Mở đầu: Tổn thương thần kinh ngoại biên trong bệnh phong thường dẫn đến tàn phế đặc biệt là lỗ đáo, nếu không xử lý tốt sẽ dẫn đến biến chứng nguy hiểm hơn, đó là carcinôm dạng mụn cóc (một dạng lâm sàng của carcinôm tế bào gai). Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu hồi cứu, chúng tôi ghi nhận 27 trường hợp có bướu sùi ở bàn chân được sinh thiết từ trại Phong Bến Sắn từ 1989-2005. Kết quả : 27 trường hợp thì đa số các trường hợp đều nằm ở phong thể BT, BB và BL, 1 trường hợp ở LL, không có trường hợp nào ở thể TT. Có 3 trường hợp di căn hạch : 2 thể BL và 1 thể LL. 17 trường hợp ở vị trí 1/3 sau gan bàn chân. 10 trường hợp ở vị trí 1/3 trước gan bàn chân. Tỷ lệ nam, nữ là 19:8 (nam gấp đôi nữ). Kết luận : Bệnh nhân có bướu sùi trên nền lỗ đáo nên được theo dõi thường xuyên một cách cẩn thận để tránh biến chứng ung thư.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Carcinôm dạng mụn cóc trên nền lỗ đáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 179
CARCINÔM DẠNG MỤN CÓC TRÊN NỀN LỖ ĐÁO
Hà Văn Phước*, Phạm Văn Bắc*, Nguyễn Kim Khoa*
TÓM TẮT
Mở đầu: Tổn thương thần kinh ngoại biên trong bệnh phong thường dẫn đến tàn phế đặc biệt là lỗ đáo, nếu
không xử lý tốt sẽ dẫn đến biến chứng nguy hiểm hơn, đó là carcinôm dạng mụn cóc (một dạng lâm sàng của
carcinôm tế bào gai).
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu hồi cứu, chúng tôi ghi nhận 27 trường hợp
có bướu sùi ở bàn chân được sinh thiết từ trại Phong Bến Sắn từ 1989-2005.
Kết quả : 27 trường hợp thì đa số các trường hợp đều nằm ở phong thể BT, BB và BL, 1 trường hợp ở LL,
không có trường hợp nào ở thể TT. Có 3 trường hợp di căn hạch : 2 thể BL và 1 thể LL. 17 trường hợp ở vị trí 1/3
sau gan bàn chân. 10 trường hợp ở vị trí 1/3 trước gan bàn chân. Tỷ lệ nam, nữ là 19:8 (nam gấp đôi nữ).
Kết luận : Bệnh nhân có bướu sùi trên nền lỗ đáo nên được theo dõi thường xuyên một cách cẩn thận để
tránh biến chứng ung thư.
Từ khóa: Carcinôm dạng mụn cóc, bệnh phong.
ABSTRACT
VERRUCOUS CARCINOMA ON THE PLANTAR ULCER
Ha Van Phuoc, Pham Van Bac, Nguyen Kim Khoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 179 - 183
Introduction: Peripheral nerve damage in leprosy often leads to disability, especially plantar ulcer. Without
appropriate care, this disability can result in dangerous complication such as verrucous carcinoma.
Material and method: This is a retrospective study on 27 cases with papilloma on foot at Ben San leprosy
Treatment Center from 1989 to 2005.
Results: Most cases were BT, BB and BL leprosy.There was one case of LL leprosy and no TT leprosy case.
There were 3 cases of lymph node metastasis with 2 BL and 1 LL, 17 cases on the heel, 10 cases on the fone foot.
Male/ female ratio is 19:8.
Conclusion: The patients with papilloma on plantar ulcer should be regularly and carefully followed up to
prevent cancer.
Key words: verrucous carcinorma, leprosy.
MỞ ĐẦU
Phong là một bệnh nhiễm khuẩn mạn tính
được gây ra bởi Mycobacterium leprae, chủ yếu
ảnh hưởng lên da và thần kinh ngoại biên. Vấn
đề lớn nhất trong bệnh phong là làm tổn thương
thần kinh ngoại biên dẫn đến tàn phế và các
biến chứng khác lâu dài về sau.
Tổn thương thần kinh ngoại biên là kết quả
của sự thay đổi về tình trạng miễn dịch (phản
ứng đảo nghịch) cũng như sự hiện diện của vi
khuẩn Hansen trong thần kinh hay là kết quả
của sự xơ hóa thần kinh ngoại biên do tình trạng
viêm nhiễm kéo dài. Và chính tình trạng viêm
thần kinh ngoại biên mạn tính sẽ dẫn đến rối
loạn về cảm giác và vận động, đặc biệt là chi
dưới đưa đến hình thành lỗ đáo. Nếu không xử
lý thích hợp thì từ lỗ đáo sẽ phát triển gây tổn
*Bệnh viện Da Liễu TP. Hồ chí Minh.
Tác giả liên lạc: Ths.BS. Hà Văn Phước ĐT: 0904.126.836
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 180
thương phần mềm và xương với biến chứng
thường gặp là viêm xương – tủy xương.
Một biến chứng khác hiếm gặp nhưng nguy
hiểm hơn đó là carcinôm dạng mụn cóc hay còn
gọi là Epithélioma Cuniculatum là một dạng
lâm sàng đặc biệt của carcinôm tế bào gai với độ
ác tính thấp.
Carcinôm dạng mụn cóc đã được mô tả đầu
tiên vào năm 1941(7) và sau đó một vài năm cũng
đề cập đến các tổn thương ác tính hiện diện trên
nền lỗ đáo của bệnh Hansen. Mục đích của đề
tài này là chúng tôi muốn giới thiệu 27 trường
hợp carcinôm dạng mụn cóc tại trại phong Bến
Sắn và Bệnh viện Da Liễu từ năm 1989-2005.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát carcinôm dạng mụn cóc trên nền lỗ
đáo u sùi ở bệnh nhân phong.
Mục tiêu chuyên biệt
1. Tỉ lệ carcinôm dạng mụn cóc trên nền lỗ
đáo u sùi ở bệnh nhân phong.
2. Mô tả đặc điểm dịch tễ lâm sàng của
carcinôm dạng mụn cóc.
3. Mô tả đặc điểm vi thể của carcinôm dạng
mụn cóc.
Tổng quan tài liệu
Carcinôm dạng mụn cóc đã được mô tả đầu
tiên vào năm 1941 và sau đó một vài năm cũng
đề cập đến các tổn thương ác tính hiện diện trên
nền lỗ đáo của bệnh Hansen.
Carcinôm dạng mụn cóc thường có độ ác
tính thấp, vị trí thường gặp là miệng, thanh
quản, mũi hay cơ quan sinh dục nhưng cũng có
thể xảy ra ở các vị trí khác.
Carcinôm dạng mụn cóc nếu ở miệng thì
được gọi là Oral florid papillomatosis, sang
thương có hình dạng giống bông cải có thể
chiếm 1 vùng lớn trong miệng.
Carcinôm dạng mụn cóc ở bộ phận sinh dục
thì được gọi là giant condylamata acuminatum
của Busckhe và Lowenstein vị trí thường gặp ở
qui đầu và bao qui đầu ở người đàn ông bị hẹp
bao qui đầu, bướu này cũng có thể xảy ra ở âm
hộ và vùng hậu môn ở phụ nữ.
Carcinôm dạng mụn cóc ở gan bàn chân thì
được gọi là epithelioma cuniculatum, xuất hiện
đầu tiên giống như mụn cóc sau đó phát triển
lan ra giống như hình bông cải.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu hồi cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số đích
Tất cả các bệnh nhân phong có u sùi trên
nền lỗ đáo.
Dân số chọn mẫu
Các bệnh nhân phong có u sùi trên nền lỗ
đáo tại trại phong Bến Sắn và bệnh viện Da Liễu
TP. Hồ chí Minh từ 1989-2005 thỏa các tiêu
chuẩn sau:
Phương pháp chọn mẫu
Tất cả các trường hợp đạt tiêu chuẩn chọn
mẫu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân phong có u sùi trên nền lỗ đáo
nghĩ nhiều đến ác tính. Đồng ý tham gia nghiên
cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có rối loạn đông máu không sinh
thiết được.
Phương pháp tiến hành
Tất cả các bệnh nhân phong có tiêu chuẩn
chọn mẫu và không có tiêu chuẩn loại trừ sẽ
được chúng tôi tiến hành các bước sau:
Ghi nhận các đặc điểm dân số học: tên, tuổi,
giới tính.
Ghi nhận các đặc điểm lâm sàng.
Chúng tôi ghi nhận 27 trường hợp có bướu
sùi ở bàn chân được sinh thiết và gửi đến phòng
giải phẫu bệnh từ trại phong Bến Sắn và phòng
mổ của bệnh viện. Sau đó được cố định bằng
formol 10%, khử nước và vùi nến, cắt lát mỏng 5
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 181
m và được nhuộm bằng phương pháp H.E
(Hematoxylin và Éosin).
KẾT QUẢ
Qua 27 trường hợp chúng tôi có nhận xét:
Bảng 1 : Phân bố tuổi
Tuổi 41 – 50 51 – 60 61 – 70 71 – 80 Cộng
Nam 2 2 10 5 19
Nữ 3 5 8
Cộng 5 7 10 5 27
Bảng 2: Phân bố thể bệnh theo tiêu chuẩn của Ridley-
Jopling
Thể TT BT BB BL LL
Số trường hợp
carcinôm 8 12 6 1
Số trường hợp
di căn hạch 2 1
Bảng 3: Vị trí bướu sùi trên gan bàn chân
Vị trí Phải Trái Tổng Cộng
1/3 sau 7 10 17
1/3 trước 5 5 10
Tổng Cộng 12 15 27
Bảng 4: Độ biệt hóa mô học của carcinôm tế bào gai
Độ mô
học Độ I Độ II Độ III Độ IV
Tổng
Cộng
Số ca 25 2 0 0 27
Tỷ lệ 92.59% 7.41% 0 0 100%
Độ I : Hơn 75% tế bào gai biệt hóa.
Độ II : Hơn 50% tế bào gai biệt hóa.
Độ III : Hơn 25% tế bào gai biệt hóa.
Độ IV : Ít hơn 25% tế bào gai biệt hóa.
BÀN LUẬN
Carcinôm tế bào gai được xem như là biến
chứng xảy ra ở các vết loét kinh niên trong các
bệnh nhu u hạt bẹn, lupus lao, lupus đỏ kinh
niên, viêm xương tủy xương dò ra da, các seọ
bỏng lâu năm và các vết loét dinh dưỡng vì là
mạn tính do đó thường xảy ra ở người lớn tuổi.
Người nhỏ tuổi nhất được ghi nhận là 45 tuổi và
lớn tuổi nhất là 73 tuổi. Khoảng tuổi chiếm
nhiều nhất là 61-70 tuổi, nói chung đỉnh cao của
carcinôm tế bào gai là 60(6). Tỷ lệ thóai hóa từ
bướu sùi lành tính chuyển sang ác tính thì thực
tế là một số lượng tương đối nhỏ và ít được nêu
lên các y văn. Ở đây chúng tôi ghi nhận với tỷ lệ
là 10,8% (27 trường hợp carcinôm dạng mụn cóc
được ghi nhận qua 250 mẫu sinh thiết). Tỷ lệ
này cũng gần phù hợp với số liệu của các tác giả
như ở Brazin là 17%(5), ở Thái Lan là 1%-8%(7) tùy
theo các trại phong và theo một số tác giả khác
thì tỷ lệ này thay đổi từ 1% đến 15%(5).
Nam thường bị nhiều hơn giới nữ với tỷ lệ
là 19 nam so với 8 nữ (nam gấp 2 lần nữ).
Sau đây là một vài số liệu liên quan về giới
tính ở các nghiên cứu khác :
Nam Nữ
Népal 15 2
Thái Lan 30 8
Brazin 12 4
Nigeria 5 0
Tỷ lệ nữ bị ít hơn nam có lẽ là do bị lỗ đáo
người phụ nữ họ chăm sóc vết loét cẩn thận hơn
nam cũng như khi lao động ở ngoài, họ thường
mang dép hay mang giày thường xuyên hơn
nam do đó ít bị tổn thương viêm sùi mạn tính ở
lỗ đáo và hạn chế được biến chứng ung thư hóa.
Xét về phân bố thể loại theo tiêu chuẩn của
Ridley và Jopling thì ta thấy nhóm thể phong
giáp biên gần củ (BT) (8 trường hợp) và thể
phong giáp biên (BB) (12 trường hợp) là bị
carcinôm nhiều nhất trong khi đó nhóm thể
phong u (LL) (1 trường hợp) chiếm ít và chúng
tôi ghi nhận không có trường hợp nào ở thể
phong củ (TT).
Như vậy ở nhóm thể phong giáp biên
(Bordeline) như thể BT-BB- phong giáp biên
gần u (BL) có tỷ lệ carcinôm cao hơn nhóm TT
và LL có lẽ là do tổn thương thần kinh nhiều
và nặng hơn vì ở thể này có các phản ứng làm
tổn thương thần kinh nặng. Chẳng hạn như
phản ứng đảo nghịch và từ đó dẫn đến loét
dinh dưỡng nặng hơn so với các thể khác.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 182
Carcinôm dạng mụn cóc là loại carcinôm
tế bào gai có tiên lượng tốt nhất so với các loại
khác vì đa số tế bào ung thư xâm lấn tại chỗ
vào các mô lân cận chẳng hạn như cơ và
xương, ít cho di căn xa. Ở đây chúng tôi ghi
nhận 3 trường hợp di căn hạch: 1 ở thể LL và
2 ở thể BL và cả 2 trường hợp này đều tử
vong.
So sánh với các số liệu ở các tác giả khác(7,8,5)
thì người ta ghi nhận có tất cả 5 trường hợp di
căn hạch thì có 3 trường hợp là thể LL, 1 trường
hợp là thể BB và 1 là thể BT. Như vậy chúng tôi
nhận thấy đa số các trường hợp di căn nằm
trong thể LL điều này cũng có thể hiểu được do
ảnh hưởng của miễn dịch trung gian tế bào vì
trong Hansen thể BB, BL và LL miễn dịch trung
gian tế bào (CMI) không còn nữa (phản ứng
Mitsuda (-)) cho nên cơ thể không còn đủ sức đề
kháng chống lại sự phát triển tế bào ác tính.
Về vị trí của các bướu sùi chúng tôi ghi nhận
bàn chân phải là 12 trường hợp và bàn chân trái
là 15 trường hợp. Vị trí 1/3 sau (vùng xương gót)
của lòng bàn chân thường gặp hơn (17 trường
hợp) so với 1/3 trước lòng bàn chân (10 trường
hợp) điều này trái với sự phân bố các lỗ đáo bàn
chân của bệnh nhân phong.
Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu
Pleury và Opromolla(3) cũng như của Reddy(6).
Tỷ lệ bị carcinôm dạng mụn cóc thường gặp ở
1/3 sau lưng bàn chân. Trong khi đó thì 1/3 trước
lưng bàn chân ít bị hơn. Điều này được giải
thích bằng vùng xương gót (1/3 sau) tổn thương
viêm khó hồi phục vì sự phá hủy xương mạnh
ăn lan đến chỗ khớp giữa xương chày và xương
cổ chân (the tibial – tarsal jont) làm cho khớp
này bị tổn thương tạo thành các lỗ dò trổ ra da
chung quanh khiến cho lỗ đáo ở vùng xương
gót không thể lành được mà tiến triển thành
viêm mạn tính và từ đó thoái hóa ác tính.
Ngược lại mặc dù 1/3 trước (forefoot) có tỷ
lệ bị lỗ đáo cao hơn nhưng các xương đốt bàn
chân (metatarsal) và xương đốt ngón chân
(phalanx) với kích thước ngắn hơn nhưng có bề
mặt rộng và điều quan trọng là các xương này
khi bị viêm hủy xương có thể hồi phục trở lại
cũng như không gây ra các lỗ dò như ở vị trí
xương gót cho nên lỗ đáo vùng này dễ lành hơn
ít tiến triển mạn tính và do ít bị thoái hóa ác tính
hơn.
Về đặc điểm mô học carcinôm dạng mụn
cóc là một dạng carcinôm tế bào gai bắt nguồn
từ lớp tế bào keratinocyte của lớp thượng bì,
thường có hình ảnh biệt hóa rõ và có tiên lượng
tốt nhất trong tất cả các carcinôm tế bào gai bởi
vì tế bào ung thư chỉ ăn sâu xuống bề mặt ở mô
cơ và xương tại chỗ và rất ít có trường hợp căn
xa.
Ở đây chúng tôi có 25 trường hợp biệt hóa
rõ (độ I) và 02 trường hợp biệt hóa vừa (độ II).
Một số trường hợp tế bào ác tính xuất phát từ tế
bào giả ung thư (hyperlasie pseudo-
épitheliomateux) trước đó. Nhưng vì người ta
vẫn xếp loại tân sinh giả ung thư là lành tính do
đó vấn đề điều trị vẫn giống như các tổn thương
lành tính(4,8). Theo Fleury và Opromolla(3) và
Lever(4) thì sự phân biệt giữa hình ảnh của một
tân sinh giả ung thư với hình ảnh carcinôm tế
bào gai độ I biệt hóa tốt thì rất khó trên các mẫu
sinh thiết tiền phẫu (biopsie préopératoire).
Chúng tôi ghi nhận trường hợp sinh thiết lần
đầu cho thấy hình ảnh chỉ là một tổn thương
viêm da mạn tính với sự tăng sinh lớp thượng bì
13
%
55%
17
trường
hợp
(62%)
10
trường
hợp
(38%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 183
giả ung thư và một tháng sau đó bệnh nhân này
được sinh thiết lần 2 và được chẩn đoán là
carcinôm tế bào gai độ I (biệt hóa tốt). Trường
hợp này có thể hoặc là do sinh thiết đầu tiên
không đúng vị trí cũng như không đủ sâu hoặc
là có thể các tế bào chỉ vừa mới chuyển dạng
thành ác tính. Do đó không đủ tính chất của tế
bào nên không phát hiện được và người ta
khuyên trong trường hợp có tân sinh giả ung
thư thì nên theo dõi kỹ lưỡng về lâm sàng và
nếu nghi ngờ thì nên sinh thiết lại sau đó vì thời
gian chuyển từ giai đoạn giả ung thư không ai
xác định chính xác được.
Hình ảnh mô học sau đây là đặc trưng của
một carcinôm dạng mụn cóc :
Có hình ảnh tăng nhú (papillomatose), tăng
sừng (hyperkératose) với sự hình thành các cầu
sừng nằm sâu trong mô bì. Trong lớp thượng bì
các cầu nối liên bào thì không còn nữa và tế bào
gai có hình nhiều cạnh với tế bào chất đồng
dạng ưa toan.
Sự sừng hóa và sự phân tán của các tế bào
gai tạo thành các cầu sừng từ sự thoát ra
thượng bì và tùy theo tỷ lệ phần trăm tế bào
gai biệt hóa mà ta có các độ biệt hóa khác
nhau (độ I, II, III, IV).
KẾT LUẬN
Carcinôm dạng mụn cóc là một biến chứng
tương đối ít gặp ở các bệnh nhân Hansen có
bướu sùi ở lỗ đáo. Đây là một dạng đặc biệt của
carcinôm tế bào gai có tiên lượng tốt với hình
ảnh mô học độ I (biệt hóa rõ) sự di căn hiếm khi
xảy ra.
Bệnh nhân có bướu sùi trên nền lỗ đáo nên
được theo dõi thường xuyên một cách cẩn thận
và người ta khuyên nếu có bướu sùi ở vùng lỗ
đáo nên được giải quyết bằng ngoại khoa ngay
từ đầu để ngăn chặn quá trình thoái hóa ác tính
cũng như là di căn xa(9).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arnold HL et al (1990). Andrews’ Diseases of the skin clinical
Dermatology, eighth edition, P.777-781.
1. Bệnh viện phong và Da Liễu Qui Hòa. Săn sóc và điều trị lỗ đáo
P.8.
2. Civatte J (1982). Histopathologie cutanée 2 – edition P.330.
3. Fleury RN, Opromolla DVA (1984). Carcinoma in plantar ulcers
in leprosy. Lepr Rev 55,369-378.
4. Lever W (1990). Histolopathology of the skin 7 th edition P.558.
5. Nguyễn Sào Trung, Nguyễn Chấn Hùng (1992). Bệnh học ung
bướu cơ bản -Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế, P-129-
135.
6. Reddy NB, Srinivasan T, |Krishnan SA, Bhusnurmath SR (1985).
Malignancy in chronic ulcers in Leprosy : a report of cases from
Northern Nigerie Lepr rev 56.249-253.
7. Richardus JH et al. (1991). Squamous cell carcinona in the
chronic unlcers in the leprosy a review of 38 consecutive cases
Lepr rew. 62, 381-383.
8. Saurat JH, et al. (1999). Dermatologie et maladies sexuellement
transmissibles 3-édition P.583.
9. Soares D, Kimula Y (1996). Squamous cell Carcinoma of the foot
arising in the chronic ulcers leprosy patients. Lepr Rev.
Dec;67(4):325-9