Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), tại Thành phố Hồ Chí Minh, đô thị hóa đã diễn ra trên nhiều quận,
huyện, góp phần thay đổi diện mạo kinh tế, văn hóa, xã hội của một thành phố vốn năng động và nhiều
tiềm năng phát triển. Cho đến nay, có thể nhận thấy, tốc độ đô thị hóa ở Quận 2 (TP.HCM) đã và đang
diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt, sự biến đổi cơ sở hạ tầng đô thị của Quận 2 đã góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Bài viết này tập trung tìm hiểu về sự chuyển biến thương mại - dịch vụ trong quá trình đô thị hoá ở
Quận 2 từ 1997 – 2015 nhằm chỉ ra những đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử, chính sách đã tác động đến toàn
bộ quá trình phát triển của quận, đồng thời nêu ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những bước đi
tiếp theo để Quận 2 tiếp tục phát triển hơn nữa sau 18 năm thành lập.
12 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 473 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyển biến về thương mại – dịch vụ trong quá trình đô thị hóa Quận 2 (thành phố Hồ Chí Minh) từ 1997 – 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
83
CHUYỂN BIẾN VỀ THƯƠNG MẠI – DỊCH VỤ TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HÓA QUẬN 2 (THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH) TỪ 1997 – 2015
Transformation in trade – service during urbanization process of District 2
(Ho Chi Minh City) from 1997 to 2015
ThS.NCS. Nguyễn Hồng Trang
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), tại Thành phố Hồ Chí Minh, đô thị hóa đã diễn ra trên nhiều quận,
huyện, góp phần thay đổi diện mạo kinh tế, văn hóa, xã hội của một thành phố vốn năng động và nhiều
tiềm năng phát triển. Cho đến nay, có thể nhận thấy, tốc độ đô thị hóa ở Quận 2 (TP.HCM) đã và đang
diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt, sự biến đổi cơ sở hạ tầng đô thị của Quận 2 đã góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Bài viết này tập trung tìm hiểu về sự chuyển biến thương mại - dịch vụ trong quá trình đô thị hoá ở
Quận 2 từ 1997 – 2015 nhằm chỉ ra những đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử, chính sách đã tác động đến toàn
bộ quá trình phát triển của quận, đồng thời nêu ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những bước đi
tiếp theo để Quận 2 tiếp tục phát triển hơn nữa sau 18 năm thành lập.
Từ khóa: đô thị, đô thị hoá Quận 2, thương mại - dịch vụ
ABSTRACT
After the 6th National Congress of the Communist Party of Vietnam (1986), urbanization has taken
place in many districts & provinces, which changed the interface of a dynamic and potential City in
terms of economy, culture and society. So far, it can be seen that the pace of urbanization in District 2
(HCMC) has been moving stronger, especially the transformation of urban infrastructure, which
contributed strongly to the economic development of Ho Chi Minh City in particular and Vietnam in
general.
The article focuses on studying the transformation in trade - service during District 2’s urbanization
process from 1997 to 2015, in order to point out the characteristics, the historical circumstances, and
policy that entirely affect the District’s development process. At the same time, the article shows some
lessons learned from experiences and proposes next steps to boost District 2 on its continuous
development after 18 years of establishment.
Keywords: urban, urbanization in District 2, trade – service
1. Đặt vấn đề
Quá trình đô thị hóa (ĐTH) và tăng
trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng
với nhau, tăng trưởng kinh tế thường kéo
theo sự mở rộng về quy mô của các đô thị,
đồng thời cũng tác động đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của đô
thị. Tăng trưởng kinh tế cũng là điều kiện
Email: nguyenhongtrang29@yahoo.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
84
để phát triển đô thị về mọi mặt, cải thiện
kết cấu hạ tầng, nâng cao đời sống vật chất
lẫn tinh thần của người dân. Cho đến nay,
ĐTH thực sự đã trở thành một hiện tượng
xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh
hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực
hoạt động của đời sống con người.
Theo Quyết định số 1570/2006/QĐ-
TTg ngày 27/11/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch
chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM) đến năm 2025, Thành phố được
quy hoạch là đô thị đặc biệt, là trung tâm
lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học công
nghệ, có vị trí địa chính trị quan trọng của
cả nước và sẽ trở thành trung tâm công
nghiệp, dịch vụ đa lĩnh vực của khu vực
Đông Nam Á. Nằm trong không gian
TP.HCM, Quận 2 sẽ là trung tâm tài chính -
dịch vụ - thương mại - văn hoá - thể dục thể
thao trong quá trình đô thị hoá các quận
ngoại thành. Trong quá trình triển khai thực
hiện các kế hoạch nêu trên, cùng với những
yếu tố khách quan và chủ quan khác tác
động, có thể nhận thấy, tốc độ ĐTH ở Quận
2 đã và đang diễn ra mạnh mẽ, góp phần
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của
TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung.
Trải qua 18 năm thành lập (1997 -
2015), qua 4 kỳ Đại hội Đảng bộ Quận,
nền kinh tế Quận 2 tăng trưởng với tốc độ
cao, các nguồn lực kinh tế đều được phát
huy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng. Từ một nền kinh tế sản xuất với
ngành nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
là chính, cơ cấu kinh tế Quận đã dần
chuyển dịch theo hướng dịch vụ - thương
mại và có xu hướng phát triển nhanh trong
quá trình đô thị hóa. Tìm hiểu về sự chuyển
biến thương mại - dịch vụ trong quá trình
đô thị hoá ở quận 2 từ 1997 - 2015 góp
phần làm rõ những yếu tố đã tác động đến
sự phát triển kinh tế của địa phương, cung
cấp cơ sở khoa học cho các ban ngành
chức năng rút ra những bài học kinh
nghiệm trong việc đề ra chủ trương, chính
sách phù hợp đối với tình hình thực tiễn
nhằm phát huy các tiềm năng và thế mạnh
của Quận 2 nói riêng và các quận khác nói
chung vào sự phát triển của TP.HCM.
2. Nội dung
2.1. Khái quát quá trình đô thị hóa
Quận 2
Quận 2 nằm ở phía Đông Bắc của
TP.HCM, trên tả ngạn sông Sài Gòn. Phía
Bắc giáp Quận Thủ Đức, Bình Thạnh (qua
sông Sài Gòn và sông Rạch Chiếc). Phía
Nam giáp Quận 7, huyện Nhơn Trạch của
tỉnh Đồng Nai (qua sông Sài Gòn và sông
Đồng Nai). Phía Đông giáp Quận 4, Quận
1, Quận Bình Thạnh (qua sông Sài Gòn).
Từ năm xã thuộc huyện Thủ Đức (An Phú,
An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng và
Thạnh Mỹ Lợi), Quận 2 được chia thành
11 phường gồm: An Phú, Thảo Điền, An
Khánh, Bình An, Thủ Thiêm, An Lợi
Đông, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây,
Thạnh Mỹ Lợi và Cát Lái.
Tổng diện tích tự nhiên của Quận 2 là
5.020 ha, trong đó, đất nông nghiệp chiếm
51,8%, đất ở chiếm 9,8%, đất chuyên
dùng 9,4%, diện tích còn lại là hệ thống
sông rạch. Với hiện trạng như trên, Quận
2 có một quỹ đất lớn, hầu hết là đất trống,
thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng các
công trình và phát triển hệ thống giao
thông nối liền giữa khu vực trung tâm nội
thành và các vùng kinh tế trọng điểm
Đông Nam Bộ.
Được bao bọc bởi 2 con sông lớn là
sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và 2 con
rạch là rạch Bà Cua, rạch Chiếc, cùng với
hệ thống kênh rạch chằng chịt, Quận 2 có
một tiềm năng về cảnh quan thiên nhiên,
NGUYỄN HỒNG TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
85
rất thích hợp với việc phát triển các loại
hình dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao gắn
với du lịch sinh thái, đặc biệt thuận lợi phát
triển hệ thống cảng phục vụ sản xuất, phát
triển giao thông thủy.
Từ lâu, người dân bản địa đã sống
cuộc sống của cư dân thuộc vùng ĐTH bán
nông bán công. Trước 1975, do chiến
tranh, ĐTH của Quận 2 mang tính cưỡng
bức: bến cảng, xí nghiệp nhà máy, cầu
đường đều chủ yếu phục vụ cho guồng
máy chiến tranh, trong khi đó, đại bộ phận
nông dân trình độ văn hóa thấp; cơ sở hạ
tầng kém, thiếu trường học, nơi chữa bệnh,
thiếu các công trình văn hóa; môi trường
xã hội cũng hết sức phức tạp.
Từ sau 1975, chính quyền Thành phố
đã có nhiều chính sách nhằm đẩy nhanh
tiến độ ĐTH, cải thiện cuộc sống cho nhân
dân về nhiều mặt, giảm cách biệt giàu
nghèo. Tuy nhiên chỉ sau khi có chính sách
đổi mới (1986), sự thay đổi diện mạo của
TP.HCM mới thật sự rõ nét, kinh tế phát
triển, quy hoạch, cải tạo, xây dựng mới
nhiều công trình tầm cỡ. Riêng vùng đất
Quận 2, theo đà phát triển chung của Thành
phố, cũng có những bước chuyển mình,
nhưng do không có sự tập trung chỉ đạo cụ
thể, cũng như chỉ là những phường của
quận Thủ Đức, nên sự đầu tư còn mang tính
phân tán. Rõ ràng, cho đến trước khi được
thành lập, Quận 2 vẫn còn mang đậm tính
chất một vùng nông nghiệp với đường sá hạ
tầng yếu kém, nhà ở, điện nước thiếu
thốn. Đó là một thực tại, là điểm xuất phát
của Quận 2 khi bước vào quá trình ĐTH.
Tuy vậy, với chủ trương phát triển đô
thị tại Việt Nam và với những điều kiện
thuận lợi về không gian, cảnh quan và vị trí
chiến lược (nằm đối diện khu trung tâm cũ
qua bờ sông Sài Gòn, Quận 2 là đầu mối
giao thông về đường bộ, đường thủy nối
liền Thành phố với các tỉnh Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu), trong
những năm qua, Quận 2 được sự quan tâm
chỉ đạo và đầu tư của cả Thành phố và
Trung ương, hàng loạt các chủ trương,
chính sách đã tạo điều kiện để Quận 2 phát
triển; những dự án lớn về hạ tầng kỹ thuật
đã, đang và sắp thực hiện sẽ kích thích và
thu hút mạnh mẽ sự đầu tư của các thành
phần kinh tế trong và ngoài nước.
Chủ trương, chính sách phát triển đô
thị Quận 2 của Chính phủ và Ủy ban nhân
dân (UBND) TP.HCM từ năm 1997 đến
2015 có những mục tiêu cụ thể, có thể thấy
rõ sự khác biệt trong chủ trương, chính
sách phát triển Quận 2 qua 2 giai đoạn:
1997- 2006, tập trung chuyển đổi cơ cấu
KT, đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) để thu
hút đầu tư và cải thiện đời sống người dân
ở Quận 2 và 2007-2015, phát triển CSHT
đồng bộ khu vực phía Đông Tp.HCM, liên
kết vùng KT giữa các tỉnh của miền Đông
nam bộ và hình thành khu đô thị kiểu mẫu
(KĐTM) Thủ Thiêm. Mặc dù, Quận 2 mới
được thành lập ngày 1/4/1997, nhưng theo
Quyết định số 123/1998/QĐ-TTg ngày
10/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Điều chỉnh quy hoạch chung của
TP.HCM đến năm 2020, thì Quận 2 đã
được xếp vào “khu nội thành phát triển”.
Việc quy định mang tính văn bản hành
chính nói trên, đã thể hiện rõ định hướng
cho sự phát triển.
Do nằm ở vị trí cầu nối giữa trung tâm
TP.HCM với khu Đông, trong quá trình
ĐTH, Quận 2 được xem là tâm điểm đầu tư
của các dự án, hạ tầng kết nối, thu hút được
nguồn lực đầu tư lớn vào lĩnh vực này.
Nghiên cứu của Công ty Tư vấn kinh
doanh hội nhập Toàn Cầu (GIBC) công bố
hồi tháng 8/2015 cho thấy, tính đến nửa
đầu năm 2015, khu Đông (từ cầu Sài Gòn,
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
86
đổ ra Thủ Đức đến ngã tư Vũng Tàu) đã
hút 3 tỷ USD vào các đường vành đai, cao
tốc. Bắt đầu từ tháng 1/2014 - thời điểm
đưa vào vận hành 20 km đầu tiên trong
tổng số 55,7 km cao tốc TP.HCM - Long
Thành - Dầu Giây, đoạn từ nút giao với
đường Vành đai 2 (Quận 9) đến Quốc lộ 51
(tỉnh Đồng Nai), thị trường bất động sản
khu Đông (Quận 2, Quận 9) có dấu hiệu
phát triển, mạnh mẽ nhất là thời điểm bước
sang năm 2015, khi hai công trình giao
thông đối ngoại quan trọng đi qua địa bàn
Quận 2 đưa vào vận hành. Đó là đường
Vành đai Đông (nối từ chân cầu Phú Mỹ -
ngay nút giao với đường Đồng Văn Cống,
Quận 2 đến đường D2 – Bình Thạnh nối
vào Khu công nghệ cao TP.HCM, Quận 9)
và phần còn lại của cao tốc TP.HCM -
Long Thành - Dầu Giây (giao với Đại lộ
Mai Chí Thọ, Quận 2). Xung quanh hai
trục giao thông quan trọng này, hàng loạt
dự án nhà ở được triển khai.
Cùng với tốc độ phát triển nhanh của
CSHT là sự mở rộng không gian đô thị và
sự gia tăng dân số. Tính từ thời điểm thành
lập quận năm 1997, số dân chỉ khoảng
86.000 người thì đến năm 2015 đã ở mức
147.168 nhân khẩu. Việc tăng gần gấp đôi
dân số trong khoảng thời gian 18 năm cho
thấy quá trình ĐTH nhanh đã thực sự tác
động đến việc gia tăng dân số. Bên cạnh cư
dân các vùng miền khác quy tụ về đây, một
số lượng lớn các công nhân, viên chức, kỹ
sư, chuyên gia trong và ngoài nước đã
đến làm việc và sinh sống tại Quận 2.
Những yếu tố này chính là tác nhân thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của Quận trong
quá trình đô thị hóa.
2.2. Sự phát triển của thương mại -
dịch vụ trong quá trình đô thị hóa Quận 2
từ 1997 – 2015
Trong nền kinh tế, sự phát triển của
thương mại - dịch vụ (TM - DV) có một
vai trò rất quan trọng trong việc lưu thông
hàng hóa, tạo điều kiện cho sản xuất phát
triển. Bên cạnh đó, sự phát triển của TM -
DV còn là chỉ số quan trọng để đánh giá
mức độ đô thị hóa.
Giai đoạn 1997 - 2005
Ở giai đoạn mới thành lập, trên địa bàn
Quận 2 có 35 doanh nghiệp và 2.130 hộ
kinh doanh với doanh thu còn thấp. Toàn
Quận chưa có siêu thị, trung tâm thương
mại, chỉ có một số chợ truyền thống thành
lập từ trước năm 1975 (chợ Cát Lái, chợ
Tân Lập, chợ Bình Trưng) và một vài chợ
họp một buổi (chợ Chiều, chợ Giồng, chợ
Cây Xoài, chợ Thủ Thiêm) nằm rải rác trên
địa bàn Quận. Từ sau năm 2000, với tốc độ
ĐTH nhanh chóng, kinh tế Quận 2 đã
chuyển biến theo hướng tăng dần tỷ trọng
về TM - DV.
Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất (1997 -
2001) đã xác định mục tiêu từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quận theo hướng
dịch vụ, thương mại - công nghiệp - nông
nghiệp. Sau 3 năm thực hiện, cơ cấu kinh tế
Quận đã có sự chuyển biến. Theo đó, năm
1997, công nghiệp (CN) chiếm 93,23%, TM
- DV chiếm 4,58% và nông nghiệp (NN)
chiếm 2,19%. Đến năm 2000, CN chiếm
90,09%, TM - DV 8,49% và nông nghiệp là
1,42% (niên giám thống kê 2005 - Quận 2,
Trang 39). Như vậy chỉ sau ba năm thực
hiện Nghị quyết, nếu như tỉ trọng của sản
xuất CN giảm, thì TM - DV năm 2000 tăng
gần gấp đôi so với năm 1997.
Trong giai đoạn 1997 - 2001, hoạt
động sản xuất TM - DV trên địa bàn Quận
2 chủ yếu là buôn bán nhỏ, lẻ phục vụ nhu
cầu tiêu dùng, phát triển ở một số địa bàn
dân cư tập trung, mạng lưới thương nghiệp
còn mỏng và hình thành tự phát theo các
trục lộ chính. Ngành hàng chủ yếu của hệ
NGUYỄN HỒNG TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
87
thống TM - DV trên địa bàn Quận là ăn
uống, kinh doanh vàng bạc đá quý, dịch vụ
cầm đồ, mua bán máy móc thiết bị và hàng
tiêu dùng. Hoạt động du lịch và xuất nhập
khẩu do Quận quản lý có nhưng không
đáng kể. Hầu hết các cơ sở TM - DV tận
dụng mặt bằng nhà ở để kinh doanh, do
đó bị hạn chế trong việc mở rộng quy mô
hoạt động.
Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ hai
(2001 - 2005) tiếp tục xác định phát triển
kinh tế theo cơ cấu CN - TM - DV. Sau 5
năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội,
kinh tế Quận 2 tăng trưởng với tốc độ cao,
các nguồn lực kinh tế được phát huy, giá trị
sản xuất CN - TTCN tăng bình quân hàng
năm 23,47% (chỉ tiêu 18 - 20%/năm),
doanh thu TM - DV tăng bình quân hàng
năm 71,93% (chỉ tiêu 35 - 40%/năm) và
sản xuất nông nghiệp (NN) giảm bình quân
hàng năm 6,1%. Cơ cấu kinh tế Quận
chuyển biến theo đúng định hướng và phù
hợp với quá trình ĐTH khi tỷ trọng ngành
TM - DV tăng mạnh từ 9,46% (năm 2000)
tăng lên 34,51% (năm 2005) trong khi CN
- TTCN và NN có xu hướng giảm dần.
(UBND TP.HCM, 2005, Báo cáo hình hình
thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm
2001 - 2005 và phương hướng nhiệm vụ 5
năm 2005 - 2010, tr.80).
Bảng 1. Doanh thu ngành thương mại - dịch vụ giai đoạn 2000 – 2005
DOANH THU CÁC NĂM (tỷ đồng)
Hình thức kinh tế 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Cá thể 173,52 189,97 278,41 380,35 561,51 715,68
Công ty TNHH 94,88 195,83 269,89 597,99 1.040,50 1.496,60
DNTN 79,15 117,76 124,98 211,97 252,43 353,34
Nguồn: Niên giám thống kê 2005 - Quận 2, Trang 38
Doanh thu TM - DV Quận 2 năm 2000
là 347,55 tỷ đồng, đến năm 2005 tăng vọt
lên 2.565,41 tỷ đồng. Tốc độ phát triển
bình quân/năm là 79,4%. Tuy doanh thu có
mức tăng nhanh nhưng giá trị còn thấp so
với các quận nội thành khác, chỉ chiếm tỷ
lệ 0.2% trong tổng mức bán chung ở khu
vực nội thành của thành phố.
Có thể thấy sau ngày thành lập Quận
2, chính quyền Quận 2 đã khuyến khích
mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư
vào quận bằng những chính sách thông
thoáng, tạo nhiều thuận lợi cho ngành TM
- DV có điều kiện phát triển. Bên cạnh
đó, với đà phát triển của ĐTH, việc thu
hẹp dần đất nông nghiệp đã tạo ra một lớp
người không nghề nghiệp nhưng có vốn
tương đối do được đền bù giải tỏa, chuyển
sang làm thương mại, dịch vụ tạo ra sự
bùng phát kinh doanh. Các doanh nghiệp
tư nhân, công ty TNHH lần lượt ra đời,
dọc theo các con đường chính, góp phần
hình thành những khu phố thương mại
dịch vụ đa dạng hơn trước rất nhiều. Một
số công ty nước ngoài, với bề dày kinh
nghiệm và tầm cỡ thế giới, cũng đã nhanh
chóng nhận ra những thuận lợi về con
người, về địa thế đất đai và nhất là những
chính sách mang tính khuyến khích, hỗ
trợ của chính quyền. Họ đã mạnh dạn đầu
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
88
tư và có những thành công nhất định.
Có thể kể đến Park Land, River side với
dịch vụ cho thuê căn hộ cao cấp. Metro,
APSC kinh doanh đủ các loại hàng tiêu
dùng.v.v.
Ngoài những đơn vị có quy mô lớn,
hoạt động hiệu quả thì vẫn còn đó những
dãy phố mà hình thái kinh doanh còn rất
manh mún, đậm nét nông thôn, tạo ra sự
chênh lệch rõ nét về sự phát triển của một
quận đang trong quá trình ĐTH.
Giai đoạn 2006 - 2015
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Quận lần thứ ba (2006 - 2010), lần đầu tiên
đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng dịch vụ - thương mại, phấn đấu
đến năm 2010, tỷ trọng ngành TM - DV
đạt trên 50% cơ cấu kinh tế.
Bảng 2. Tỷ trọng ngành CN-TTCN và TM-DV trên địa bàn Quận 2 (2010 - 2015)
(Đơn vị: %/cơ cấu ngành kinh tế)
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
CN-TTCN 46,65 45,20 40,78 37,57 33,78 33,31
TM-DV 53,31 54,79 59,21 62,47 66,21 66,69
Nguồn: Báo cáo của UBND Quận 2 về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm, 2011 - 2015 trên địa bàn.
Theo thống kê ở bảng 2, có thể thấy tỷ
trọng của ngành TM - DV từ 2010 - 2015
đã tăng đáng kể, từ 53,31% (năm 2010) lên
66,69% (vào cuối năm 2015). Ngược lại,
cũng trong giai đoạn này, CN - TTCN giảm
từ 46,65% xuống còn 33,31%. Nếu so với
thời điểm mới thành lập Quận, sự thay đổi
về tỷ trọng giữa các ngành kinh tế trên địa
bàn Quận 2 càng thể hiện rõ nét. Nếu năm
1997, CN - TTCN chiếm 93,23%, chủ yếu
ở quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu,
TM - DV khi đó chỉ chiếm 4,58%, NN ở
mức 1,42%; thì đến cuối năm 2015, tỷ
trọng ngành TM - DV chiếm gần 70%
trong cơ cấu kinh tế Quận, CN dưới 30% và
NN chỉ chiếm khoảng 0,003%. Điều này
cho thấy, lĩnh vực TM - DV có đóng góp
ngày càng lớn vào kinh tế của Quận.
Bảng 3. Giá trị thương mại dịch vụ trên địa bàn Quận 2 (2011 - 2015)
(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2016 - 2020 của UBND Quận 2)
NGUYỄN HỒNG TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
89
Trong giai đoạn 2011 - 2015, TM -
DV có sự tăng trưởng mạnh từ 26.689 tỷ
đồng lên 62.379 tỷ đồng, có được kết quả
này là do chủ trương của lãnh đạo
TP.HCM về mặt dài hạn là tiếp tục đẩy
mạnh phát triển tỷ trọng TM - DV.
Theo Quyết định số 1999/QĐ-UBND
ngày 24/4/2014 của UBND TP.HCM về
phương hướng, nhiệm vụ phát triển
TP.HCM đến năm 2020 gắn với Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành
phố đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2025, UBND Quận 2 đã xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho giai
đoạn 2015 - 2020 với doanh thu ngành dịch
vụ - thương mại tăng bình quân mỗi năm từ
20 - 25%. Đến năm 2020, tỷ trọng ngành
dịch vụ - thương mại sẽ chiếm trên 80%
trong cơ cấu kinh tế quận.
Trong cơ cấu ngành kinh tế TM - DV
trên địa bàn Quận 2 có 3 lĩnh vực đóng góp
đáng kể vào nguồn thu ngân sách và làm
thay đổi diện mạo của quận trong quá trình
ĐTH; đó là hoạt động kinh doanh - dịch vụ
bất dộng sản, bán lẻ (siêu thị, trung tâm
thương mại - TTTM) và dịch vụ cảng
chiếm ưu thế, nổi trội hơn hết.
Dịch vụ cảng - logistics
Theo Quyết định 791/QĐ-CP của Thủ
tướng Chính phủ năm 2005 về việc phê
duyệt quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển
khu vực TP.HCM - Đồng Nai - Bà Rịa -
Vũng Tàu (nhóm cảng số 5) đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020, có đề cập
đến việc di dời các cảng trên sông Sài Gòn
(Tân Cảng Sài Gòn, cảng Nhà Rồng,
Khánh Hội) và Nhà máy đóng tàu Ba Son.
Trong đó, cùng với cảng Hiệp Phước
(huyện Nhà Bè), cảng Cát Lái (Quận 2,
trên sông Đồng Nai) là cảng container tổng
hợp phục vụ công tác di dời các cảng trên
sông Sài Gòn, cũng như hỗ trợ cho cụm
cảng cửa ngõ quốc tế Tân Cảng - Cái Mép
(Bà Rịa - Vũng Tàu) trong việc vận chuyển
hàng hóa. Hiện nay Tân Cảng Sài Gòn đã
được sát nhập vào cảng Cát Lái. Với quy
hoạ