Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận, kết quả 42 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Nhân dân 115

Đặt vấn đề và mục tiêu: Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận có tỉ lệ thấp, tuy nhiên nó có thể ảnh hưởng đến chức năng của thận ghép và tính mạng của bệnh nhân. Chúng tôi xin trình bày các biến chứng ngoại khoa sau ghép thận và kinh nghiệm bước đầu điều trị tại bệnh viện Nhân Dân 115. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chỉ định ghép thận từ người cho sống tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng 3 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012. Phát hiện các biến chứng bằng khám lâm sàng, siêu âm và CT-Scan. Phương pháp tiền cứu mô tả từng trường hợp lâm sàng. Kết quả và bàn luận: Có 42 bệnh nhân được tiến hành ghép thận. Tuổi trung bình ở người cho 31,43 tuổi (18-54t).Tuổi trung bình người nhận thận là 40,98 tuổi (19-69). Tỷ lệ lấy thận trái/phải để ghép là 34/8. Tỷ lệ đặt thận ghép ở hố chậu phải/trái là 32/10. Có 33 thận ghép với 1 động mạch thận và 9 thận ghép có nhiều động mạch. 100% các trường hợp cắm niệu quản vào bàng quang theo phương pháp Lich-Grégoir có cải biên. Tỷ lệ chảy máu từ chỗ khâu nối mạch máu là 3/42 (7,14%). Tỷ lệ hẹp chỗ khâu nối động mạch là 3/42 (7,14%) được đặt stent có kết quả tốt. Tỷ lệ xì dò nước tiểu là 1/42 (2,7%). Có 1/42 (2,38%) bệnh nhân tử vong liên quan chảy máu sau mổ do rối loạn đông máu. Kết luận: Tỷ lệ các biến chứng ngoại khoa trong nghiên cứu là thấp. Đặt Stent điều trị hẹp chỗ khâu nối động mạch có kết quả tốt. Kỹ thuật cắm niệu quản thận ghép vào bàng quang người nhận thận theo phương pháp Lich-Gregoir có cải biên đạt tỷ lệ thành công cao.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận, kết quả 42 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Nhân dân 115, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 460 BIẾN CHỨNG NGOẠI KHOA SAU GHÉP THẬN, KẾT QUẢ 42 TRƯỜNG HỢP GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115 Trương Hoàng Minh*, Trần Thanh Phong*, Đỗ Anh Đức*, Trần Lê Duy Anh*, Nguyễn Phước Hải*, Hồ Thị Ngọc Châu* TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu: Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận có tỉ lệ thấp, tuy nhiên nó có thể ảnh hưởng đến chức năng của thận ghép và tính mạng của bệnh nhân. Chúng tôi xin trình bày các biến chứng ngoại khoa sau ghép thận và kinh nghiệm bước đầu điều trị tại bệnh viện Nhân Dân 115. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chỉ định ghép thận từ người cho sống tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng 3 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012. Phát hiện các biến chứng bằng khám lâm sàng, siêu âm và CT-Scan. Phương pháp tiền cứu mô tả từng trường hợp lâm sàng. Kết quả và bàn luận: Có 42 bệnh nhân được tiến hành ghép thận. Tuổi trung bình ở người cho 31,43 tuổi (18-54t).Tuổi trung bình người nhận thận là 40,98 tuổi (19-69). Tỷ lệ lấy thận trái/phải để ghép là 34/8. Tỷ lệ đặt thận ghép ở hố chậu phải/trái là 32/10. Có 33 thận ghép với 1 động mạch thận và 9 thận ghép có nhiều động mạch. 100% các trường hợp cắm niệu quản vào bàng quang theo phương pháp Lich-Grégoir có cải biên. Tỷ lệ chảy máu từ chỗ khâu nối mạch máu là 3/42 (7,14%). Tỷ lệ hẹp chỗ khâu nối động mạch là 3/42 (7,14%) được đặt stent có kết quả tốt. Tỷ lệ xì dò nước tiểu là 1/42 (2,7%). Có 1/42 (2,38%) bệnh nhân tử vong liên quan chảy máu sau mổ do rối loạn đông máu. Kết luận: Tỷ lệ các biến chứng ngoại khoa trong nghiên cứu là thấp. Đặt Stent điều trị hẹp chỗ khâu nối động mạch có kết quả tốt. Kỹ thuật cắm niệu quản thận ghép vào bàng quang người nhận thận theo phương pháp Lich-Gregoir có cải biên đạt tỷ lệ thành công cao. Từ khóa: Biến chứng ngoại khoa, ghép thận. ABSTRACT SURGICAL COMPLICATIONS AFTER RENAL TRANSPLANTATION, RESULTS 42 CASES OF RENAL TRANSPLANTATION FROM LIVING DONOR AT PEOPLE 115 HOSPITAL Truong Hoang Minh, Tran Thanh Phong, Do Anh Duc, Tran Le Duy Anh, Nguyen Phuoc Hai, Ho Thi Ngoc Chau * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 460 - 465 Background and purpose: Surgical complications after renal transplantation are low, however it may to influence on graft survival. We evaluated surgical complications after renal transplantation and initial experience of treatment at people 115 Hospital. Materials and Methods: Patients were operated renal transplantation at people 115 hospital from march 2004 to april 2012. Determine surgical complications by Examination clinical, Echo, CT-Scan with prospective study of the cas. Results: All 42 renal transplantations from living donor performed. The essential donor age: 31,43 (18-54. The essential receiver age: 40,98 (19-69). Rate nephrectomy for living donor left/right: 34/8. Rate implant fosse * Bệnh viện Nhân Dân 115 Tác giả liên lạc: ThsBS Trương Hoàng Minh Email: truonghminh2000@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 461 iliac right/left: 32/10. The single renal artery: 33 patients and 9 patients with multiple arteries. 100% cases were inserted the ureter of graft into the recipient bladder with Lich-Grégoir technique has a modification. Rate hematoma: 3/42 (7,14%), Rate of arterial stenosis: 3/42 (7,14%) was treated successful by stent arterial, Rate urinary leaks: 1 patient (2,38%). Rate mortality:1/42 cases (2,38%) relate to postoperative bleeding due to troubled coagulation. Conclusions: Rate of surgical complications after renal transplantation was low. The insert of stent by intervention endovascular for treatment of stenosis in anastomosis arterial was good result. The ureter was anastomosed to the recipient bladder with Lich-Gregoir technique has a modification was high success. Key words: Surgical complication, Renal transplantation. ĐẶT VẤN ĐỀ Ghép thận là phương pháp điều trị thay thế thận sinh lý và đem lại chất lượng cuộc sống nhất đối với bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn cuối. Việt Nam thực hiện ghép thận từ năm 1992 và đã trở thành phẫu thuật thường quy ở nhiều bệnh viện. Biến chứng ngoại khoa là một biến chứng khó tránh khỏi sau ghép thận chiếm khoảng 15% tùy theo các trung tâm và đôi khi ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân sau ghép. Các biến chứng ngoại khoa bao gồm: biến chứng mạch máu (1-16%), biến chứng niệu khoa (2-10%), biến chứng lymphoceles (3,1%), và các biến chứng khác.(6). Bệnh viện Nhân Dân 115 bắt đầu thực hiện ghép thận từ người cho sống vào năm 2004, cho tới nay đã thực hiện 42 trường hợp. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm đưa ra kinh nghiệm ban đầu phát hiện và điều trị các biến chứng ngoại khoa góp phần nâng cao chất lượng điều trị cho bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Nhân Dân 115. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân được ghép thận từ người cho sống tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng 3 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012. Thiết kế nghiên cứu Tiền cứu mô tả từng trường hợp Phương pháp nghiên cứu -Việc thực hiện ghép thận được thực hiện theo quy trình ghép thận của bệnh viện Nhân Dân 115 dựa trên quy trình ghép thận của Bộ Y tế năm 2002(5). -Việc lấy thận được thực hiện qua mổ mở hoặc mổ nội soi. -Thận được lấy ra khỏi người cho và rửa bằng dung dịch Euro-Collins ở nhiệt độ 4 độ Celcius hoặc dung dịch HTK-Custodial. -Thận ghép được đặt vào hố chậu phải hoặc trái ở người nhận thận, tĩnh mạch thận ghép cắm vào tĩnh mạch chậu chung hoặc tĩnh mạch chậu ngoài tùy từng trường hợp. Động mạch thận ghép được thông nối với động mạch chậu trong (tận-tận) hoặc động mạch chậu ngoài hay chậu chung (tận- bên) tùy từng trường hợp. -Niệu quản được cắm vào bàng quang theo phương pháp Lich-Gregoir. -Phác đồ thuốc ức chế miễn dịch: Ức chế calcineurin (CsA hoặc Tacrolimus) + MMF (Cellcept) + Steroid (Prednisolon) + dẫn nhập (Simulect) tùy theo từng trường hợp. -Ghi nhận các biến chứng ngoại khoa sau mổ và kết quả điều trị các biến chứng. -Các bệnh nhân sau mổ được tái khám 1 lần/tuần, ghi nhận các biến chứng nếu có. -Lập bệnh án nghiên cứu, ghi đầy đủ các thông số nghiên cứu. -Sử lý số liệu với phần mềm SPSS 11.5. Biến số định tính được trình bày dưới tỷ lệ %, biến số định lượng trình bày dưới dạng số trung bình và độ lệch chuẩn. KẾT QUẢ Từ tháng 2 năm 2004 đến tháng 4 năm 2012 chúng tôi thực hiện được 42 trường hợp ghép thận từ người cho sống với các đặc điểm sau: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 462 Đặc điểm ở người cho thận Tuổi trung bình: 31,43 tuổi (18t-54t) với 30 nam (71,4%) và 12 nữ (28,6%). Độ tuổi hiến thận đa phần là tuổi lao động, nam nhiều hơn nữ. Bảng 1: Quan hệ giữa người cho và người nhận thận Quan hệ Số trường hợp Tỷ lệ% Mẹ ruột cho con 1 2,38 Anh chị em ruột cho nhau 7 16,67 Con dâu cho mẹ chồng 1 2,38 Vợ cho chồng 1 2,38 Cháu cho dì/cô/chú 14 33,33 Anh em họ cho nhau 18 42,86 Tổng cộng 42 100 Vị trí lấy thận: 8 trường hợp lấy thận phải và 34 trường hợp lấy thận trái. Phương pháp lấy thận ghép: 6 trường hợp lấy thận qua nội soi ổ bụng và 36 trường hợp lấy qua mổ mở Số lượng động mạch thận ghép: có 33 trường hợp (78,57%) thận ghép có 1 động mạch, 9 trường hợp (21,43%) có 2 động mạch. Thời gian thiếu máu nóng: trung bình 3 phút 12 (2 phút - 7 phút 30) Đặc điểm ở người nhận thận Tuổi trung bình: 40,98 tuổi (19t-69t) với 25 nam (59,5%) và 17 nữ (40,5%) Nguyên nhân suy thận mãn: 24 trường hợp (57%) là bệnh cầu thận mãn, 9 trường hợp (21,43%) là bệnh thận cao huyết áp, 4 trường hợp (9,52%) tiểu đường, 2 trường hợp (4,76%) thận đa nang, còn lại do Lupus, gout, sỏi niệu. Phương pháp điều trị trước ghép thận: 33 trường hợp (78,57%) chạy thận nhân tạo, 5 trường hợp (11,90%) thẩm phân phúc mạc, 4 trường hợp (9,53%) chưa điều trị thay thế thận trước ghép. Tương hợp HLA: 1/6 (có 2/42: 4,76%), 2/6 (có 5/42: 11,9%), 3/6 (có 16/42: 38,1%), 4/6 (có 13/42:30,96%), 5/6 (có 5/42: 11,9%), 6/6 (có 1/42: 2,38%) Thông số kỹ thuật trong mổ: 32 trường hợp (76,19%) ghép vào hố chậu phải, 10 trường hợp (23,81%) ghép vào hố chậu trái. Bảng 2: Các phương pháp khâu nối mạch máu Khâu nối mạch máu Số trường hợp Tỷ lệ % Động mạch chậu ngoài 21 50 Động mạch chậu trong 9 21,43 Khâu nối động mạch Động mạch chậu chung 7 16,67 Với tĩnh mạch chậu ngoài 40 95,24 Khâu nối tĩnh mạch Với tĩnh mạch chậu chung 2 4,76 Chuẩn bị mạch máu: 1 trường hợp (2,38%) bóc tách rốn thận làm dài động mạch, 2 trường hợp (4,76%) cắm động mạch cực trên vào động mạch thận chính. 1 trường hợp (2,38%) nối động mạch cực dưới vào động mạch thượng vị dưới. 2 trường hợp (4,76%) tạo hình kiểu nòng sung. 1 trường hợp cột động mạch cực trên do khẩu kính quá nhỏ. Có 22 trường hợp (52,38%) đặt thông JJ niệu quản thận ghép, 20 trường hợp (47,62%) là không đặt thông JJ. Phục hồi chức năng thận ghép sau mổ: 31 trường hợp (73,81%) có nước tiểu ngay sau khi mở kẹp mạch máu, 8 trường hợp (19,05%) có nước tiểu sau 30 phút, có 3 trường hợp (7,14%) có nước tiểu sau 24 giờ. Biến chứng ngoại khoa Bảng 3: Biến chứng mạch máu Biến chứng Chúng tôi Trần Ngọc Sinh(8) Eduardo. M(6) Chảy chỗ thông nối động mạch 3/42 (7,14%) 2/201 (0,99%) 9/292 (3,1%) Hẹp động mạch thận ghép 3/42 (7,14%) 0/ 201 (0%) 9/292 (3,1%) Cả 3 trường hợp hẹp động mạch thận ghép tại vị trí thông nối đều xẩy ra trên bệnh nhân được thực hiện thông nối động mạch thận ghép với động mạch chậu ngoài (1 bệnh nhân) và động mạch chậu chung (2 bệnh nhân) kiểu tận- bên. Bảng 4: Biến chứng niệu khoa và so sánh với các tác giả Tên tác giả Chúng tôi (2012) Trần Ngọc Sinh et al (2010)(8) Daniel. A.S et al (1995)(1) Akoh JA et al (2009)(2) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 463 N (Tổng số bn nghiên cứu) 42 (living donors) 201 (living donors) 1000 (deceased) 398 (335 deceased + 43 living donors) Số bn (tỷ lệ) biến chứng 1 bn (2,38%) 4 bn (1,99%) 71 bn (7,1%) 29 bn (7,3%) -Biến chứng Lymphocel: chúng tôi không gặp trường hợp nào -Biến chứng khác: Có 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, đây là những ca đầu tiên ghép cùng phái đoàn Bỉ sử dụng kháng sinh dự phòng nhưng thất bại, biểu hiện sưng tấy vết mổ vào ngày thứ 4, không sốt. Chúng tôi sử dụng lại kháng sinh thế hệ 3 (Rocephin) sau đó bệnh ổn, vết mổ lành và cắt chỉ vào ngày thứ 10 sau mổ. Không ghi nhận trường hợp nào có tổn thương các tạng trong ổ bụng, thoát vị thành bụng hay tràn dịch tinh mạc cùng bên thận ghép. BÀN LUẬN Biến chứng mạch máu: Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật ngoại khoa, biến chứng mạch máu gặp không nhiều (kể cả nhóm có nhiều động mạch)(6) tuy nhiên khi xẩy ra nó sẽ là nguyên nhân quan trọng làm mất chức năng thận ghép. Nếu phát hiện sớm có thể cứu được thận ghép thông qua việc can thiệp ngoại khoa hay can thiệp nội mạch(3) Cả 3 trường hợp chảy máu chỗ thông nối động mạch (động mạch thận ghép với động mạch chậu ngoài người nhận) biểu hiện máu tụ quanh thận ghép xảy ra ở ngày 1-16 hậu phẫu, biểu hiện lâm sàng là đau và sưng vùng thận ghép kèm dẫn lưu ra máu. Siêu âm là phương tiện chẩn đoán đầu tiên và dễ dàng nhận thấy hematoma quanh thận ghép(1), khi kết quả không rõ ràng hoặc nghi ngờ sẽ tiến hành chụp CT-Scan(1). Hai trường hợp được mổ lại 2 lần để lấy máu tụ và cầm máu (một bệnh nhân phát hiện ngày thứ 2 và một bệnh nhân phát hiện ngày thứ 16) với kết quả bệnh nhân thứ 2 (2,38%) tử vong do rối loạn đông máu, nhiễm trùng, viêm gan do thuốc mê và thận ghép không hoạt động. Trường hợp còn lại (phát hiện ngày hậu phẫu thứ 1) được mổ lại may cầm máu chỗ nối động mạch bằng mối may tăng cường, sau phẫu thuật bệnh diễn tiến tốt. Đây là những trường hợp được thực hiện ghép thận trong những năm đầu (2004), chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm. Ba trường hợp hẹp động mạch thận xảy ra ở tháng 3-4 sau ghép. Không có biểu hiện lâm sàng ở 2 trường hợp và 1 trường hợp biểu hiện bằng tăng creatinine huyết thanh khi dùng thuốc ức chế men chuyển. Siêu âm Doppler là phương tiện tầm soát hiệu quả. Tất cả các trường hợp nghi ngờ hẹp động mạch thận có ý nghĩa huyết động trên siêu âm Doppler sẽ được chụp mạch máu thận để chẩn đoán xác định và can thiệp. Cả 3 trường hợp đã được đặt stent với chức năng thận ghép tốt. Theo Zilinska Z và cs, những yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ hẹp mạch máu sau ghép là tình trạng bất tương hợp khẩu kính mạch máu, tồn tại nhiều động mạch, xơ vữa động mạch hoặc do kỹ thuật may nối mạch máu(12). Siêu âm Doppler có thể phát hiện vị trí hẹp của động mạch hay tĩnh mạch dựa trên phổ tưới máu tại thận ghép và kháng lực mạch máu trong thận ghép. CT-Scan chỉ phát hiện vùng giảm đậm độ cản quang. Chính xác nhất vẫn là chụp động mạch có tiêm thuốc cản quang sẽ xác định vị trí chỗ hẹp, độ dài và mức độ hẹp để có chỉ định can thiệp như đặt Stent hay phẫu thuật(1) Cả 3 trường hợp hẹp động mạch thận ghép của chúng tôi xầy ra ở nhóm 1 động mạch (33BN) còn không có trường hợp nào trên nhóm 2 động mạch (9BN) với p > 0,05. Có thể do những trường hợp đầu tiên chúng tôi chưa có kinh nghiệm. Theo Eduardo.M thì không có sự khác biệt về biến chứng hẹp mạch máu thận ghép giữa hai nhóm 1 động mạch (9/292 bn 3,1%) và nhóm nhiều động mạch (2/64 bn 3,1%) với p>0,05(6). Biến chứng nhiễm trùng vết mổ: Ngày nay tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ chỉ còn 1% sau ghép nhờ điều kiện phẫu thuật vô trùng tại phòng mổ tốt, sự phát triển của kháng sinh, người nhận Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 464 thận được chăm sóc dinh dưỡng tốt(11). Trường hợp nhiễm trùng vết mổ trong nghiên cứu do áp dụng protocol kháng sinh dự phòng của nước bạn (Bỉ) có lẽ không phù hợp với điều kiện khí hậu tại thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã sử dụng lại kháng sinh phổ rộng và bệnh nhân ổn định sau đó. Chúng tôi không gặp biến chứng Lymphocele. Theo y văn, tỷ lệ này chiếm khoảng 3,1% tùy từng trung tâm(6), thường xuất hiện vào tuần đầu sau ghép. Nguyên nhân do cột không hết các mạch bạch huyết che phủ lên mạch máu chậu. Tại bệnh viện Nhân Dân 115, chúng tôi cột một cách hệ thống các tổ chức quanh mạch máu vùng chậu khi phẫu tích mà không sử dụng dao điện đốt, mặt khác chỉ bộc lộ mạch máu chậu vừa đủ không bộc lộ quá dài mạch máu chậu nên tránh được biến chứng này. Biến chứng niệu khoa: + Xì dò, tụ nước tiểu quanh thận: trường hợp này là do hoại tử niệu quản gần bể thận, đây là trường hợp có đặt sonde JJ dự phòng ngay trong mổ. Phát hiện vào ngày thứ 10 sau mổ với triệu chứng sốt, đau ở vùng hố chậu phải nơi đặt thận ghép. Siêu âm và chụp CT- Scan phát hiện tụ dịch quanh thận. Bệnh nhân được mổ thám sát lần 1 vào ngày thứ 10 hậu ghép nhưng không phát hiện được chỗ xì dò, đặt lại dẫn lưu. Mổ lại lần 2 vào ngày thứ 14 hậu ghép phát hiện hoại tử niệu quản gần bể thận. Chúng tôi tiến hành may lại lỗ thủng, thám sát thấy niệu quản vẫn tưới máu tốt. Sau mổ diễn tiến tốt, hết xì dò và rút dẫn lưu ổ mổ sau đó 3 ngày, sonde JJ rút sau 2 tuần. - Việc chẩn đoán xì dò niệu quản tương đối dễ dàng tuy nhiên xác định vị trí xì dò đôi khi gặp khó khăn. Theo Daniel Shoskes, siêu âm chỉ xác định có tụ dịch quanh thận, xạ hình thận có lợi trong việc đánh giá vị trí xì dò. Chụp bàng quang có bơm thuốc cản quang xác định được vị trí xì dò ở chỗ thông nối niệu quản-bàng quang(10). - Nguyên nhân xì dò nước tiểu sau ghép thường: Do hoại tử niệu quản và sai sót kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang. Hoại tử niệu quản thông thường do quá trình lấy thận không tuân thủ việc bảo quản lớp mỡ quanh niệu quản cũng như phần mỡ ở vùng cực dưới thận và bể thận, đây là nơi có mạch máu xuất phát từ nhánh động mạch thận nuôi niệu quản. Mặt khác tưới máu niệu quản không đảm bảo do lấy niệu quản quá dài.Tác giả Trần Ngọc Sinh cũng ghi nhận 4 trường hợp xì dò nước tiểu mà không chẩn đoán được vị trí xì dò trước khi mổ lại, chỉ sau khi mổ mới xác định vị trí và nguyên nhân xì dò là do thủng niệu quản nghĩ do sử dụng dao đốt điện một cực. Về sau sử dụng dao bipolar và cột cầm máu niệu quản bằng chỉ tan đã cải thiện biến chứng này(8). - Chúng tôi không gặp trường hợp nào xì dò tại vị trí cắm niệu quản vào bàng quang.Tại bệnh viện Nhân Dân 115 áp dụng kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang với phương pháp Lich-Grégoir có cải biên về kỹ thuật may niệu quản vào bàng quang.. Kỹ thuật này cho phép không cần niệu quản dài nên bảo đảm tưới máu đầu niệu quản từ mạch máu thận ghép xuống tốt và tạo điều kiện lành chỗ thông nối được tốt và giảm biến chứng xì dò. Trường hợp thủng niệu quản của chúng tôi không rõ nguyên nhân, cũng có thể do sử dụng dao điện một cực hoặc do sử dụng sonde JJ mà đầu sonde JJ kích thích làm thủng niệu quản sát bể thận, tác giả Kumar A et al cũng ghi nhận(4). + Vấn đề bế tắc niệu quản và trào ngược bàng quang –niệu quản chúng tôi chưa gặp trường hợp nào. Việc đặt sonde JJ phòng ngừa biến chứng hẹp chỗ thông nối niệu quản vào bàng quang(8,4). Trong nghiên cứu này, ngay cả 20 /42 trường hợp không đặt sonde JJ cũng không ghi nhận có chít hẹp chỗ cắm niệu quản vào bàng quang hay trào ngược bàng quang-niệu quản. Tuy nhiên cần phải có nghiên cứu số lượng lớn và theo dõi lâu dài để đánh vấn đề này. + Sử dụng liều Steroid sau ghép: Với việc phối hợp sử dụng 3 thuốc cho phép giảm nhanh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 465 liều Steroid nhằm giảm các biến chứng của việc sử dụng Steroid. Cụ thể Methylprednisolon 500 mg ngay trong mổ sau đó giảm liều xuống 250mg, 125 mg, và chuyển sang thuốc uống. Tác giả Daniel A et al cho rằng: việc sử dụng liều thấp steroid làm giảm tỷ lệ biến chứng niệu khoa sau ghép(1). Về kỹ thuật lấy thận: đa số các trường hợp lấy thận ghép qua đường mổ mở, có 6/42 trường hợp là lấy qua đường nội soi ổ bụng, không có biến chứng ngoại khoa xẩy ra trên cả 6 trường hợp này. Lấy thận được thực hiện qua đường mổ mở là tốt hơn mổ qua đường nội soi và tỷ lệ xì dò ở nhóm lấy thận qua nội soi là cao hơn nhóm mổ mở(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có thể số bệnh nhân còn ít chưa đủ để so sánh. Theo Trần Ngọc Sinh và Cs thực hiện 43,56% từ mổ mở, còn lại là lấy thận qua nội soi (6,44% qua ngả phúc mạc, 50% qua ngả sau phúc mạc) và kết quả không có sự khác biệt về tỷ lệ biến chứng ngoại khoa giữa mổ mở và mổ nội soi(8). KẾT LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ biến chứng ngoại khoa thấp bao gồm: Chảy máu tại vị trí thông nối động mạch 7,14%, hẹp động mạch thận ghép tại vị trí thông nối 7,14% sau 3 tháng hậu phẫu được đặt Stent cải thiện hoàn toàn. Biến chứng niệu khoa gồm: xì dò bể thận ghép 2,38% được mổ khâu lại chỗ xì dò. Không có trường hợp nào được ghi nhận có biến chứng hẹp hay trào ngược tại vị trí cắm niệu quản vào bàng quang. Tỷ lệ tử vong sau mổ là 2,38% liên quan chảy máu sau mổ do rối loạn đông máu. Siêu âm Doppler và CT-Scan là phương tiện ít xâm hại phát hiện sớm các biến chứng ngoại khoa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akbar SA., Zafar S, Jafri H., Amendola MA.,. Madrazo BL, Salem R, and Bis KG. (2005). ‘‘Complications of renal transplantation’’ RadioGraphics. 2005; 25:1335-1356 2. Akoh JA, Opaluwa AS, Weller D (2009). Urological complications of renal transplantation: Reducing the risk. Saudi J
Tài liệu liên quan