Bài nghiên cứu này phân tích số liệu của 27 ngân hàng thương mại
cổ phần (NHTMCP) đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005- 2016
để kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân
hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP. Sử dụng phương pháp hồi
quy GMM sai phân với ưu điểm có thể khắc phục hiện tượng nội
sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan, bài nghiên cứu phát hiện
thấy rằng các đặc điểm ngân hàng có tác động đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ
nợ xấu của ngân hàng ở năm trước càng cao thì sẽ làm cho tỷ lệ nợ
xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng
càng có chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí
hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì sẽ giúp
các ngân hàng giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của
nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh tế vĩ mô như tốc độ
tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của
các ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến
nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 802 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 194- Tháng 7. 2018
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của 
các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Phạm Dương Phương Thảo
Nguyễn Linh Đan
Ngày nhận: 30/03/2018 Ngày nhận bản sửa: 03/05/2018 Ngày duyệt đăng: 22/05/2018
Bài nghiên cứu này phân tích số liệu của 27 ngân hàng thương mại 
cổ phần (NHTMCP) đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005- 2016 
để kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân 
hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP. Sử dụng phương pháp hồi 
quy GMM sai phân với ưu điểm có thể khắc phục hiện tượng nội 
sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan, bài nghiên cứu phát hiện 
thấy rằng các đặc điểm ngân hàng có tác động đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ 
nợ xấu của ngân hàng ở năm trước càng cao thì sẽ làm cho tỷ lệ nợ 
xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng 
càng có chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí 
hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì sẽ giúp 
các ngân hàng giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của 
nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh tế vĩ mô như tốc độ 
tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của 
các ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến 
nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.
Từ khóa: Nợ xấu, ngân hàng thương mại cổ phần, đặc điểm ngân 
hàng, kinh tế vĩ mô, phương pháp hồi qui GMM
1. Giới thiệu
ệ thống ngân 
hàng đóng 
vai trò quan 
trọng đối với 
sự phát triển 
của nền kinh tế, là cầu nối 
cho vốn được luân chuyển 
từ nơi thừa vốn đến nơi có 
nhu cầu sử dụng. Do đó, sự 
ổn định của ngành ngân hàng 
được xem là yếu tố then chốt 
đối với sự phát triển của nền 
kinh tế. Theo Kwambai và 
Wandera (2013), các NHTM 
đóng vai trò quan trọng ở thị 
trường mới nổi- nơi mà người 
đi vay khó tiếp cận với thị 
trường vốn. Các NHTM chính 
là trung gian tài chính phân 
bổ vốn giữa người gửi tiền 
và người đi vay. Tuy nhiên, 
trong thời gian gần đây, các 
ngân hàng trở nên thận trọng 
hơn trong công tác cho vay do 
vấn đề nợ xấu. Hoạt động cho 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
vay mang đến rủi ro tín dụng 
cho ngân hàng- được xem là 
rủi ro nghiêm trọng nhất khi 
mà các khoản nợ xấu trực tiếp 
làm giảm lợi nhuận của ngân 
hàng và hiệu quả hoạt động 
trong dài hạn. Khi nợ xấu 
gia tăng lên một cách đáng 
kể trong danh mục cho vay 
của ngân hàng thì sẽ gây ra 
các ảnh hưởng nghiêm trọng 
đối với quá trình hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng. 
Một mức nợ xấu càng cao cho 
thấy sự tồn tại của các hạn 
chế tài chính và sự ảnh hưởng 
đến hoạt động quản lý ngân 
hàng và cơ quan quản lý. Nợ 
xấu còn ảnh hưởng đáng kể 
đến các chức năng của ngân 
hàng thông qua sự suy yếu 
tài sản ngân hàng và sự suy 
giảm trong thu nhập khi các 
khoản nợ không thu hồi được 
ngày càng lớn. Trong trường 
hợp xấu nhất, một tỷ lệ nợ 
xấu cao trong hệ thống ngân 
hàng có thể cho thấy tồn tại 
rủi ro hệ thống, từ đó có thể 
ảnh hưởng đến lượng tiền gửi 
và hạn chế hoạt động của các 
trung gian tài chính, kết quả 
là sẽ có tác động tiêu cực đến 
sự tăng trưởng đầu tư và kinh 
tế (Ahmed và các cộng sự, 
2006). Chi phí tài chính của 
các khoản nợ xấu cũng rất 
đáng kể. Việc giải quyết các 
khoản nợ xấu thường được 
xử lý bởi các doanh nghiệp 
quản lý tài sản được lập ra 
dưới sự quản lý của nhà nước. 
Nhiệm vụ chính của các doanh 
nghiệp này là tiếp nhận và xử 
lý các khoản nợ xấu của các 
tổ chức tài chính. Hậu quả 
là, nguồn thu ngân sách của 
chính phủ sẽ bị giảm. Theo 
Galindo và Tamayo (2000), 
việc xử lý nợ xấu của các 
ngân hàng sẽ chiếm từ 10% 
đến 20% tổng GDP của quốc 
gia. Vì thế nghiên cứu về nợ 
xấu nhằm giảm thiểu chúng 
là một vấn đề thu hút được 
nhiều sự quan tâm của các nhà 
nghiên cứu lẫn các nhà quản 
trị ngân hàng và các nhà điều 
hành chính sách của quốc gia 
trên thế giới (Boudriga và các 
cộng sự, 2009). 
Trong năm 2016 tại Việt Nam, 
tỷ lệ nợ xấu của hệ thống 
NHTM là dưới 3% tổng dư 
nợ, đã đạt yêu cầu mà Chính 
phủ đặt ra. Tuy nhiên, việc 
xử lý nợ xấu chưa có nhiều 
triển vọng, chỉ giảm nhẹ từ 
2,9% năm 2015 xuống 2,8%. 
Dù tiếp tục giảm nhẹ và một 
lượng lớn nợ được xử lý 
nhưng Ủy ban Giám sát Tài 
chính Quốc gia đánh giá, nợ 
xấu chờ xử lý và nợ xấu tiềm 
ẩn trong tái cơ cấu vẫn lớn. 
Sang năm 2017, nợ xấu lại có 
xu hướng tăng. Xuất phát từ 
thực tiễn về nợ xấu của ngân 
hàng Việt Nam và ảnh hưởng 
của nợ xấu đối với ngành ngân 
hàng, đối với nền kinh tế, 
bài nghiên cứu này phân tích 
tác động của các yếu tố kinh 
tế vĩ mô và đặc điểm ngân 
hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các 
NHTM cổ phần với kỳ vọng 
từ kết quả nghiên cứu, tác giả 
đề xuất một số ý kiến nhằm 
cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các 
ngân hàng Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Yếu tố đặc điểm của 
ngân hàng ảnh hưởng đến 
nợ xấu
2.1.1. Quy mô ngân hàng
Các nghiên cứu trước đây 
cung cấp bằng chứng cho 
thấy, tồn tại mối tương quan 
ngược chiều giữa quy mô 
ngân hàng và nợ xấu của các 
ngân hàng (Salas và Saurina, 
2002; Hu và các cộng sự, 
2004; Cole và các cộng sự, 
2004; Micco và các cộng 
sự, 2007; García-Marco và 
Robles-Fernández, 2008; 
Swamy, 2012). Theo Hu 
và các cộng sự (2004), các 
ngân hàng có quy mô lớn sẽ 
có nhiều nguồn lực và kinh 
nghiệm hơn trong công tác xử 
lý và phân tích các vấn đề sự 
lựa chọn đối nghịch (adverse 
selection) và rủi ro đạo đức 
(moral hazard). Trong khi đó 
các ngân hàng có quy mô nhỏ 
không thể giải quyết tốt vấn 
đề sự lựa chọn đối nghịch do 
thiếu năng lực và kinh nghiệm 
để đánh giá chất lượng tín 
dụng của người đi vay. Do 
vậy, các ngân hàng có quy mô 
nhỏ thường có tỷ lệ nợ xấu 
cao trong danh mục cho vay 
hơn so với các ngân hàng có 
quy mô lớn.
2.1.2. Mức độ sử dụng chi phí 
hoạt động
Trong thực tế, nợ xấu và chi 
phí hoạt động có tương quan 
với nhau nhưng mối quan hệ 
giữa hai biến này vẫn chưa 
rõ ràng. Do đó, ảnh hưởng 
của chi phí hoạt động lên tỷ 
lệ nợ xấu của các ngân hàng 
có thể là cùng chiều hoặc 
ngược chiều. Hughes và 
Moon (1995) tìm thấy rằng 
khi hiệu quả của việc sử 
dụng chi phí thấp thì tỷ lệ nợ 
xấu của các ngân hàng tăng. 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
Các nhà nghiên cứu tìm thấy 
sự thất bại của các ngân hàng 
dường như có liên quan đến 
vấn đề quản trị của các ngân 
hàng (Berger và Humphery, 
1992; Barr và Siems, 1994; 
DeYoung và Whalen, 1994; 
Wheelock và Wilson, 1994; 
Berger và DeYoung, 1997), 
họ cho rằng, có mối tương 
quan cùng chiều giữa mức 
độ sử dụng chi phí hoạt động 
và nợ xấu; quản trị yếu kém 
thì tốn kém chi phí và nợ xấu 
tăng. Lập luận cơ bản của các 
nhà nghiên cứu này là, khi 
hiệu quả của việc sử dụng chi 
phí là thấp cho thấy khả năng 
quản trị của các nhà quản trị 
ngân hàng yếu kém, do đó có 
thể tác động lớn đến hành vi 
cung cấp tín dụng của ngân 
hàng. Theo đó, các tác giả 
xác định sự quản trị yếu kém 
là do: (1) Yếu kém kỹ năng 
trong việc xếp hạng tín dụng 
và do đó sẽ có thể quyết định 
cho vay các khoản vay không 
sinh lời hoặc thậm chí làm cho 
ngân hàng mất vốn; (2) không 
có trình độ thẩm định tài sản 
đảm bảo của khoản vay đúng; 
(3) khó kiểm soát và theo dõi 
mục đích sử dụng vốn của 
khách hàng sau khi cấp tín 
dụng cho khách hàng. Mặt 
khác, hiệu quả chi phí thấp lại 
có thể tác động ngược chiều 
đến nợ xấu của các ngân hàng. 
Berger và DeYoung (1997) 
cho rằng có sự đánh đổi giữa 
việc phân bổ các nguồn lực 
để theo dõi khoản vay và hiệu 
quả chi phí. Nói cách khác, 
các ngân hàng ít nỗ lực trong 
việc đảm bảo chất lượng 
khoản vay thì dường như sẽ có 
hiệu quả chi phí tốt hơn, tuy 
nhiên, trong dài hạn nợ xấu sẽ 
gia tăng.
2.1.3. Hiệu quả hoạt động
Hiệu quả hoạt động của ngân 
hàng thường có liên quan 
đến hành vi chấp nhận rủi 
ro của các nhà quản trị ngân 
hàng (Hu và các cộng sự, 
2004; Jimenez và Saurina, 
2006; Boudriga và các cộng 
sự, 2009; Nikolaidou và 
Vogiazas, 2011). Theo Hu và 
các cộng sự (2004), các ngân 
hàng càng có lợi nhuận cao 
sẽ ít có động cơ tham gia vào 
các hoạt động rủi ro bởi vì các 
ngân hàng này ít bị áp lực bởi 
việc tạo ra lợi nhuận. Đồng 
thời các ngân hàng có lợi 
nhuận càng cao thì sẽ có cơ 
hội để lựa chọn ra các khách 
hàng có khả năng tài chính 
tốt và rủi ro thấp. Do đó, khi 
lợi nhuận của các ngân hàng 
gia tăng, xác suất mà các nhà 
quản trị ngân hàng tham gia 
vào các dự án đầu tư rủi ro 
sẽ giảm và do đó xác suất mà 
các khoản vay của ngân hàng 
chuyển sang nợ xấu cũng sẽ 
giảm tương ứng. Ngược lại, 
các ngân hàng không có lợi 
nhuận (hoặc hoạt động không 
hiệu quả) thì sẽ tham gia vào 
các hoạt động cho vay có rủi 
ro khi các nhà quản trị bị áp 
lực về việc tạo ra lợi nhuận 
trong ngắn hạn. Khi các nhà 
quản trị tham gia vào các 
hoạt động rủi ro sẽ làm gia 
tăng khả năng các khoản vay 
chuyển sang nợ xấu, và do đó 
sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu 
của các ngân hàng.
2.1.4. Đa dạng hóa thu nhập
Các nhà nghiên cứu trước 
đây đã ủng hộ lý thuyết đa 
dạng hóa danh mục đầu tư có 
thể giúp các ngân hàng giảm 
thiểu rủi ro bởi việc đa dạng 
hóa danh mục sẽ giúp cho các 
ngân hàng có thể bù đắp phần 
tổn thất từ một sản phẩm bởi 
thu nhập của sản phẩm khác 
(Winton, 1999; Templeton 
và Severiens, 1992; Gallo 
và các cộng sự, 1996). Do 
đó, những tổn thất tiềm tàng 
của hoạt động cho vay có thể 
được bù đắp bởi doanh thu 
từ các hoạt động kinh doanh 
phi truyền thống. Mặt khác, 
các nhà nghiên cứu trước đây 
như Maksimovic và Philips 
(2002), DeYoung và Roland 
(2001) và Stiroh (2006) đã 
lập luận rằng đa dạng hóa thu 
nhập không phải là một đảm 
bảo cho mức độ nợ xấu thấp 
ở các ngân hàng. Bởi vì quá 
nhiều hoạt động kinh doanh 
thì sẽ làm cho các ngân hàng 
không thể tập trung vào lĩnh 
vực chuyên môn và do đó 
làm giảm hiệu quả giám sát 
của các khoản vay, kết quả là 
sẽ làm gia tăng khả năng các 
khoản vay chuyển sang nợ 
xấu. Do đó, các ngân hàng nên 
tập trung vào một mảng kinh 
doanh thì sẽ có thể tận dụng 
được kinh nghiệm của nhà 
quản trị trong việc làm giảm 
xác suất xảy ra nợ xấu.
2.2. Các biến số kinh tế vĩ mô 
ảnh hưởng đến nợ xấu
Bên cạnh các yếu tố gây ra 
bởi đặc điểm của ngân hàng, 
các nhà nghiên cứu còn cho 
rằng nợ xấu và khủng hoảng 
ngân hàng xảy ra còn do môi 
trường kinh tế vĩ mô tác động 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
(Festic và cộng sự, 2011; 
Louzisvà cộng sự, 2012; 
Nkusu, 2011) như kinh tế suy 
giảm, thất nghiệp gia tăng, 
lãi suất, lạm phát. Llewellyn 
(2002) còn quan sát thấy rằng 
các rắc rối và rủi ro xảy ra cho 
ngân hàng thường được dẫn 
dắt bởi sự yếu kém về cấu trúc 
của nền kinh tế và hệ thống tài 
chính. 
Vì vậy, kế thừa từ nghiên cứu 
của Chaibi và Ftiti (2015), 
nghiên cứu của chúng tôi sẽ 
kiểm định mức độ tác động 
của các biến số vĩ mô sau đây 
lên nợ xấu của các ngân hàng:
Tăng trưởng kinh tế: Các 
nghiên cứu trước đây như 
Salas và Suarina (2002), 
Jajan và Dhal (2003), Fofack 
(2005), Jimenez và Saurina 
(2005), Pasha và Khemraj 
(2009), Louzis và các cộng sự 
(2012) và Saba và các cộng 
sự (2012) đã cho rằng tồn 
tại mối quan hệ ngược chiều 
giữa tốc độ tăng trưởng kinh 
tế với mức độ nợ xấu của các 
NHTM. Các nghiên cứu giải 
thích cho kết quả này như là 
sự thay đổi trong chu kỳ kinh 
doanh có tác động đến khả 
năng thanh toán lãi vay và nợ 
của người đi vay. Do đó, tốc 
độ tăng trưởng kinh tế sẽ có 
tương quan cùng chiều với 
thu nhập của các cá nhân lẫn 
tổ chức trong nền kinh tế, kết 
quả là sẽ cải thiện khả năng 
thanh toán lãi vay và nợ của 
người đi vay, và do đó sẽ làm 
giảm tỷ lệ nợ xấu của các 
ngân hàng. Ngược lại, khi nền 
kinh tế suy thoái (chẳng hạn 
như tốc độ tăng trưởng kinh 
tế thấp hoặc âm), các hoạt 
động kinh tế nhìn chung sẽ 
suy giảm, lượng tiền mặt được 
nắm giữ bởi các tổ chức kinh 
doanh hoặc các hộ gia đình 
cũng sẽ suy giảm theo. Những 
yếu tố này sẽ làm giảm khả 
năng trả nợ của người đi vay, 
và dẫn đến gia tăng xác suất 
các khoản vay của ngân hàng 
thành các khoản nợ xấu.
Lạm phát: Lạm phát sẽ có ảnh 
hưởng đáng kể đến khả năng 
thanh toán lãi vay và trả nợ 
của các khách hàng vay của 
ngân hàng thông qua nhiều 
kênh khác nhau, và do đó tác 
động của lạm phát đến nợ 
xấu có thể là cùng chiều hoặc 
ngược chiều (Fofack, 2005; 
Pasha và Khemraj, 2009; 
Nkusu, 2011). Các nghiên cứu 
giải thích mối quan hệ này 
như là lạm phát cao có thể 
làm cải thiện năng lực trả nợ 
của các khách hàng bởi việc 
làm giảm giá trị thực của các 
khoản vay khi lãi suất cho 
vay là cố định (các ngân hàng 
không thể điều chỉnh lãi suất 
nhưng lạm phát lại thay đổi 
suất sinh lợi thực của khoản 
vay này). Tuy nhiên, lạm phát 
cũng có thể làm giảm năng lực 
trả nợ của các khách hàng bởi 
việc làm giảm thu nhập thực 
của các khách hàng. Hơn thế 
nữa, khi lãi suất cho vay là thả 
nổi, thì lạm phát sẽ làm giảm 
năng lực trả nợ của khách 
hàng khi các ngân hàng điều 
chỉnh lãi suất cho vay nhằm 
duy trì lãi suất thực áp dụng 
cho các khách hàng, kết quả 
là sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu 
của các ngân hàng. Do đó, 
mối quan hệ giữa lạm phát và 
nợ xấu có thể là cùng chiều 
hoặc ngược chiều.
Tỷ giá hối đoái: Giống như 
lạm phát, sự thay đổi trong 
tỷ giá hối đoái cũng có thể 
ảnh hưởng đến khả năng trả 
nợ của các khách hàng thông 
qua các kênh khác nhau và 
do đó tác động của tỷ giá 
hối đoái đến nợ xấu có thể là 
cùng chiều hoặc ngược chiều 
(Nkusu, 2011). Như đã được 
đề cập bởi Pasha và Khemraj 
(2009), tỷ giá hối đoái bị định 
giá thấp có tác động đáng 
kể đến khả năng trả nợ của 
khách hàng. Một mặt, sự định 
giá thấp này có thể cải thiện 
năng lực cạnh tranh của các 
doanh nghiệp có hoạt động 
xuất khẩu. Bởi khi đó các 
doanh nghiệp này có thể đẩy 
mạnh doanh thu nhờ vào chi 
phí thấp. Do đó, sự định giá 
thấp của tỷ giá hối đoái có 
thể cải thiện năng lực trả nợ 
của các khách hàng có hoạt 
động xuất khẩu. Mặt khác, tỷ 
giá hối đoái bị định giá thấp 
có tác động ngược chiều đến 
khả năng trả nợ của các doanh 
nghiệp có tham gia vào hoạt 
động nhập khẩu.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Đặc điểm mẫu nghiên 
cứu
Trên cơ sở khung lý thuyết 
trên, nghiên cứu thu thập số 
liệu từ các báo cáo tài chính 
(bảng cân đối kế toán, bảng 
kết quả hoạt động kinh doanh 
và thuyết minh báo cáo tài 
chính) của các NHTMCP đang 
hoạt động tại Việt Nam từ 
năm 2005 đến năm 2016. Các 
báo cáo này được tổng hợp 
bởi Hệ thống FiinPro. Mẫu 
nghiên cứu được lựa chọn sau 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
khi thực hiện (i) loại trừ các 
NHTMCP không công bố đầy 
đủ báo cáo tài chính cũng như 
số liệu về nợ xấu của ngân 
hàng trong giai đoạn xem xét; 
(ii) loại trừ các NHTMCP đã 
được Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam (NHNN) mua lại 0 
đồng hoặc sáp nhập vào các 
NHTM khác. Mẫu nghiên 
cứu cuối cùng bao gồm 27 
NHTMCP từ năm 2005- 2016 
với tổng số 259 quan sát 
(Bảng 1). Bên cạnh đó, bài 
nghiên cứu cũng sử dụng một 
số biến số đại diện cho các 
yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh 
hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của 
các ngân hàng. Các chỉ tiêu 
này được thu thập từ cơ sở 
dữ liệu World Development 
Indicators của Ngân hàng Thế 
giới (WB).
3.2. Mô hình nghiên cứu
Bài nghiên cứu phân tích tác 
động của các yếu tố đặc điểm 
của ngân hàng và yếu tố kinh 
tế vĩ mô đến tỷ lệ nợ xấu của 
các NHTM cổ phần đang hoạt 
động tại Việt Nam trong giai 
đoạn 2005- 2016 chủ yếu dựa 
vào phương pháp tiếp cận của 
Chaibi và Ftiti (2015). Cụ thể 
phương trình nghiên cứu được 
thể hiện như sau:
NPL
it
 = β
0
 + β
1
×NPL
it-1
 + 
β
2
×Llp
it
 + β
3
×Cost
it
 + β
4
×Lev
it
+ β
5
×Nonint
it
 + β
6
×Size
it
 + 
β
7
×Profit
it
 + γ×X
it
 + ε
it
 (1)
Trong đó:
NPL
it
 là nợ xấu của ngân hàng 
năm t, được tính bởi tỷ lệ nợ 
xấu (bao gồm nợ nhóm 3, 
nhóm 4 và nhóm 5) trên tổng 
dư nợ cho vay của ngân hàng 
năm t; 
NPL
it-1
 là nợ xấu ngân hàng ở 
thời điểm năm (t-1); 
Llp
it
 là chi phí trích lập dự 
phòng rủi ro tín dụng của ngân 
hàng được tính toán bởi tỷ lệ 
chi phí trích lập dự phòng rủi 
ro tín dụng trên tổng tài sản 
của ngân hàng năm t;
Cost
it
 là chi phí hoạt động của 
ngân hàng được tính toán bởi 
tỷ lệ chi phí hoạt động trên 
thu nhập hoạt động năm t;
Lev
it
 là đòn bẩy của ngân hàng 
được đo lường bởi tỷ lệ nghĩa 
vụ nợ trên tổng tài sản của 
ngân hàng năm t; 
Nonint
it
 là thu nhập phi lãi của 
ngân hàng được đo lường bởi 
Bảng 1. Danh sách các ngân hàng thương mại cổ phần trong 
mẫu nghiên cứu
Tên ngân hàng Viết tắt Giai đoạn
Số 
quan 
sát
NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BID 2005 - 2016 12
NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam EIB 2006 - 2016 11
NHTMCP Phát triển TP. HCM HDB 2007 - 2016 10
NHTMCP Bưu điện Liên Việt LVB 2008 - 2016 9
NHTMCP Hàng hải Việt Nam MSB 2006 - 2016 11
NHTMCP Quân Đội MBB 2006 - 2016 11
Ngân hàng TMCP Á Châu ACB 2005 - 2016 12
NHTMCP An Bình ABB 2010 - 2016 7
NHTMCP Bắc Á NASB 2009 - 2016 8
NHTMCP Bản Việt GDB 2007 - 2016 10
NHTMCP Kiên Long KLB 2005 - 2016 12
NHTMCP Nam Á NAB 2007 - 2016 10
NHTMCP Quốc Dân NVB 2006 - 2016 11
NHTMCP Tiên Phong TPB 2008 - 2016 9
NHTMCP Việt Á VAB 2008 - 2016 9
NHTMCP Phương Đông OCB 2007 - 2016 10
NHTMCP Sài gòn Thương tín STB 2005 - 2016 12
NHTMCP Sài Gòn Công thương SGB 2006 - 2016 11
NHTMCP Đông Nam Á SEAB 2009 - 2016 8
NHTMCP Sài Gòn- Hà Nội SHB 2006 - 2016 11
NHTMCP Kỹ thương Việt Nam TCB 2006 - 2016 11
NHTMCP Quốc tế Việt Nam VIB 2007 - 2016 10
NHTMCP Ngoại thương Việt Nam VCB 2005 - 2016 12
NHTMCP Công thương Việt Nam CTG 2005 - 2016 12
NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng VPB 2007 - 2016 10
Tổng số quan sát 259
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng 
thu nhập hoạt động;
Size
it
 đại diện quy mô của 
ngân hàng được tính bởi 
logarithm tự nhiên của tổng 
tài sản của ngân hàng năm t;
Profit
it
 thể hiện lợi nhuận của 
ngân hàng được tính bởi lợi 
nhuận sau thuế trên tổng tài 
sản năm t;
X
it
 là tập hợp các vector biến 
đại diện cho yếu tố kinh tế 
vĩ mô bao gồm tốc độ tăng 
trưởng kinh tế (Tốc độ tăng 
trong GDP), lãi suất (Lãi suất 
tái cấp vốn), lạm phát (Sự 
thay đổi trong chỉ số giá CPI), 
tỷ lệ thất nghiệp (Tỷ lệ thất 
nghiệp) và tỷ giá (Tỷ giá hối 
đoái) năm t;
ε
it
 là sai số của mô hình.
Theo Chaibi và Ftiti (2015), 
bài nghiên cứu phân tách 
phương trình (1) thành hai 
phương trình. Trong đó một 
phương trình có đưa thêm 
biến Longint (lãi suất) vào 
mô hình nghiên cứu và không 
đưa biến Nonint (thu nhập 
ngoài lãi) vào mô hình nghiên 
cứu, một phương trình khác 
thì ngược lại. Cụ thể phương 
trình như sau:
NPL
it
 = β
0
 + β
1
×NPL
it-1
 + 
β
2
×Llp
it
 + β
3
×Cost
it
 + β
4
×Lev
it
+ β
6
×Size
it
 + β
7
×Profit
it
+ γ
1
×Inf
it
 + γ
2
×Gdpgr
it
 + 
γ
3
×Longint
it
 + γ
4
×Unemploy
it
+ γ
5
Exrate
it
 + ε
it
 (2)
NPL
it
 = β
0
 + β
1
×NPL
it-1
 + 
β
2
×Llp
it
 + β
3
×Cost
it
 + β
4
×Lev
it
+ β
5
×Nonint
it
 + β
6
×Size
it
+ β
7
×Profit
it
 + γ
1
×Inf
it
 + 
γ
2
×Gdpgr
it
 + γ
4
×Unemploy
it
 + 
γ
5
Exrate
it
 + ε
it
 (3)
3.3. Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp hồi quy được sử 
dụng là phương pháp hồi quy 
GMM sai phân (difference 
GMM). Các nghiên cứu trước 
đây khi sử dụng phương pháp 
hồi quy GMM đều cho rằng