Mục đích: Mục đích của nghiên cứu là xác định các yếu tố liên quan đến biến chứng đau sau phẫu thuật trĩ
bằng máy khâu nối.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu được thực hiện là nghiên cứu cắt dọc, can thiệp lâm sàng. Mẫu nghiên
cứu bao gồm các trường hợp trĩ độ 3 hoặc độ 4 được áp dụng phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối từ
tháng 12/2009 đến tháng 5/2010. Mức độ đau sau mổ được đánh giá bằng thang điểm NRS. Các yếu tố đưa vào
phân tích tương quan gồm có tuổi, giới tính, vị trí đường khâu nối, việc xử lý thương tổn khác tại chỗ, sự hiện
diện của tế bào biểu mô ống hậu môn và sợi cơ trơn trong khoanh niêm mạc trực tràng, tụ máu đường khâu nối,
tụ máu khoanh niêm mạc trực tràng và bầm máu quanh hậu môn.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu bao gồm 97 bệnh nhân, tuổi trung bình là 46,69 tuổi. 18,56% trường hợp đau
nhiều sau mổ. Tỷ lệ bệnh nhân đau nhiều sau mổ trong nhóm có khoảng cách đường lược – đường khâu nối < 2
cm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có khoảng cách đường lược – đường khâu nối ≥ 2 cm (p = 0,03).
Biến chứng này cũng có tương quan với việc xử lý thương tổn khác tại chỗ (p = 0,006), sự hiện diện của tế bào
biểu mô ống hậu môn trong khoanh niêm mạc trực tràng (p = 0,04), tụ máu khoanh niêm mạc trực tràng (p =
0,03) và bầm máu quanh hậu môn (p = 0,02).
Kết luận: Biến chứng đau nhiều sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối có thể tránh khỏi nếu chỉ định đúng
và được tiến hành cẩn thận bởi những phẫu thuật viên chuyên khoa nhiều kinh nghiệm.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố nguy cơ gây đau sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 134
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY ĐAU SAU PHẪU THUẬT TRĨ
BẰNG MÁY KHÂU NỐI
Trần Thị Mai Trang*, Lê Minh Trí**, Nguyễn Trung Tín***
TÓM TẮT
Mục đích: Mục đích của nghiên cứu là xác định các yếu tố liên quan đến biến chứng đau sau phẫu thuật trĩ
bằng máy khâu nối.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu được thực hiện là nghiên cứu cắt dọc, can thiệp lâm sàng. Mẫu nghiên
cứu bao gồm các trường hợp trĩ độ 3 hoặc độ 4 được áp dụng phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối từ
tháng 12/2009 đến tháng 5/2010. Mức độ đau sau mổ được đánh giá bằng thang điểm NRS. Các yếu tố đưa vào
phân tích tương quan gồm có tuổi, giới tính, vị trí đường khâu nối, việc xử lý thương tổn khác tại chỗ, sự hiện
diện của tế bào biểu mô ống hậu môn và sợi cơ trơn trong khoanh niêm mạc trực tràng, tụ máu đường khâu nối,
tụ máu khoanh niêm mạc trực tràng và bầm máu quanh hậu môn.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu bao gồm 97 bệnh nhân, tuổi trung bình là 46,69 tuổi. 18,56% trường hợp đau
nhiều sau mổ. Tỷ lệ bệnh nhân đau nhiều sau mổ trong nhóm có khoảng cách đường lược – đường khâu nối < 2
cm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có khoảng cách đường lược – đường khâu nối ≥ 2 cm (p = 0,03).
Biến chứng này cũng có tương quan với việc xử lý thương tổn khác tại chỗ (p = 0,006), sự hiện diện của tế bào
biểu mô ống hậu môn trong khoanh niêm mạc trực tràng (p = 0,04), tụ máu khoanh niêm mạc trực tràng (p =
0,03) và bầm máu quanh hậu môn (p = 0,02).
Kết luận: Biến chứng đau nhiều sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối có thể tránh khỏi nếu chỉ định đúng
và được tiến hành cẩn thận bởi những phẫu thuật viên chuyên khoa nhiều kinh nghiệm.
Từ khóa: thang điểm NSR, phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối, đau sau phẫu thuật, trĩ.
ABSTRACT
RISK FACTORS ASSOCIATED WITH POSTOPERATIVE PAIN AFTER STAPLED
HEMORRHOIDECTOMY
Tran Thi Mai Trang, Le Minh Tri, Nguyen Trung Tin
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 134 - 140
Purpose: The purpose of the study was to determine the variables associated with postoperative pain after
stapled hemorrhoidectomy.
Methods: The study design was the longitudinal, interventional study. Patients with grade III to IV
hemorrhoidal disease who underwent stapled hemorrhoidectomy from December 2009 to May 2010 were
prospectively included. Postoperative pain was evaluated by means of a numeric rating scale. The variables
analyzed included age, gender, level of staple line, additional procedure, presence of anal epithelium and muscle
fibers in the resected specimen, hematoma of the staple li ne, hematoma of specimen and perianal hematoma.
Results: 97 patients with a mean age of 46.69 years were included. 18.56% patients had severe
* Bộ môn Ngoại Tổng quát, Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
** Khoa Giải phẫu bệnh – BV Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre
*** Bộ Môn Ngọai Tổng Quát– Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Trần Thị Mai Trang, ĐT: 0907681115, Email: tranthimaitrang@yahoo.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 135
postoperative pain. Severe pain was more frequently in patients with staple line height < 2 cm than in
patients with staple line height ≥ 2 cm (p = 0.03). This complication was also associated with additional
procedure (p= 0.006), presence of anal epithelium in the resected specimen (p = 0.04), hematoma of specimen
(p = 0.03) and perianal hematoma (p = 0.02).
Conclusions: Severe postoperative pain after stapled hemorrhoidectomy seems to be avoidable with correct
indications and carefully performance by experienced colorectal surgeons.
Keywords: numeric rating scale, stapled hemorrhoidectomy, postoperative pain, hemorrhoid.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau sau mổ vốn không phải là biến chứng
của phẫu thuật. Nhưng với phẫu thuật điều trị
bệnh trĩ, vết thương ở vùng nhạy cảm khiến
cho tình trạng đau nhiều sau mổ thật sự là nỗi
ám ảnh của bệnh nhân. Phương pháp phẫu
thuật trĩ bằng máy khâu nối cùng lúc cắt một
khoanh niêm – dưới niêm mạc của trực tràng
và khâu vị trí cắt lại, không can thiệp vào vùng
da quanh hậu môn nên ít gây đau sau mổ(12).
Vì vậy, kỹ thuật này được đánh giá là một
bước đột phá mới, có ý nghĩa quan trọng trong
điều trị bệnh trĩ.
Nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng đã được tiến hành để
so sánh phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối với
các phương pháp cắt trĩ thông thường khác, kết
quả cho thấy phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối
rõ ràng ít đau hơn(6,7,8,19,20). Nhưng sau một thời
gian áp dụng, bắt đầu xuất hiện một số báo cáo
về các trường hợp đau nhiều kéo dài sau mổ
bằng phương pháp này. Ortiz(17) ghi nhận được
1/27 trường hợp đau kéo dài hơn 14 tuần.
Sileri(22) sau 1 năm theo dõi phát hiện 3/66 bệnh
nhân vẫn còn đau dữ dội. Rầm rộ và nghiêm
trọng hơn, Cheetham(4) báo cáo 5 trường hợp
(31%) đau hậu môn kèm đi cầu gấp kéo dài hơn
7 – 15 tháng theo dõi.
Các kết quả nghiên cứu khác nhau gây ra
nhiều tranh luận. Một số nghiên cứu đã được
tiến hành nhằm xác định các yếu tố nguy cơ gây
đau nhiều sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu
nối(3,16). Ở Việt Nam, nhiều nơi đã áp dụng và
báo cáo kết quả điều trị của phương pháp
này(1,15,14). Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều
quan tâm đến kết quả chung của phẫu thuật mà
không khảo sát các yếu tố liên quan đến biến
chứng, đặc biệt là biến chứng đau nhiều sau mổ.
Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm xác định các yếu tố nguy cơ gây đau sau
phẫu thuật điều trị bệnh trĩ bằng máy khâu nối.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân
được áp dụng phương pháp phẫu thuật trĩ bằng
máy khâu nối tại Bệnh viện Bình Dân từ tháng
12/2009 đến tháng 5/2010, thỏa tất cả các tiêu
chuẩn sau:
Là người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.
Có chẩn đoán trước mổ là trĩ nội độ 3, trĩ nội
độ 4 hoặc trĩ hỗn hợp.
Có sự tham gia của chúng tôi trong quá trình
phẫu thuật.
Có khoanh niêm mạc và dưới niêm mạc trực
tràng cắt ra được gởi giải phẫu bệnh lý.
Có địa chỉ và/hoặc số điện thoại có thể liên
hệ được sau thời gian theo dõi 1 tháng.
Bên cạnh đó, chúng tôi loại trừ khỏi nhóm
nghiên cứu những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn
chọn mẫu nhưng thuộc các đối tượng:
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Không có khả năng hiểu và trả lời câu hỏi.
Cỡ mẫu cho nghiên cứu được tính theo công
thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ:
2
2
2/1
)1(
d
ppZn −=
−α
Trong đó:
n : cỡ mẫu tối thiểu phải có.
2
)2/1( α−z : hệ số tin cậy,
2
)2/1( α−z = 1,962 ở
khoảng tin cậy 95%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 136
p: tỷ lệ biến chứng đau của phương pháp
phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối. Theo Ravo và
cộng sự, p = 6,7%(21).
d: sai số tuyệt đối so với thực tế, chọn d =
0,05.
96
05,0
933,0067,096,1 2
2
≈
×
×=⇒ n
Vậy cỡ mẫu tối thiểu phải có là 96 bệnh
nhân.
Ước lượng tỷ lệ bệnh nhân không liên lạc
được sau 1 tháng là 10% thì số bệnh nhân cần
phải có là ≥ 106 bệnh nhân.
Thiết kế nghiên cứu được thực hiện là
nghiên cứu cắt dọc, can thiệp lâm sàng.
Phẫu thuật được tiến hành dựa theo kỹ
thuật của Longo(11), cùng lúc cắt bỏ một khoanh
niêm mạc – dưới niêm mạc trực tràng và khâu vị
trí cắt lại bằng máy khâu nối. Các trường hợp
phẫu thuật đều sử dụng bộ máy khâu nối PPH
03 – Ethicon, nhưng vị trí đặt mũi khâu túi, cách
cầm máu đường khâu nối, khác nhau tùy
theo phẫu thuật viên và tình trạng bệnh nhân.
Khoanh niêm mạc trực tràng cắt ra được khảo
sát vi thể để xác định sự hiện diện của tế bào
biểu mô ống hậu môn và sợi cơ trơn, do một bác
sĩ độc lập với nghiên cứu ghi nhận.
Mức độ đau sau mổ được đánh giá bằng
thang điểm NRS (0: hoàn toàn không đau; 10:
đau dữ dội không chịu đựng nổi)(2), ghi nhận
qua phỏng vấn trực tiếp trong thời gian nằm
viện và phỏng vấn bằng điện thoại 1 tháng sau
mổ. Bệnh nhân được hướng dẫn sử dụng thước
đo NRS để tự đánh giá mức độ đau khi sinh
hoạt bình thường và khi đi cầu trong tuần đầu
tiên sau mổ, lúc cảm thấy đau nhiều nhất.
Hình 1. Thang điểm đánh giá đau NRS.
Điểm NRS 1 – 3 : đau ít.
Điểm NRS 4 – 6 : đau vừa.
Điểm NRS 7 – 10 : đau nhiều.
Nếu điểm NRS ≥ 7, bệnh nhân được xác
định là có biến chứng đau nhiều sau mổ. Nếu
tình trạng này kéo dài sang ngày hậu phẫu thứ
7, bệnh nhân được xác định là có biến chứng
đau kéo dài sau mổ.
Các yếu tố đưa vào phân tích tương quan
gồm có tuổi, giới tính, vị trí đường khâu nối,
việc xử lý thương tổn khác tại chỗ, sự hiện diện
của tế bào biểu mô ống hậu môn và sợi cơ trơn
trong khoanh niêm mạc trực tràng, tụ máu
đường khâu nối, tụ máu khoanh niêm mạc trực
tràng và bầm máu quanh hậu môn.
Các dữ liệu được xử lý và phân tích bằng
phần mềm SPSS 13.0.
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2009
đến tháng 5/2010, tại bệnh viện Bình Dân
TP.HCM, chúng tôi ghi nhận được 106 bệnh
nhân đủ tiêu chuẩn chọn mẫu, trong đó có 97
bệnh nhân liên hệ phỏng vấn được sau thời
gian theo dõi 1 tháng.
Mẫu nghiên cứu gồm có 49 bệnh nhân nam
(50,52%) và 48 bệnh nhân nữ (49,48%). Tuổi
trung bình của bệnh nhân là 46,69 ± 13,88 tuổi.
Tuổi thấp nhất là 21, tuổi cao nhất là 93.
Các trường hợp trĩ nội độ 3 chiếm đa số
trong mẫu nghiên cứu (85 bệnh nhân, 87,63%),
còn lại 7 bệnh nhân (7,22%) có trĩ nội độ 4 và 5
bệnh nhân (5,15%) có trĩ hỗn hợp.
55 bệnh nhân (56,70%) được tiến hành phẫu
thuật Longo đơn thuần; 42 bệnh nhân còn lại
(43,30%) cần kết hợp xử lý các thương tổn khác
tại chỗ, bao gồm cắt da thừa, cắt trĩ và cắt nhú
gai phì đại.
Có 3 trường hợp (3,09%) đứt chỉ khi bấm
máy, không cắt trọn được khoanh niêm mạc
trực tràng. Khảo sát vi thể tìm thấy cơ trơn ở 91
trường hợp (93,81%), trong đó, 8 trường hợp
(8,25%) có thêm sự hiện diện của tế bào biểu mô
ống hậu môn. 8 trường hợp này đều là bệnh
nhân nam, tương quan giữa giới tính nam và sự
hiện diện của tế bào biểu mô ống hậu môn trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 137
khoanh niêm mạc trực tràng có ý nghĩa thống kê
(p = 0,006). Chúng tôi cũng tìm được sự tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa vị trí đường khâu
nối và sự hiện diện của tế bào biểu mô ống hậu
môn (p = 0,05).
Biến chứng đau nhiều trong tuần đầu tiên
sau mổ gặp ở 18 bệnh nhân, chiếm 18,56%. Sau
mổ 1 tuần, chỉ còn 5 bệnh nhân đau nhiều,
chiếm 5,15%. Các bệnh nhân còn lại (92 bệnh
nhân, 94,85%) đều không đau hoặc đau ít,
nhưng cảm giác đau này tồn tại khá lâu. Có 21
bệnh nhân (21,65%) chưa hết đau hẳn khi phỏng
vấn lại sau thời gian theo dõi 1 tháng.
Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ gây đau nhiều sau mổ
(N = 97).
Đau nhiều sau
mổ (%)
Yếu tố
Có
(n = 18)
Không
(n = 79)
p
Giới nữ 55,56 48,10 0,57
Tuổi > 60 tuổi 5,56 16,46 0,46 (*)
Khoảng cách đường lược –
đường khâu nối < 2 cm
27,78 7,59 0,03 (*)
Xử lý thương tổn khác tại chỗ 72,22 36,71 0,006
Cósợi cơ trơn/khoanh niêm mạc
trực tràng
100 92,41 0,59 (*)
Có tế bào biểu mô ống hậu
môn/khoanh niêm mạc trực tràng
22,22 5,06 0,04 (*)
Tụ máu đường khâu nối 16,67 8,86 0,39 (*)
Tụ máu khoanh niêm mạc trực
tràng
61,11 32,91 0,03
Bầm máu quanh hậu môn 22,22 3,80 0,02 (*)
(*): Kiểm định Fisher.
Chúng tôi tìm thấy mối tương quan giữa
biến chứng đau nhiều sau mổ với các yếu tố:
khoảng cách từ đường lược đến đường khâu
nối, phương pháp phẫu thuật (có hay không có
xử lý thương tổn khác tại chỗ), sự hiện diện của
tế bào biểu mô ống hậu môn trong khoanh niêm
mạc trực tràng, tụ máu khoanh niêm mạc trực
tràng và bầm máu quanh hậu môn (bảng 1).
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ biến
chứng đau nhiều sau mổ là 18,56%. Sau mổ 1
tuần, tỷ lệ này còn 5,15%. Có lẽ do khác nhau về
quy ước xác định biến chứng mà tỷ lệ đau nhiều
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với
kết quả của các tác giả khác (bảng 2).
Bảng 2: Biến chứng đau nhiều sau mổ ở các nghiên
cứu.
Tác giả Số bệnh
nhân
Trong tuần
đầu tiên sau
mổ (%)
Kéo dài hơn 1
tuần sau mổ
(%)
Oughriss và cs(18) 550 2,3 1,6
Ravo và cộng sự (21) 1107 5 1,7
Chúng tôi 97 18,56 5,15
5 trường hợp đau nhiều kéo dài hơn 1 tuần
sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi đều bắt
đầu giảm đau dần ở ngày hậu phẫu thứ 8 – 9 và
lần lượt hết hẳn ở các ngày hậu phẫu thứ 11, 20
và 28, riêng 2 trường hợp chưa hết đau hẳn khi
phỏng vấn lại sau 1 tháng nhưng mức độ đau
không đáng kể. Cheetham(4) báo cáo 5 trường
hợp (31%) đau hậu môn kèm đi cầu gấp kéo dài
suốt 7 – 15 tháng theo dõi, sau đó tác giả thôi
không tiếp tục nghiên cứu. Ortiz(17) cũng ghi
nhận được 1 trường hợp đau kéo dài hơn 14
tuần. Ngoài ra, hầu hết các nghiên cứu khác đều
không có trường hợp nào đau kéo dài sau thời
gian theo dõi 1 – 2 năm(1,7,8,20). Nghiên cứu của
chúng tôi có tất cả 21 bệnh nhân (21,65%) còn
đau hậu môn 1 tháng sau mổ, đa số được mô tả
như cảm giác vướng, tức mơ hồ ở hậu môn hoặc
chỉ thốn khi ngồi lâu hay khi đi cầu bón. Vì thời
gian theo dõi ngắn nên chúng tôi chưa thể xác
định các trường hợp trên có tiếp tục đau kéo dài
hay không. Tuy nhiên, kết quả ghi nhận được
đến thời điểm này có thể cho thấy chúng tôi
không gặp trường hợp nào có tình trạng đau
như Cheetham đã đề cập.
Theo Duthie và Gairns(5), vùng trên và dưới
đường lược 0,5 – 1,5 cm rất nhạy cảm với cảm
giác đau trong khi trực tràng hầu như không
có đầu mút thần kinh tiếp nhận cảm giác này.
Trên cơ sở đó, các phẫu thuật trên đường lược
ra đời nhằm khắc phục biến chứng đau nhiều
sau mổ trĩ. Đối với phương pháp phẫu thuật
trĩ bằng máy khâu nối, Longo(12) đề nghị đặt
mũi khâu túi trên đường lược 4 – 5 cm để sau
khi cắt khoanh niêm mạc trực tràng, đường
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 138
khâu nối nằm trên đường lược ít nhất 2 cm. Sự
hiện diện của tế bào biểu mô ống hậu môn
trong khoanh niêm mạc trực tràng chứng tỏ có
tổn thương đến vùng nhạy cảm phía trên
đường lược, đồng thời được xem như yếu tố
phản ảnh vị trí đường khâu nối(16). Chúng tôi
cũng tìm thấy sự tương quan có ý nghĩa thống
kê giữa hai yếu tố này (p = 0,05). Tuy nhiên, có
5 bệnh nhân có khoảng cách đường khâu nối –
đường lược từ 2 cm trở lên nhưng khảo sát vi
thể khoanh niêm mạc trực tràng vẫn tìm thấy
tế bào biểu mô ống hậu môn. Đó có thể do cấu
trúc mô học vùng hậu môn – trực tràng, nơi
chuyển tiếp từ biểu mô lát tầng không sừng
hóa thành biểu mô vuông tầng cách đường
lược một khoảng cách không hằng định, đồng
thời sự chuyển tiếp có thể không đều trên
cùng mặt phẳng ngang(5). Thực tế, trong
nghiên cứu của chúng tôi, tất cả trường hợp có
tế bào biểu mô ống hậu môn trong khoanh
niêm mạc đều là bệnh nhân nam – vốn có ống
hậu môn dài hơn, tương quan giữa giới tính
nam và sự hiện diện của tế bào lát tầng là có ý
nghĩa thống kê (p = 0,006), phù hợp với báo
cáo của Sileri và cộng sự (66,7% trường hợp có
tế bào biểu mô ống hậu môn trong khoanh
niêm mạc là bệnh nhân nam)(22). Từ đó cho
thấy khoảng cách đường khâu nối – đường
lược quan sát được khi kết thúc phẫu thuật chỉ
giúp tiên lượng được phần nào về sự hiện diện
của tế bào biểu mô ống hậu môn trong khoanh
niêm mạc đã cắt. Mặc dù vậy, qua so sánh
thống kê chúng tôi vẫn tìm được mối tương
quan có ý nghĩa giữa khoảng cách này với biến
chứng đau nhiều sau mổ (p = 0,03). Trong khi
đó, theo kết quả của Gravié và cộng sự(7), mối
tương quan giữa mức độ đau và vị trí đường
khâu nối không có ý nghĩa thống kê (p =
0,977).
Giống như một số nghiên cứu khác(3,16),
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân đau nhiều
sau mổ trong nhóm có sự hiện diện của tế bào
biểu mô ống hậu môn/khoanh niêm mạc trực
tràng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
không có sự hiện diện của tế bào biểu mô (p =
0,04). Sileri và cộng sự không xác định được mối
tương quan này(22). Ngược lại, theo báo cáo của
Cheetham, không có tế bào biểu mô ống hậu
môn trong khoanh niêm mạc cắt ra ở cả 5 bệnh
nhân đau kéo dài nhưng lại hiện diện ở 2 trường
hợp không biến chứng. Tuy nhiên, sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê(4).
Trong báo cáo trên, Cheetham tìm thấy
mối tương quan giữa tình trạng đau kéo dài
với sự hiện diện của sợi cơ trơn (p = 0,012),
xuất hiện ở 4 bệnh nhân trong 5 trường hợp có
biến chứng(4). Theo tác giả, đây có thể là yếu tố
liên quan đến đau sau mổ nhưng không phải
là nguyên nhân chắc chắn và duy nhất. Chúng
tôi không tìm thấy mối tương quan này, phù
hợp với kết quả của một số tác giả khác(3,13,16,22).
Giải thích cho những trường hợp đau nhiều
nhưng khoanh niêm mạc không có cơ trơn,
Ravo cho rằng các sợi cơ trơn không bị cắt ra
nhưng đã bị đính vào đường khâu nối(21).
Chúng tôi chưa gặp nghiên cứu nào chứng
minh hoặc phản bác suy luận này.
Có ý kiến cho rằng tụ máu đường khâu là
một yếu tố gây đau sau mổ(9). Racalbuto báo
cáo 1 bệnh nhân đau nhiều do có máu tụ dưới
niêm mạc ở đường khâu nối, hết đau 10 ngày
sau phẫu thuật dẫn lưu(20). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ đau nhiều trong nhóm có
tụ máu đường khâu nối (30%) cao hơn nhóm
không tụ máu (17,24%), nhưng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,39). Quan sát
khoanh niêm mạc trực tràng cắt ra, chúng tôi
ghi nhận có máu tụ ở 37 trường hợp, tỷ lệ đau
nhiều trong nhóm tụ máu khoanh niêm mạc
trực tràng cao hơn đáng kể so với nhóm không
có tụ máu (p = 0,03). Chúng tôi cho rằng tụ
máu khoanh niêm mạc trực tràng cắt ra là dấu
hiệu gián tiếp của tình trạng tụ máu trong
đường khâu nối với kích thước nhỏ nên không
phát hiện được trực tiếp. Tuy nhiên, chưa thấy
tài liệu nào đề cập đến vấn đề này.
Xét các yếu tố liên quan đến tổn thương
vùng rìa hậu môn là tình trạng bầm máu
quanh hậu môn sau mổ và việc có xử lý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 139
thương tổn khác tại chỗ, chúng tôi đều tìm
được tương quan có ý nghĩa thống kê với biến
chứng đau nhiều (p lần lượt là 0,02 và 0,006).
Bản thân phẫu thuật Longo không giải quyết
được các thương tổn tại chỗ kèm theo nhưng
việc xử lý các thương tổn này lại làm giảm đi
ưu điểm ít đau của phẫu thuật.
Chúng tôi không tìm được mối tương quan
có ý nghĩa thống kê giữa biến chứng đau với
các yếu tố tuổi và giới tính. Theo Lê Thiện
Hiếu(10), giới nam có tỷ lệ đau vừa và đau
nhiều cao hơn giới nữ đáng kể (p = 0,003), có lẽ
do thời điểm ghi nhận và cách xác định đau
khác với chúng tôi.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh
nhân đau nhiều sau mổ khá cao, có liên quan
đến các yếu tố: khoảng cách từ đường lược
đến đường khâu nối < 2 cm; có tế bào biểu mô
ống hậu môn trong khoanh niêm mạc – dưới
niêm mạc trực tràng; có tụ máu ở khoanh niêm
mạc – dưới niêm mạc trực tràng; có xử lý
thương tổn khác tại chỗ kèm theo và có bầm
máu quanh hậu môn.
Đây là các yếu tố thuộc về kỹ thuật mổ. Như
vậy, mặc dù các thao tác của phương pháp phẫu
thuật trĩ bằng máy khâu nối có vẻ đơn giản
nhưng vẫn cần được tiến hành bởi một phẫu
thuật viên chuyên khoa nhiều kinh nghiệm, nắm
rõ các sai sót có thể xảy ra và hậu quả kèm theo.
Hơn nữa, sự cẩn thận khi thực hiện phẫu thuật
là điều hết sức quan trọng để tránh biến chứng
cho bệnh nhân, ngay cả ở các bác sĩ đã quen
thuộc với phương pháp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Basdanis G., Papadopoulos V. N., Michalopoulos A.,
Apostolidis S., Harlaftis N. (2005), "Randomized clinical trial of
stapled hemorrhoidectomy vs open with Ligasure for
prolapsed piles", Surg Endosc, 19 (2), pp. 235-239.
2 Breivik H., Borchgrevink P. C., Allen S. M., Rosseland L. A.,
Romundstad L., Hals E. K., Kvarstein G., Stubhaug A. (2008),
"Assessment of pain", Br J Anaes