trên và ống thần kinh thị, để xuyên 
thủng vào nội sọ gây thương tổn các cấu trúc 
thần kinh và mạch máu nội sọ. Những trường 
hợp vết thương hốc mắt sọ não do dị vật gỗ 
xuyên thủng (VTHMSNDVXT) gây vết thương 
sọ não đều ẩn chứa nguy cơ rò dịch não tủy, 
nhiễm trùng hay áp xe nội sọ(4,8,9). 
Trong y văn thế giới các báo cáo về 
VTHMSNDVXT rãi rác, không nhiều(1,3,4,7,9) Tại 
Việt Nam, chưa một báo cáo nào về loại vết 
thương sọ não này. Trong báo cáo này, chúng 
tôi trình bày một trường hợp điển hình 
VTHMSNDVXT. Đặc điểm diễn tiến bệnh, quá 
trình chẩn đoán và điều trị được phân tích. Qua 
đó, tổng quan và những nét cần chú ý trong 
điều trị của bệnh cảnh này được nêu ra. 
BÁO CÁO CA 
Bệnh nhân nam A.N., 32 tuổi, chuyển đến 
bệnh viện Chợ Rẫy từ bệnh viện tuyến tỉnh với 
lý do: Rò dịch vết thương vùng hốc mắt trái có 
dị vật. Mười ngày trước chuyển tới bệnh viện 
Chợ Rẫy, bệnh nhân bị người khác đánh bằng 
cây tre vào vùng mặt. Sau chấn thương, bệnh 
nhân nhập bệnh viện huyện sơ cứu và chuyển 
đến bệnh viện tỉnh. Bệnh nhân được điều trị 
như vết thương vùng mắt với những săn sóc tại 
chổ. Tuy nhiên, bệnh nhân đau đầu và hiện 
tượng rò dịch ngay vết thương mắt kéo dài. 
Bệnh nhân được chẩn đoán dị vật hốc mắt sau 
chấn thương mắt bằng CT scan và chuyển cấp 
cứu bệnh viên Chợ rẫy. Lâm sàng: Vết thương 
khoảng 1cm góc trên trong hốc mắt bên trái 
mọng đỏ viêm đang rò dịch. Bệnh nhân thể hiện 
hội chứng đỉnh hốc mắt: Mắt trái lồi nhẹ, sụp mi 
kèm giới hạn vận nhãn và thị lực mắt trái mất 
hoàn toàn. Trên CT scan cho thấy hình ảnh dị 
vật tăng đậm độ được bao quanh bởi mô viêm 
nằm dọc cạnh trên hốc mắt kéo dài từ trước ra 
sau đến tận khe ổ mắt trên và vào nội sọ (hình 
1). Một hội chẩn liên khoa Mắt và Ngoại thần 
kinh cấp cứu được tiến hành. Bệnh nhân được 
rút dị vật trực tiếp từ ngoài hốc mắt tại phòng 
mổ. Dị vật là mảnh vỏ tre dài khoảng gần 10 cm. 
Tuy nhiên, sau 10 ngày điều trị với kháng sinh 
bệnh nhân được chụp MRI kiểm tra, phát hiện 
dị vật còn tồn lưu. Đầu ngoài dị vật nằm gần 
đỉnh trong hốc mắt xuyên khe ổ mắt trên kéo 
dài vào nội sọ trong mô não kèm ổ áp xe bao 
bọc dọc theo dị vật vùng thái dương. Khảo sát 
bằng hình ảnh CT và MRI, chẩn đoán dị vật 
không gây tổn thương xoang hang, các mạch 
máu lớn nội sọ. Thêm nữa, vì ổ áp xe bao bọc 
quanh dị vật vùng thái dương, một đường mổ 
trực tiếp từ đỉnh hốc mắt cho lần mổ thứ hai lấy 
dị vật và tháo lưu mủ theo ngã hốc mắt sau khi 
múc nhãn cầu. Bệnh nhân được điều trị kháng 
sinh như phác đồ áp xe não liên tiếp 3 tuần. Một 
MRI được chụp kiểm tra sau đó cho thây dị vật 
đã được lấy hết và ổ áp xe đã sạch. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 291 
Hình 1: Hình ảnh CT scan của bệnh nhân lúc nhập viện cho thấy hình ảnh tăng đậm độ dạng thanh gỗ kéo dài từ 
hốc mắt qua vùng khe ổ mắt trên (hình A) bên ngoài xoang hang ra sau trên gờ xương đá (hình B và C). 
Hình 2: Hình ảnh MRI. Hình ảnh ổ áp xe vùng thái dương (hình A và B) cạnh xoang hang theo đường đi của dị 
vật, sau khi phẫu thuật rút dị vật lần đầu. Hình B và C, ghi nhận ổ áp xe đã được điều trị thành công ba tuần sau 
khi phẫu thuật lấy dị vật lần hai. 
BÀN LUẬN 
Nhận xét ca 
Ca báo cáo đã thành công trong việc lấy dị 
vật. Tuy nhiên vài nhận xét về bệnh cảnh diễn 
tiến và xử trí còn hạn chế thường gặp trong 
VTHMSNDVXT như sau: 
- Điều trị tuyến đầu đã bỏ qua chẩn đoán về 
VTHMSNDVXT. Điều này dẫn tới một nguy cơ 
nhiễm trùng nội sọ tiềm tàng. 
- Lần phẫu thuật cấp cứu, một thám sát 
không đầy đủ về hố mổ để lấy hết dị vật, cũng 
như không tiên lượng mẫu dị vật gỗ (mảnh võ 
cây tre) có thể tách nhiều mảnh. 
- Sau phẫu thuật (lần đầu) lấy dị vật, kiểm 
tra ngay bằng hình ảnh (CT, MRI) là cần thiết. 
Nhận xét - tổng quan 
Yếu tố giải phẫu 
Hình dáng hốc mắt với các thành xương bao 
quanh có hình tháp bốn cạnh có đỉnh phía 
trong, điều này hướng dị vật có khuynh hướng 
đi chệch về phía những vị trí giải phẫu đặc biệt. 
Trần hốc mắt là thành xương mỏng của phần 
xương trán so với các thành còn lại, Dị vật 
A C B 
A B 
C D 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 292 
thường làm vở xương trần hốc mắt gây chấn 
thương thùy trán. Ở vị trí giải phẫu đặc biệt 
vùng đỉnh, dị vật dễ qua khe ổ mắt trên và ống 
thần kinh thị để vào nội sọ. Vì khe ổ mắt trên 
trải dài ở góc thành ngoài và sàn hốc mắt kéo 
dài tới đỉnh, nên dị vật dễ vào nội sọ qua khe ổ 
mắt trên hơn ống thần kinh thị (4), (8). Sau khi 
vào nội sọ, do hướng của cấu trúc xương, dị vật 
có khuynh hướng đi ngoài xoang hang, bên 
dưới thùy trán, bên trong thuỳ thái dương, trên 
gờ xương đá và đi ngoài thân não. Tuy nhiên, 
do kích thước hình dáng dị vật, hướng chấn 
thương từ ngoài hốc mắt, dị vật có thể làm rách 
xoang hang, tổn thương thân não gây nên nguy 
hiểm nặng nề(5,6,7). 
Bệnh cảnh lâm sàng VTHMSNDVXT 
Thăm khám lâm sàng cần tỉ mỉ và toàn diện 
với sự phối hợp chuyên khoa Ngoại thần kinh 
và Mắt là bước quan trọng trong việc chẩn đoán 
và có hướng điều trị thích đáng. 
VTHMSNDVXT dễ bỏ sót trong lần chẩn đoán 
ban đầu. VTHMSNDVXT có thể không có triệu 
chứng thần kinh giai đoạn sớm. Bệnh cảnh có 
thể xảy ra do một chấn thương riêng biệt tại hốc 
mắt hoặc đi cùng với một chấn thương đầu mặt 
hoặc một đa chấn thương toàn thân. Nếu những 
trường hợp VTHMSNDVXT chỉ để lại trên vùng 
hốc mắt một hoặc vài vết thương da cạnh quanh 
hốc mắt, ngay cả một bệnh nhân không hôn mê 
nhưng đang trong tình trạng say rượu, hoặc 
nhất là ở trẻ em, bệnh cảnh chấn thương khó 
được khai thác đầy đủ. Cũng có khi, 
VTHMSNDVXT đã được cơ sở y tế cấp cứu ban 
đầu sơ cứu, vội vã hay vô tình lấy 
VTHMSNDVXT phần thấy được, và không nghi 
ngờ phần dị vật bị giữ lại sâu trong hốc mắt. 
Triệu chứng lâm sàng của VTHMSNDVXT 
có thể đa dạng và đôi lúc dễ làm sai lệch trong 
hướng chẩn đoán. Dấu chứng hằng định là có 
một hay nhiều vết thương trên da quanh hốc 
mắt. Vết thương da có thể nhiều vị trí, rách phức 
tạp và cũng có thể sắc gọn và nhỏ dễ làm nhầm 
lẫn vết xướt da. Tùy thời điểm nhập viện sau 
chấn thương, có thể vết thương da hoặc đã tạm 
lành, có thể vết thương da đang rỉ máu không 
cầm hoặc chảy từng hồi do đã có một nhánh 
mạch máu bị rách trong hốc mắt. Quanh hốc 
mắt có thể bị mọng đỏ nhiễm trùng và hiện điện 
sự rò rỉ mũ qua vết thương kéo dài. 
Ba triệu chứng cơ bản của thương tổn sau 
nhãn cầu là lồi mắt, giới hạn vận nhãn và suy 
giảm thị lực có thể xuất hiện giai đoạn cấp, bán 
cấp hay muộn tuy thuộc vào hướng vào, kích 
thước vị trí số lượng của dị vật, những tổn 
thương mạch máu thần kinh sau nhãn cầu do dị 
vật gây ra. 
Triệu chứng thần kinh khu trú xuất hiện khi 
dị vật gây xuất huyết nội sọ do rách xoang 
hang, tổn thương động mạch nội sọ hoặc và tổn 
thương thân não. 
Hình ảnh học chẩn đoán 
X-quang sọ với nhiều tư thế không giúp ích 
nhiều chẩn đoán phát hiện VTHMSNDVXT. 
Siêu âm mắt kết hợp thể A và B tiêu chuẩn cũng 
là phương tiện có thể tận dụng. Tuy nhiên, việc 
siêu âm hốc mắt tìm VTHMSNDVXT cần người 
thực hiện có kinh nghiệm và phương tiện đủ 
phần mềm yêu cầu mà điều này ở vài cơ sở 
tuyến trước không thể đáp ứng. Hơn nữa, siêu 
âm không thể đánh giá toàn diện hốc mắt cũng 
như không thể nhận biết VTHMSNDVXT nếu 
xung quanh dị vật có khí(5). 
CT scan là phương tiện lựa chọn hữu ích cho 
việc nhận dạng VTHMSNDVXT. CT scan có thể 
cho biết vị trí của dị vật gỗ (DVG) cũng như cho 
biết các vấn đề kèm theo như tình trạng gãy vỡ 
xương hốc mắt, áp xe, tình trạng mô hạt viêm 
quanh dị vật(2,5). Tuy nhiên, chỉ định và đánh giá 
tìm kiếm một DVG trên CT scan là thử thách 
khó khăn cần lưu ý các điểm sau: Sự nhận dạng 
được DVG trên CT scan lệ thuộc giai đọan sớm, 
bán cấp hay muộn sau chấn thương; phụ thuộc 
chất liệu gỗ, loại cây của dị vật và độ ngậm 
nước của chất liệu dị vật đó; phụ thuộc vị trí của 
dị vật gần cạnh vùng xoang khí; độ lan rộng mô 
phản ứng viêm quanh dị vật do thời gian và 
quan trọng nhất là độ nghi ngờ chẩn đoán có 
DVGHM của người thầy thuốc(2,5,6). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 293 
Trong giai đoạn cấp, DVG có đậm độ trên 
CT scan thấp hơn mô mở hốc mắt nên có thể 
giống tụ khí trong hốc mắt. Tuy nhiên, những 
đường viền có đậm độ thấp thường là DVG 
hơn bọt khí đồng nhất. Một chỉ số cửa sổ trên 
CT thích hợp (chỉ số CT của gỗ từ -500 đến -
200HU; đối với khí vào khoảng -1000HU) và 
góc chụp khác nhau có thể phân biệt DVG với 
bọt khí(2,5,8). Trong giai đoạn bán cấp, phản 
ứng viêm xung quanh dị vật có thể nhìn thấy 
trên CT scan có cản quang. Tuy nhiên ở giai 
đọan muộn, dị vật gỗ có thể trở nên có đậm 
độ bằng hoặc cao hơn cơ hốc mắt. Một báo 
cáo đã cho rằng, dị vật gỗ đã thay đổi độ 
ngậm nước hoặc đang hình thành sự can xi 
hóa trong môi trường viêm(1). Với sự phát 
triển công nghệ vi tính, gần hai thập niên qua 
thế hệ CT scan đa lát cắt tái tạo 3D đã có thể 
giúp phát hiện, khảo sát vị trí DVG hữu hiệu 
hơn(1). 
Một khi một VTHMSNDVXT nghi ngờ 
trong chẩn đoán với CT scan, chỉ định MRI 
nên xem xét để hổ trợ xác định cũng như 
đánh giá thương tổn cấu trúc não kế cận có 
thể kèm theo. Hình ảnh DVG trên MRI đều 
cho tín hiệu thấp hoặc ít khi bằng với mô mỡ 
hốc mắt trên các loại xung cũng như có cản 
từ. Xung T1 sẽ dễ có hình ảnh rõ hơn trong 
phân biệt giữa mô mỡ và gỗ. Một sự kết hợp 
về đường ranh của khí tạo bởi hình dáng khác 
thường của dị vật và hình ảnh viêm của 
đường hầm nối lổ vào của vết thương ngoài 
da với dị vật cho chúng ta hướng đến chẩn 
đoán DVG(1,3). 
Chỉ định khảo sát mạch máu não bằng 
những phương thức như CT mạch máu có tiêm 
thuốc (CT angiography), cộng hưởng từ mạch 
máu (MRA) hay chụp mạch máu não kỹ thuật 
số xóa nền (DSA) được đặt ra một khi qua hình 
ảnh chẩn đoán từ CT scan và MRI cho thấy có 
xuất huyết nội sọ đáng kể hay / và hướng xuyên 
thủng của DVG có khả năng cao làm tổn thương 
xoang hang, động mạch nội sọ(4,9). 
Chẩn đoán 
VTHMSNDVXT phải được nghi ngờ đặt ra 
trong chẩn đoán một khi có một bệnh cảnh 
chấn thương hốc mắt, có vết thương rõ hay 
chỉ là vết thương nhỏ vùng hốc mắt hoặc có 
kèm theo sự nhiễm trùng kéo dài qua vết 
thương; ba triệu chứng sớm thường gặp: lồi 
mắt, giới hạn vận nhãn hay giảm thị lực sau 
một chấn thương mắt. Hình ảnh chẩn đoán 
xác định nếu trên CT scan cho thấy có những 
khối hình thể bất thường có đậm độ tương 
đương chất khí hoặc tăng đậm độ so với mô 
trong hốc mắt tùy thời gian sau chấn thương. 
Trên MRI thường giúp phân biệt loại trừ khối 
cho hình dáng bất thường trên CT scan đó 
không phải là những cấu trúc giải phẫu trong 
hốc mắt. Một bệnh cảnh không có dấu hiệu 
hay triệu chứng thần kinh khu trú không có 
nghĩa có thể loại trừ nguy cơ tiềm ẩn biến 
chứng nội sọ(1,3,9). 
Xử trí 
Như bất cứ trường hợp chấn thương, với 
những nguyên lý hàng đầu trong cấp cứu, 
người thầy thuốc phải đảm bảo dấu hiệu sinh 
tồn và xử trí những cấp cứu đe dọa sinh mạng 
kịp thời. Việc đáng giá dị vật chỉ thực hiện khi 
tổng trạng người bệnh ổn định(9). 
Nếu một phần DVG có thể nhìn thấy từ 
ngoài qua hốc mắt, việc chỉ định rút DVG phải 
trì hoãn cho đến khi thăm khám đầy đủ và toàn 
diện cũng như đã có sự đánh giá chi tiết qua 
việc thực hiện các chẩn đoán hình ảnh trong 
điều kiện có thể có. Thêm nữa, việc rút DVG ở 
những cơ sở sơ cứu tuyến trước hay những nơi 
điều kiện phòng mổ chưa chuẩn bị, đôi khi có 
thể dẫn tới nguy cơ xuất huyết không thể kiểm 
soát. 
Kháng sinh phổ rộng và steroid, dù vẫn 
còn bàn cãi, nên được dùng trước khi có kết 
quả kháng sinh đồ từ việc cấy dịch / mũ qua 
vết thương(4,6). 
Thành công trong điều trị DVG trong 
VTHMSNDVXT là việc đánh giá toàn diện và 
kế hoạch phẫu thuật lấy dị vật. Nguyên tắc cơ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 294 
bản trong phẫu thuật là lấy được hết dị vật, 
làm sạch vết thương và bảo tồn tối đa các trúc 
thần kinh mạch máu tinh tế trong hốc mắt. Số 
lượng, hình dáng và vị trí dị vật liên quan với 
các cấu trúc giải phẫu mạch máu và thần kinh 
trong hốc mắt và trong hộp sọ sẽ quyết định 
đường mổ vào để lấy di vật. Vì vậy, đường 
mổ nên chọn lựa sao cho thỏa được các điều 
kiện: tiếp cận di vật và có thể lấy được và lấy 
hết dị vật; tháo lưu được mủ dễ dàng và 
không làm lan rộng sự nhiễm trùng; hạn chế 
tổn thương mới và bảo tồn tối đa các cấu trúc 
thần kinh và mạch máu trong hốc mắt và nội 
sọ. Các đường mổ trực tiếp thường có ưu thế 
và đôi khi phải kết hợp nhiều đường mổ để 
mở rộng trường mổ thuận lợi cho việc lấy hết 
dị vật đồng thời tránh thương tổn các cấu trúc 
mô hốc mắt(1,3,6,9). 
Sự phối hợp chuyên khoa Ngoại thần kinh, 
Mắt và đôi khi Tai mũi họng trong nhóm phẫu 
thuật là cần thiết một khi dị vật gây vết thương 
phức tạp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Balasubramanian C., Jadun C.K., Dias P.S. (2009). Transorbital 
Intracranial Penetrating Injry – An Anatomical classification. Surg 
Neurology 71:238-240. 
2. Bonceur-Martel M.P., Adenis J.P., et al. (2001). CT Appearances of 
Chronically Retained Wooden Intraorbital Foreign Bodies. 
Neuroradiology, 43:165-168. 
3. Domenicucci M., Qasho R., et al, (1999). Surgical Treatment of 
Penetrating Orbito-cranial Injuries. J Neurosurg Sci 43:229-234. 
4. Dunn I.F., Kim D.H., et al. (2009). Orbitocranial Wooden Foreign 
Body: A pre-, intra-, and Postoperative Chronicle: Case Report. 
Neurosurgery 65(2):383-384 
5. Ho V.T., McGuckin J.F., et al. (1996). Intraorbital Wooden Foreign 
Body: CT and MRI Appearance. AJNR Am J Neuroradiol 17:134-
136. 
6. Huỳnh Lê Phương, cs. (2011). Dị vật gỗ hốc mắt. Y Học TP Hồ 
Chí Minh. Tập 15, phụ bản số 4, tr:91-96. 
7. Matsumoto S., Hasuo K., et al. (1998). Intracranial Penetrating 
Injuries via the Optic Canal. AJNR Am J Neuroradiol 19:1163-
1165. 
8. Matsuyama T., Okuchi K., et al. (2001). Transorbital penetrating 
injury by a chopstick. Neurol Med Chir (Tokyo) 41:345-348. 
9. Schreckiger M., Orringer D., et al, (2011). Transorbital Penetrating 
Injury: case series, review of the literature, and proposed 
management algorithm. J Neurosurg 114:53-61.