Đặt vấn đề: Để giảm bớt tỷ lệ tử vong và hạn chế biến chứng do cấp cứu ban đầu chậm trễ và không đúng
cách, việc nâng cao tỷ lệ hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết, một
trong những giải pháp là can thiệp bằng các phương tiện truyền thông.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người dân thành phố Hồ Chí Minh có hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115
trước và sau khi can thiệp bằng truyền thông. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự hiểu biết, thái độ và sử
dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh trước và sau khi can thiệp.
Đối tượng và phương pháp: Đối tượng: Người dân đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2012
‐2013. Thiết kế: nghiên cứu can thiệp.
Kết quả: 33,43% người dân biết thành phố có cấp cứu ngoại viện trước can thiệp, sau can thiệp là: 69,14%
(p<0,001), chỉ số hiệu quả: 51,65%. 33,53% biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 trước can thiệp, sau can thiệp là:
79,95 % (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 58,06%. 27,31% biết cấp cứu 115 do Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương đảm
trách trước can thiệp, sau can thiệp là 52,07% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 47,55%. 71,85% trước can thiệp cho
rằng cấp cứu 115 là cần thiết, sau can thiệp: 75,51% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 4,85%.29,83% cho biết sẽ gọi
cấp cứu 115 khi gặp tình huống cấp cứu, trước can thiệp, sau can thiệp: 33,43% (p<0,001), chỉ số hiệu quả:
10,77%. Khi gặp tình huống cấp cứu, trước can thiệp 10,51% người dân gọi cấp cứu 115, sau can thiệp: 35,04%
(p<0,001), chỉ số hiệu quả: 71,32%. Tổng số lần nhận số điện thoại 115 trung bình trước can thiệp: 14,63
lần/ngày, sau can thiệp: 15,96 lần/ngày. Số chuyến xe cấp cứu trung bình trước can thiệp: 12,89 chuyến/ngày,
sau can thiệp: 13,49 chuyến/ngày. Nhóm tuổi 18‐30 biết cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115, sẽ gọi Cấp cứu
115 và khi gặp tình huống cấp cứu đã gọi Cấp cứu 115 nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Nhóm trình độ đại học,
cao đẳng, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành, nhóm nghề nghiệp công chức, viên chức, trí thức, học sinh, sinh
viên biết cấp cứu ngoại viện và số điện thoại 115 nhiều hơn các nhóm khác, nhưng sử dụng Cấp cứu 115 so với
các nhóm khác thì không khác biệt.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy giải pháp can thiệp bằng truyền thông cho người dân thành phố Hồ Chí
Minh đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao sự hiểu biết về cấp cứu 115, số điện thoại 115. Tuy nhiên,
dù người dân có tăng hiểu biết về cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115 thì thái độ và sử dụng Cấp cứu 115 vẫn
không tăng hoặc tăng không đáng kể. Cần có thêm nhiều giải pháp khác nhằm nâng cao thái độ và hành vi sử
dụng Cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh chứ không chỉ đơn thuần bằng biện pháp truyền
thông.
12 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 707 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 1 Đánh giá hiệu quả của truyền thông trong việc nâng cao sự hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của người dân Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012-2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 1
1 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG VIỆC NÂNG
CAO SỰ HIỂU BIẾT, THÁI ĐỘ VÀ SỬ DỤNG CẤP CỨU 115 CỦA NGƯỜI
DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2012 ‐ 2013
Lê Thanh Chiến*, Huỳnh Thị Thanh Trang*, Đỗ Văn Dũng**, Đặng Văn Tài***, Đỗ Quốc Huy*,
Võ Quang Huy*, Nguyễn Thái Bình*, Trần Vĩnh Khanh*, Lại Thị Kim Lệ*, Nguyễn Ngọc Cẩm Tú*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Để giảm bớt tỷ lệ tử vong và hạn chế biến chứng do cấp cứu ban đầu chậm trễ và không đúng
cách, việc nâng cao tỷ lệ hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết, một
trong những giải pháp là can thiệp bằng các phương tiện truyền thông.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người dân thành phố Hồ Chí Minh có hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115
trước và sau khi can thiệp bằng truyền thông. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự hiểu biết, thái độ và sử
dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh trước và sau khi can thiệp.
Đối tượng và phương pháp: Đối tượng: Người dân đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2012
‐2013. Thiết kế: nghiên cứu can thiệp.
Kết quả: 33,43% người dân biết thành phố có cấp cứu ngoại viện trước can thiệp, sau can thiệp là: 69,14%
(p<0,001), chỉ số hiệu quả: 51,65%. 33,53% biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 trước can thiệp, sau can thiệp là:
79,95 % (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 58,06%. 27,31% biết cấp cứu 115 do Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương đảm
trách trước can thiệp, sau can thiệp là 52,07% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 47,55%. 71,85% trước can thiệp cho
rằng cấp cứu 115 là cần thiết, sau can thiệp: 75,51% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 4,85%.29,83% cho biết sẽ gọi
cấp cứu 115 khi gặp tình huống cấp cứu, trước can thiệp, sau can thiệp: 33,43% (p<0,001), chỉ số hiệu quả:
10,77%. Khi gặp tình huống cấp cứu, trước can thiệp 10,51% người dân gọi cấp cứu 115, sau can thiệp: 35,04%
(p<0,001), chỉ số hiệu quả: 71,32%. Tổng số lần nhận số điện thoại 115 trung bình trước can thiệp: 14,63
lần/ngày, sau can thiệp: 15,96 lần/ngày. Số chuyến xe cấp cứu trung bình trước can thiệp: 12,89 chuyến/ngày,
sau can thiệp: 13,49 chuyến/ngày. Nhóm tuổi 18‐30 biết cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115, sẽ gọi Cấp cứu
115 và khi gặp tình huống cấp cứu đã gọi Cấp cứu 115 nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Nhóm trình độ đại học,
cao đẳng, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành, nhóm nghề nghiệp công chức, viên chức, trí thức, học sinh, sinh
viên biết cấp cứu ngoại viện và số điện thoại 115 nhiều hơn các nhóm khác, nhưng sử dụng Cấp cứu 115 so với
các nhóm khác thì không khác biệt.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy giải pháp can thiệp bằng truyền thông cho người dân thành phố Hồ Chí
Minh đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao sự hiểu biết về cấp cứu 115, số điện thoại 115. Tuy nhiên,
dù người dân có tăng hiểu biết về cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115 thì thái độ và sử dụng Cấp cứu 115 vẫn
không tăng hoặc tăng không đáng kể. Cần có thêm nhiều giải pháp khác nhằm nâng cao thái độ và hành vi sử
dụng Cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh chứ không chỉ đơn thuần bằng biện pháp truyền
thông.
Từ khóa: Cấp cứu ngoại viện, Cấp cứu 115, truyền thông.
* Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương ** Đại học Y Dược Tp.HCM
*** Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Tp.HCM (T4G)
Tác giả liên lạc: Ths.Bs.Huỳnh Thị Thanh Trang ĐT: 0918192469 Email: thanhtrangbvtv@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 2
ABSTRACT
EFFICACY OF MEDIA IN RAISING AWARENESS OF KNOWLEDGE, ATTITUDE AND USING
EMERGENCY SERVICE 115 AMONGST POPULATION IN HO CHI MINH CITY (2012‐2013)
Le Thanh Chien, Huynh Thi Thanh Trang, Do Van Dung, Dang Van Tai, Do Quoc Huy, Vo Quang
Huy, Nguyen Thai Binh, Tran Vinh Khanh, Lai Thi Kim Le, Nguyen Ngoc Cam Tu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 1 ‐ 12
Background: To reduce mortality and complications due to limited first aid and improper delays, it is
essential to improve awareness and using the emergency service 115 in Ho Chi Minh City, one of solutions is to
intervene by media.
Objectives: Determine the proportion of people in Ho Chi Minh who have knowledge, attitudes and use of
emergency 115 before and after by media intervention. Learn a number of factors related to the knowledge,
attitude and use of emergency 115 people in Ho Chi Minh City before and after the intervention.
Methods: Subjects: People living in Ho Chi Minh City in 2012 ‐2013. Design: Interventional trial.
Results: 33.43% and 69.14% people were aware of city emergency service before and after intervention,
respectively (p <0.001), performance indicators: 51.65%. 33.53% and 79.95% people were aware of emergency
phone number 115 before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 58.06%.
27.31% and 52.07% people knew that emergency service 115 was undertaken by Trung Vuong Hospital before
and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 47.55%. 71.85% and 75.51% people
thought that emergency service 115 is necessary before and after intervention, respectively (p <0.001),
performance indicators: 4.85%.29.83% and 33.43% people would call 115 in case of emergency before and after
intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 10.77%. When encountering an emergency
situation, 10.51% and 35.04% would call 115 before and after intervention, respectively (p <0.001), performance
indicators: 71.32%. Total phone calls before and after intervention were 14.63 and 15.96 / day, respectively.
Average number of ambulance trips before and after intervention were 12.89 and 13.49 / day. Amongst groups
with different age, group 18‐30 year‐old is most aware of emergency service, has called and will call 115 when
they encounter an emergency case. Those people who have university degree, living in urban districts,
professional, students are more aware of emergency service and 115, yet emergency usage frequency is not
different from other groups.
Conclusion: The study has showed that intervention by media amongst population in Ho Chi Minh City
has been remarkably effective in improving the understanding of the emergency service and 115. However,
although people may increase understanding of emergency aid, the attitude and using 115 service do not increase
significantly. More solutions are needed to enhance attitudes and behavior using the emergency 115 amongst
people in Ho Chi Minh City, not merely by means of media.
Keywords: emergency service, 115, media.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay Bệnh
viện Cấp cứu Trưng Vương được giao nhiệm vụ
thực hiện là một Trung tâm Cấp cứu 115 phục
vụ cấp cứu ngoại viện cho người dân sinh sống
tại thành phố. Theo số liệu thống kê công tác cấp
cứu ngoài bệnh viện của Khoa Cấp cứu ngoại
viện Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương trong thời
gian từ năm 2002 đến 2011 như sau: Tổng số lần
nhận điện thoại cấp cứu, tổng số lần xe của bệnh
viện đi cấp cứu, số chuyến xe cấp cứu ngoại viện
bình quân mỗi ngày rất thấp, không tương xứng
với nhu cầu trong thực tế, chỉ đáp ứng <1% nhu
cầu cấp cứu của người dân thành phố Hồ Chí
Minh(4,10,11).
Nghiên cứu khảo sát sự hiểu biết và thái độ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 3
người dân tại thành phố Hồ Chí Minh về cấp
cứu 115 của Lê Thanh Chiến, Trần Vĩnh Khanh
năm 2011 cho thấy: chỉ có 29,56% người dân biết
thành phố Hồ Chí Minh có dịch vụ cấp cứu
ngoại viện/tại nhà, Tỷ lệ biết số điện thoại gọi
cấp cứu 115 là 32,14%, tỷ lệ biết 115 là số điện
thoại gọi cấp cứu 64,23%, 81,01% cho biết dịch
vụ cấp cứu 115 là rất cần thiết và cần thiết,
nhưng khi gặp trường hợp cấp cứu, phần lớn sẽ
tự đưa bệnh nhân đến bệnh viện vì lý do tự đi
nhanh hơn (67,04%)(10).
Để giảm bớt tỷ lệ tử vong và hạn chế biến
chứng do cấp cứu ban đầu chậm trễ và không
đúng cách, việc nâng cao tỷ lệ hiểu biết và sử
dụng cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh là
việc làm cần thiết, một trong những giải pháp là
can thiệp bằng các phương tiện truyền thông với
nhiều hình thức (trực tiếp, gián tiếp).
Mục tiêu
Xác định tỷ lệ người dân thành phố Hồ Chí
Minh có hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu
115 trước và sau khi can thiệp bằng truyền
thông.
Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự
hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của
người dân thành phố Hồ Chí Minh trước và sau
khi can thiệp.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp
Nghiên cứu được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: (tháng 9‐11/2012): Nghiên cứu
mô tả cắt ngang khảo sát về sự hiểu biết và sử
dụng cấp cứu 115 của người dân tại thành phố
Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 2 (tháng 12/2012‐tháng 5/2013):
Can thiệp trên nhóm nghiên cứu.
Giai đoạn 3 (tháng 5‐6/2013): Đánh giá lại sự
hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 trên nhóm
nghiên cứu sau can thiệp.
Đối tượng nghiên cứu
Người dân đang sinh sống tại thành phố Hồ
Chí Minh năm 2012 ‐2013.
Tiêu chí chọn mẫu
Người dân từ 18 ‐ 60 tuổi.
Đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh,
không kể thường trú hay tạm trú.
Có điện thoại bàn, đăng k ý công khai tại
dịch vụ 1080, 1081, nằm trong danh bạ điện
thoại 2012‐2013.
Tiêu chí loại trừ
Những người không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu cụm.
Thành phố Hồ Chí Minh có 24 quận huyện,
chọn ngẫu nhiên ít nhất 105 người để phỏng vấn
qua điện thoại.
Phương pháp thu thập số liệu
Phỏng vấn qua điện thoại bằng bảng câu
hỏi đã soạn sẵn. Bảng câu hỏi gồm 3 phần với
20 câu hỏi.
Thành phố Hồ Chí Minh có 719,123 thuê bao
điện thoại mạng VNPT, mỗi quận huyện có
trung bình 29.963 thuê bao, chọn số điện thoại
ngẫu nhiên bằng máy tính được cung cấp bởi
dịch vụ tổng đài 1080 và 1081.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Sự hiểu biết về cấp cứu ngoại viện và số điện
thoại 115 trước và sau can thiệp
Sự hiểu biết về cấp cứu
ngoại viện và
số điện thoại 115
Trước can
thiệp
Sau can
thiệp Test
χ2, p
n % n %
Biết TPHCM
có CCNV
Biết 677 33,43 1400 69,14 <0,00
1 Không biết 1348 66,57 625 30,86
Số điện thoại
gọi cấp cứu
115 679 33,53 1619 79,95
<0,00
1 Số khác/
Không biết 1346 66,47 406 20,05
Biết 115 là số
điện thoại
CC
Biết 1102 54,41 1765 87,16 <0,00
1 Không biết 923 45,58 260 12,84
Tổng cộng 2025 100 2025 100
Bảng 2: Sự hiểu biết về cấp cứu 115 trước và sau can
thiệp của nhóm biết cấp cứu 115 và số điện thoại 115
Sự hiểu biết về cấp
cứu 115
Trước can
thiệp
Sau can
thiệp
Test
χ2, p
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 4
n % n %
BV đảm
trách CC 115
BV CCTV 301 27,31 919 52,07
<0,001
Không biết 801 72,69 846 47,93
Cách gọi cấp
cứu 115
Biết 1006 91,29 1743 98,75
<0,001
Không biết 96 8,71 22 1,25
Cước phí gọi
đến số 115
Miễn phí 429 38,93 1185 67,14
<0,001Có phí/
Không biết 673 61,07 580 32,86
Chi phí CC
115
Biết 165 14,97 544 30,82
<0,001
Không biết 937 85,03 1221 69,18
Tổng cộng 1102 100 1765 100
Bảng 3: Thái độ về cấp cứu 115 trước và sau can
thiệp
Thái độ về cấp cứu 115
của nhóm nghiên cứu
Trước can
thiệp
Sau can
thiệp Test
χ2, p
n % n %
Mức độ
cần thiết
của CC
115
Cần thiết 1455 71,85 1529 75,51
<0,00
1 Không ý kiến/
Không cần thiết 570 28,15 496 24,49
Thái độ
Gọi cấp cứu 115 604 29,83 677 33,43
<0,00
1 Tự đến bệnh viện/
Tùy tình huống 1421 70,17 1348 66,57
Tổng cộng 2025 100 2025 100
Bảng 4: Các trường hợp đã gặp tình huống cấp cứu
trước và sau can thiệp
Đã từng gặp tình
huống cấp cứu
Trước can thiệp Sau can thiệp
n % n %
Có 371 9,32 899 44,4
Không 1654 81,68 1126 55,6
Tổng cộng 2025 100 2025 100
Bảng 5: Xử trí khi gặp tình huống cấp cứu trước và
sau can thiệp
Xử trí khi gặp
cấp cứu
Trước can thiệp Sau can thiệp Test
χ2, p n % n %
Gọi CC 115 39 10,51 315 35,04
<0,001Khác 332 89,49 584 64,96
Tổng cộng 371 100 899 100
Bảng 6: Số cuộc gọi 115 và số chuyến xe cấp cứu
trước và sau can thiệp
Số cuộc gọi 115 và
số chuyến xe/ngày
Trước can
thiệp
Sau can
thiệp
Tổng số lần nhận số điện thoại 115 14,63 15,96
Số chuyến xe cấp cứu 12,89 13,49
Tổng số BN được cấp cứu 12,7 12,6
Bảng 7: Đánh giá hiệu quả nâng cao sự hiểu biết và
sử dụng cấp cứu 115
Đánh giá hiệu quả Trước CT (%)
Sau CT
(%)
CSHQ
(%)
Biết TPHCM có CCNV 33,43 69,14 51,65
Biết số điện thoại
gọi cấp cứu là 115 33,53 79,95 58,06
Biết 115 là số điện thoại
gọi cấp cứu 54,81 87,16 37,12
Biết BVCCTV
phụ trách Cấp cứu 115 27,31 52,07 47,55
Cấp cứu 115 là cần thiết 71,85 75,51 4,85
Sẽ gọi 115 khi gặp CC 29,83 33,43 10,77
Đã gọi cấp cứu 115 10,51 35,04 71,32
Bảng 8: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên cứu và sự hiểu biết cấp cứu ngoại viện (cấp cứu 115)
Đặc điểm
Biết Không biết Tổng cộng Test χ2,
n % n % n % p
Giới tính
Nam 684 70,15 291 29,85 975 100
0,34
Nữ 716 68,19 334 31,81 1050 100
Nhóm tuổi
18 – 30 286 77,51 83 22,49 369 100
<0,001 31 – 45 582 0,29 246 29,71 828 100
46 – 60 532 64,25 296 35,75 828 100
Trình độ học
vấn
Mù chữ, cấp 1,2 349 61,12 222 38,88 571 100
<0,001 Cấp 3 614 1,23 248 87,72 862 100
CĐ-ĐH 437 73,82 155 18 592 100
Nhóm cư ngụ
Nội thành 1148 70,52 480 29,48 1628 100
0,006
Ngoại thành 252 63,48 145 36,52 397 100
Nghề nghiệp
Nhóm 1 261 75,22 86 24,78 347 100
0,007
Nhóm 2 1139 67,88 539 32,12 1678 100
Bảng 9: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên cứu và sự nhận biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115
Đặc điểm
Biết Không biết Tổng cộng Test χ2,
n % n % n % p
Giới tính
Nam 784 80,41 191 19,59 975 100
0,61
Nữ 835 79,52 215 20,48 1050 100
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 5
Đặc điểm
Biết Không biết Tổng cộng Test χ2,
n % n % n % p
Nhóm tuổi
18 – 30 321 86,99 48 13,01 369 100
<0,001 31 – 45 679 82 149 18 828 100
46 – 60 619 74,76 209 25,24 828 100
Trình độ học
vấn
Mù chữ, cấp 1,2 411 71,99 160 28,02 571 100
<0,001 Cấp 3 705 1,79 157 8,21 862 100
Cao đẳng, Đại học 503 84,97 89 15,03 592 100
Nhóm cư ngụ
Nội thành 1336 82,06 292 17,94 1628 100
<0,001
Ngoại thành 283 71,28 114 28,72 397 100
Nghề nghiệp
Nhóm 1 300 86,46 47 13,54 347 100
0,001
Nhóm 2 1319 78,61 359 21,39 1678 100
Bảng 10: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên cứu và thái độ về cấp cứu 115
Đặc điểm
Có nhu cầu Không Tổng cộng Test χ2,
n % n % n % p
Giới tính
Nam 318 32,62 657 67,38 975 100
0,45
Nữ 359 34,19 691 65,81 1050 100
Nhóm tuổi
18 – 30 132 35,77 237 64,23 369 100
0,037 31 – 45 295 35,63 533 64,37 828 100
46 – 60 250 30,19 578 69,81 828 100
Trình độ học vấn
Mù chữ, cấp 1, 2 167 29,25 404 70,76 571 100
0,03 Cấp 3 293 3,99 569 6,01 862 100
Cao đẳng, Đại học 217 36,66 375 63,34 592 100
Nhóm cư ngụ
Nội thành 570 35,01 1058 64,99 1628 100
0,002
Ngoại thành 107 26,95 290 73,05 397 100
Nghề nghiệp
Nhóm 1 126 36,31 221 63,69 347 100
0,21
Nhóm 2 551 32,84 1127 67,16 1678 100
Bảng 11: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên cứu và sử dụng cấp cứu 115 của nhóm đã gặp tình
huống cấp cứu
Đặc điểm
Có sử dụng Không Tổng cộng Test χ2,
n % n % n % p
Giới tính
Nam 140 32,41 292 67,59 432 100
0,11
Nữ 175 35,47 292 62,53 467 100
Nhóm tuổi
18 – 30 78 46,43 90 53,57 168 100
0,001 31 – 45 117 35,24 215 64,76 322 100
46 – 60 120 30,08 279 69,92 399 100
Trình độ học vấn
Mù chữ, cấp 1, 2 77 31,43 168 68,58 245 100
0,38 Cấp 3 143 64,84 249 3,52 392 100
CĐ-ĐH 95 26 167 63,74 262 100
Nhóm cư ngụ
Nội thành 260 36,36 455 63,64 715 100
0,101
Ngoại thành 55 29,89 129 70,11 184 100
Nghề nghiệp
Nhóm 1 62 38,27 100 61,73 162 100
0,34
Nhóm 2 253 34,33 484 65,67 737 100
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 6
BÀN LUẬN
Sự hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 của
người dân thành phố Hồ Chí Minh trước
và sau can thiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy trước can thiệp
có 33,43% người dân biết thành phố có cấp cứu
ngoại viện, 33,53% người dân biết số điện thoại
gọi cấp cứu là 115, 54,41% người dân biết 115 là
số điện thoại gọi cấp cứu. So sánh với kết quả
nghiên cứu khảo sát sự hiểu biết và thái độ
người dân tại thành phố Hồ Chí Minh về cấp
cứu 115 của Lê Thanh Chiến, Trần Vĩnh Khanh
năm 2011 cho thấy: chỉ có 29,56% người dân biết
thành phố Hồ Chí Minh có dịch vụ cấp cứu
ngoại viện/tại nhà, tỷ lệ biết số điện thoại gọi cấp
cứu 115 là 32,14%, tỷ lệ biết 115 là số điện thoại
gọi cấp cứu(10) thì kết quả nghiên cứu này gần
như tương đương.
Tỷ lệ trên quá thấp so với nghiên cứu kết
quả nghiên cứu của tác giả Rau R. và cộng sự ở
Đức năm 2006, khoảng 80% người được hỏi cho
biết họ có nghe nói về dịch vụ vận chuyển cấp
cứu, 95,6% biết cuộc gọi khẩn cấp của sở cứu
hỏa, 86% biết số điện thoại 112, khoảng 4% biết
số điện thoại vận chuyển bệnh nhân và 58%
những người này đã đề cập đúng số 19222. Để
nâng cao tỷ lệ, họ thông tin cho người dân biết
về số điện thoại vận chuyển 19222, dịch vụ cấp
cứu 24/24h, cuộc gọi khẩn cấp 112(18).
Trong nhóm biết cấp cứu 115, kết quả cho
thấy có 27,31% người dân biết Bệnh viện Cấp
cứu Trưng Vương phụ trách cấp cứu 115, so với
kết quả nghiên cứu năm 2011, tỷ lệ này chỉ có
6,53%(10). Từ so sánh trên cho thấy, dù trong 2
năm 2011‐2012, Bệnh viện Cấp cứu Trưng
Vương chưa đưa ra kế hoạch truyền thông cụ
thể và rộng khắp đối với hoạt động cấp cứu 115,
nhưng thông qua báo đài, Internet, Website
bệnh việnngười dân đã biết thêm Cấp cứu 115
tại thành phố Hồ Chí Minh do Bệnh viện Cấp
cứu Trưng Vương phụ trách. Tuy nhiên tỷ lệ
này vẫn còn khá thấp, có thể do người dân chỉ
quan tâm đến cấp cứu ngoại viện, đến số điện
thoại 115 chứ không quan tâm đến đơn vị nào
phụ trách.
So sánh kết quả trước và sau can thiệp, trước
can thiệp, 33,43% người dân biết thành phố có
cấp cứu ngoại viện, sau can thiệp tỷ lệ là 69,14%
(p<0,001), 33,53% người dân trước can thiệp biết
số điện thoại gọi cấp cứu là 115, sau can thiệp là:
79,95% (p<0,001), 54,41% người dân trước can
thiệp biết 115 là số điện thoại gọi cấp cứu, sau
can thiệp là 87,16% (p<0,001). Trong nhóm biết
cấp cứu 115, tỷ lệ người biết Bệnh viện Cấp cứu
Trưng Vương phụ trách Cấp cứu 115 trước can
thiệp là: 27,31%, sau can thiệp là: 52,07%,
Chỉ số hiệu quả trong nâng cao sự hiểu biết
về cấp cứu ngoại viện là 51,65%, trong nâng
cao sự hiểu biết về số điện thoại Cấp cứu 115
là 58,06%, trong nâng cao sự hiểu biết Bệnh
viện Cấp cứu Trưng Vương phụ trách cấp cứu
115 là 47,55%.
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy trước can
thiệp 91,29% biết cách gọi cấp cứu 115 bằng 3
cách: gọi số 115 bằng điện thoại bàn, điện thoại
di động và gọi số khoa Cấp cứu ngoại viện Bệnh
viện Cấp cứu Trưng Vương, sau can thiệp tỷ lệ
này tăng lên là 98,75% (p<0,001), 38,93% biết
cước gọi đến số điện thoại 115