TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020) 
Email: 
[email protected] ; Website:  
83 
CHUYỂN BIẾN VỀ THƯƠNG MẠI – DỊCH VỤ TRONG QUÁ TRÌNH 
ĐÔ THỊ HÓA QUẬN 2 (THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH) TỪ 1997 – 2015 
Transformation in trade – service during urbanization process of District 2 
(Ho Chi Minh City) from 1997 to 2015 
ThS.NCS. Nguyễn Hồng Trang 
Trường Đại học Sài Gòn 
TÓM TẮT 
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), tại Thành phố Hồ Chí Minh, đô thị hóa đã diễn ra trên nhiều quận, 
huyện, góp phần thay đổi diện mạo kinh tế, văn hóa, xã hội của một thành phố vốn năng động và nhiều 
tiềm năng phát triển. Cho đến nay, có thể nhận thấy, tốc độ đô thị hóa ở Quận 2 (TP.HCM) đã và đang 
diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt, sự biến đổi cơ sở hạ tầng đô thị của Quận 2 đã góp phần quan trọng vào sự 
phát triển kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung. 
Bài viết này tập trung tìm hiểu về sự chuyển biến thương mại - dịch vụ trong quá trình đô thị hoá ở 
Quận 2 từ 1997 – 2015 nhằm chỉ ra những đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử, chính sách đã tác động đến toàn 
bộ quá trình phát triển của quận, đồng thời nêu ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những bước đi 
tiếp theo để Quận 2 tiếp tục phát triển hơn nữa sau 18 năm thành lập. 
Từ khóa: đô thị, đô thị hoá Quận 2, thương mại - dịch vụ 
ABSTRACT 
After the 6th National Congress of the Communist Party of Vietnam (1986), urbanization has taken 
place in many districts & provinces, which changed the interface of a dynamic and potential City in 
terms of economy, culture and society. So far, it can be seen that the pace of urbanization in District 2 
(HCMC) has been moving stronger, especially the transformation of urban infrastructure, which 
contributed strongly to the economic development of Ho Chi Minh City in particular and Vietnam in 
general. 
The article focuses on studying the transformation in trade - service during District 2’s urbanization 
process from 1997 to 2015, in order to point out the characteristics, the historical circumstances, and 
policy that entirely affect the District’s development process. At the same time, the article shows some 
lessons learned from experiences and proposes next steps to boost District 2 on its continuous 
development after 18 years of establishment. 
Keywords: urban, urbanization in District 2, trade – service 
1. Đặt vấn đề 
Quá trình đô thị hóa (ĐTH) và tăng 
trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng 
với nhau, tăng trưởng kinh tế thường kéo 
theo sự mở rộng về quy mô của các đô thị, 
đồng thời cũng tác động đến sự chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của đô 
thị. Tăng trưởng kinh tế cũng là điều kiện 
Email: 
[email protected] 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
84 
để phát triển đô thị về mọi mặt, cải thiện 
kết cấu hạ tầng, nâng cao đời sống vật chất 
lẫn tinh thần của người dân. Cho đến nay, 
ĐTH thực sự đã trở thành một hiện tượng 
xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh 
hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực 
hoạt động của đời sống con người. 
Theo Quyết định số 1570/2006/QĐ-
TTg ngày 27/11/2006 của Thủ tướng Chính 
phủ về việc phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch 
chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh 
(TP.HCM) đến năm 2025, Thành phố được 
quy hoạch là đô thị đặc biệt, là trung tâm 
lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học công 
nghệ, có vị trí địa chính trị quan trọng của 
cả nước và sẽ trở thành trung tâm công 
nghiệp, dịch vụ đa lĩnh vực của khu vực 
Đông Nam Á. Nằm trong không gian 
TP.HCM, Quận 2 sẽ là trung tâm tài chính - 
dịch vụ - thương mại - văn hoá - thể dục thể 
thao trong quá trình đô thị hoá các quận 
ngoại thành. Trong quá trình triển khai thực 
hiện các kế hoạch nêu trên, cùng với những 
yếu tố khách quan và chủ quan khác tác 
động, có thể nhận thấy, tốc độ ĐTH ở Quận 
2 đã và đang diễn ra mạnh mẽ, góp phần 
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của 
TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung. 
Trải qua 18 năm thành lập (1997 - 
2015), qua 4 kỳ Đại hội Đảng bộ Quận, 
nền kinh tế Quận 2 tăng trưởng với tốc độ 
cao, các nguồn lực kinh tế đều được phát 
huy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng 
hướng. Từ một nền kinh tế sản xuất với 
ngành nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 
là chính, cơ cấu kinh tế Quận đã dần 
chuyển dịch theo hướng dịch vụ - thương 
mại và có xu hướng phát triển nhanh trong 
quá trình đô thị hóa. Tìm hiểu về sự chuyển 
biến thương mại - dịch vụ trong quá trình 
đô thị hoá ở quận 2 từ 1997 - 2015 góp 
phần làm rõ những yếu tố đã tác động đến 
sự phát triển kinh tế của địa phương, cung 
cấp cơ sở khoa học cho các ban ngành 
chức năng rút ra những bài học kinh 
nghiệm trong việc đề ra chủ trương, chính 
sách phù hợp đối với tình hình thực tiễn 
nhằm phát huy các tiềm năng và thế mạnh 
của Quận 2 nói riêng và các quận khác nói 
chung vào sự phát triển của TP.HCM. 
2. Nội dung 
2.1. Khái quát quá trình đô thị hóa 
Quận 2 
Quận 2 nằm ở phía Đông Bắc của 
TP.HCM, trên tả ngạn sông Sài Gòn. Phía 
Bắc giáp Quận Thủ Đức, Bình Thạnh (qua 
sông Sài Gòn và sông Rạch Chiếc). Phía 
Nam giáp Quận 7, huyện Nhơn Trạch của 
tỉnh Đồng Nai (qua sông Sài Gòn và sông 
Đồng Nai). Phía Đông giáp Quận 4, Quận 
1, Quận Bình Thạnh (qua sông Sài Gòn). 
Từ năm xã thuộc huyện Thủ Đức (An Phú, 
An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng và 
Thạnh Mỹ Lợi), Quận 2 được chia thành 
11 phường gồm: An Phú, Thảo Điền, An 
Khánh, Bình An, Thủ Thiêm, An Lợi 
Đông, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, 
Thạnh Mỹ Lợi và Cát Lái. 
Tổng diện tích tự nhiên của Quận 2 là 
5.020 ha, trong đó, đất nông nghiệp chiếm 
51,8%, đất ở chiếm 9,8%, đất chuyên 
dùng 9,4%, diện tích còn lại là hệ thống 
sông rạch. Với hiện trạng như trên, Quận 
2 có một quỹ đất lớn, hầu hết là đất trống, 
thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng các 
công trình và phát triển hệ thống giao 
thông nối liền giữa khu vực trung tâm nội 
thành và các vùng kinh tế trọng điểm 
Đông Nam Bộ. 
Được bao bọc bởi 2 con sông lớn là 
sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và 2 con 
rạch là rạch Bà Cua, rạch Chiếc, cùng với 
hệ thống kênh rạch chằng chịt, Quận 2 có 
một tiềm năng về cảnh quan thiên nhiên, 
NGUYỄN HỒNG TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
85 
rất thích hợp với việc phát triển các loại 
hình dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao gắn 
với du lịch sinh thái, đặc biệt thuận lợi phát 
triển hệ thống cảng phục vụ sản xuất, phát 
triển giao thông thủy. 
Từ lâu, người dân bản địa đã sống 
cuộc sống của cư dân thuộc vùng ĐTH bán 
nông bán công. Trước 1975, do chiến 
tranh, ĐTH của Quận 2 mang tính cưỡng 
bức: bến cảng, xí nghiệp nhà máy, cầu 
đường đều chủ yếu phục vụ cho guồng 
máy chiến tranh, trong khi đó, đại bộ phận 
nông dân trình độ văn hóa thấp; cơ sở hạ 
tầng kém, thiếu trường học, nơi chữa bệnh, 
thiếu các công trình văn hóa; môi trường 
xã hội cũng hết sức phức tạp. 
Từ sau 1975, chính quyền Thành phố 
đã có nhiều chính sách nhằm đẩy nhanh 
tiến độ ĐTH, cải thiện cuộc sống cho nhân 
dân về nhiều mặt, giảm cách biệt giàu 
nghèo. Tuy nhiên chỉ sau khi có chính sách 
đổi mới (1986), sự thay đổi diện mạo của 
TP.HCM mới thật sự rõ nét, kinh tế phát 
triển, quy hoạch, cải tạo, xây dựng mới 
nhiều công trình tầm cỡ. Riêng vùng đất 
Quận 2, theo đà phát triển chung của Thành 
phố, cũng có những bước chuyển mình, 
nhưng do không có sự tập trung chỉ đạo cụ 
thể, cũng như chỉ là những phường của 
quận Thủ Đức, nên sự đầu tư còn mang tính 
phân tán. Rõ ràng, cho đến trước khi được 
thành lập, Quận 2 vẫn còn mang đậm tính 
chất một vùng nông nghiệp với đường sá hạ 
tầng yếu kém, nhà ở, điện nước thiếu 
thốn. Đó là một thực tại, là điểm xuất phát 
của Quận 2 khi bước vào quá trình ĐTH. 
Tuy vậy, với chủ trương phát triển đô 
thị tại Việt Nam và với những điều kiện 
thuận lợi về không gian, cảnh quan và vị trí 
chiến lược (nằm đối diện khu trung tâm cũ 
qua bờ sông Sài Gòn, Quận 2 là đầu mối 
giao thông về đường bộ, đường thủy nối 
liền Thành phố với các tỉnh Đồng Nai, 
Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu), trong 
những năm qua, Quận 2 được sự quan tâm 
chỉ đạo và đầu tư của cả Thành phố và 
Trung ương, hàng loạt các chủ trương, 
chính sách đã tạo điều kiện để Quận 2 phát 
triển; những dự án lớn về hạ tầng kỹ thuật 
đã, đang và sắp thực hiện sẽ kích thích và 
thu hút mạnh mẽ sự đầu tư của các thành 
phần kinh tế trong và ngoài nước. 
Chủ trương, chính sách phát triển đô 
thị Quận 2 của Chính phủ và Ủy ban nhân 
dân (UBND) TP.HCM từ năm 1997 đến 
2015 có những mục tiêu cụ thể, có thể thấy 
rõ sự khác biệt trong chủ trương, chính 
sách phát triển Quận 2 qua 2 giai đoạn: 
1997- 2006, tập trung chuyển đổi cơ cấu 
KT, đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) để thu 
hút đầu tư và cải thiện đời sống người dân 
ở Quận 2 và 2007-2015, phát triển CSHT 
đồng bộ khu vực phía Đông Tp.HCM, liên 
kết vùng KT giữa các tỉnh của miền Đông 
nam bộ và hình thành khu đô thị kiểu mẫu 
(KĐTM) Thủ Thiêm. Mặc dù, Quận 2 mới 
được thành lập ngày 1/4/1997, nhưng theo 
Quyết định số 123/1998/QĐ-TTg ngày 
10/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê 
duyệt Điều chỉnh quy hoạch chung của 
TP.HCM đến năm 2020, thì Quận 2 đã 
được xếp vào “khu nội thành phát triển”. 
Việc quy định mang tính văn bản hành 
chính nói trên, đã thể hiện rõ định hướng 
cho sự phát triển. 
Do nằm ở vị trí cầu nối giữa trung tâm 
TP.HCM với khu Đông, trong quá trình 
ĐTH, Quận 2 được xem là tâm điểm đầu tư 
của các dự án, hạ tầng kết nối, thu hút được 
nguồn lực đầu tư lớn vào lĩnh vực này. 
Nghiên cứu của Công ty Tư vấn kinh 
doanh hội nhập Toàn Cầu (GIBC) công bố 
hồi tháng 8/2015 cho thấy, tính đến nửa 
đầu năm 2015, khu Đông (từ cầu Sài Gòn, 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
86 
đổ ra Thủ Đức đến ngã tư Vũng Tàu) đã 
hút 3 tỷ USD vào các đường vành đai, cao 
tốc. Bắt đầu từ tháng 1/2014 - thời điểm 
đưa vào vận hành 20 km đầu tiên trong 
tổng số 55,7 km cao tốc TP.HCM - Long 
Thành - Dầu Giây, đoạn từ nút giao với 
đường Vành đai 2 (Quận 9) đến Quốc lộ 51 
(tỉnh Đồng Nai), thị trường bất động sản 
khu Đông (Quận 2, Quận 9) có dấu hiệu 
phát triển, mạnh mẽ nhất là thời điểm bước 
sang năm 2015, khi hai công trình giao 
thông đối ngoại quan trọng đi qua địa bàn 
Quận 2 đưa vào vận hành. Đó là đường 
Vành đai Đông (nối từ chân cầu Phú Mỹ - 
ngay nút giao với đường Đồng Văn Cống, 
Quận 2 đến đường D2 – Bình Thạnh nối 
vào Khu công nghệ cao TP.HCM, Quận 9) 
và phần còn lại của cao tốc TP.HCM - 
Long Thành - Dầu Giây (giao với Đại lộ 
Mai Chí Thọ, Quận 2). Xung quanh hai 
trục giao thông quan trọng này, hàng loạt 
dự án nhà ở được triển khai. 
Cùng với tốc độ phát triển nhanh của 
CSHT là sự mở rộng không gian đô thị và 
sự gia tăng dân số. Tính từ thời điểm thành 
lập quận năm 1997, số dân chỉ khoảng 
86.000 người thì đến năm 2015 đã ở mức 
147.168 nhân khẩu. Việc tăng gần gấp đôi 
dân số trong khoảng thời gian 18 năm cho 
thấy quá trình ĐTH nhanh đã thực sự tác 
động đến việc gia tăng dân số. Bên cạnh cư 
dân các vùng miền khác quy tụ về đây, một 
số lượng lớn các công nhân, viên chức, kỹ 
sư, chuyên gia trong và ngoài nước đã 
đến làm việc và sinh sống tại Quận 2. 
Những yếu tố này chính là tác nhân thúc 
đẩy sự phát triển kinh tế của Quận trong 
quá trình đô thị hóa. 
2.2. Sự phát triển của thương mại - 
dịch vụ trong quá trình đô thị hóa Quận 2 
từ 1997 – 2015 
Trong nền kinh tế, sự phát triển của 
thương mại - dịch vụ (TM - DV) có một 
vai trò rất quan trọng trong việc lưu thông 
hàng hóa, tạo điều kiện cho sản xuất phát 
triển. Bên cạnh đó, sự phát triển của TM - 
DV còn là chỉ số quan trọng để đánh giá 
mức độ đô thị hóa. 
Giai đoạn 1997 - 2005 
Ở giai đoạn mới thành lập, trên địa bàn 
Quận 2 có 35 doanh nghiệp và 2.130 hộ 
kinh doanh với doanh thu còn thấp. Toàn 
Quận chưa có siêu thị, trung tâm thương 
mại, chỉ có một số chợ truyền thống thành 
lập từ trước năm 1975 (chợ Cát Lái, chợ 
Tân Lập, chợ Bình Trưng) và một vài chợ 
họp một buổi (chợ Chiều, chợ Giồng, chợ 
Cây Xoài, chợ Thủ Thiêm) nằm rải rác trên 
địa bàn Quận. Từ sau năm 2000, với tốc độ 
ĐTH nhanh chóng, kinh tế Quận 2 đã 
chuyển biến theo hướng tăng dần tỷ trọng 
về TM - DV. 
Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất (1997 - 
2001) đã xác định mục tiêu từng bước 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Quận theo hướng 
dịch vụ, thương mại - công nghiệp - nông 
nghiệp. Sau 3 năm thực hiện, cơ cấu kinh tế 
Quận đã có sự chuyển biến. Theo đó, năm 
1997, công nghiệp (CN) chiếm 93,23%, TM 
- DV chiếm 4,58% và nông nghiệp (NN) 
chiếm 2,19%. Đến năm 2000, CN chiếm 
90,09%, TM - DV 8,49% và nông nghiệp là 
1,42% (niên giám thống kê 2005 - Quận 2, 
Trang 39). Như vậy chỉ sau ba năm thực 
hiện Nghị quyết, nếu như tỉ trọng của sản 
xuất CN giảm, thì TM - DV năm 2000 tăng 
gần gấp đôi so với năm 1997. 
Trong giai đoạn 1997 - 2001, hoạt 
động sản xuất TM - DV trên địa bàn Quận 
2 chủ yếu là buôn bán nhỏ, lẻ phục vụ nhu 
cầu tiêu dùng, phát triển ở một số địa bàn 
dân cư tập trung, mạng lưới thương nghiệp 
còn mỏng và hình thành tự phát theo các 
trục lộ chính. Ngành hàng chủ yếu của hệ 
NGUYỄN HỒNG TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
87 
thống TM - DV trên địa bàn Quận là ăn 
uống, kinh doanh vàng bạc đá quý, dịch vụ 
cầm đồ, mua bán máy móc thiết bị và hàng 
tiêu dùng. Hoạt động du lịch và xuất nhập 
khẩu do Quận quản lý có nhưng không 
đáng kể. Hầu hết các cơ sở TM - DV tận 
dụng mặt bằng nhà ở để kinh doanh, do 
đó bị hạn chế trong việc mở rộng quy mô 
hoạt động. 
Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ hai 
(2001 - 2005) tiếp tục xác định phát triển 
kinh tế theo cơ cấu CN - TM - DV. Sau 5 
năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội, 
kinh tế Quận 2 tăng trưởng với tốc độ cao, 
các nguồn lực kinh tế được phát huy, giá trị 
sản xuất CN - TTCN tăng bình quân hàng 
năm 23,47% (chỉ tiêu 18 - 20%/năm), 
doanh thu TM - DV tăng bình quân hàng 
năm 71,93% (chỉ tiêu 35 - 40%/năm) và 
sản xuất nông nghiệp (NN) giảm bình quân 
hàng năm 6,1%. Cơ cấu kinh tế Quận 
chuyển biến theo đúng định hướng và phù 
hợp với quá trình ĐTH khi tỷ trọng ngành 
TM - DV tăng mạnh từ 9,46% (năm 2000) 
tăng lên 34,51% (năm 2005) trong khi CN 
- TTCN và NN có xu hướng giảm dần. 
(UBND TP.HCM, 2005, Báo cáo hình hình 
thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 
2001 - 2005 và phương hướng nhiệm vụ 5 
năm 2005 - 2010, tr.80). 
Bảng 1. Doanh thu ngành thương mại - dịch vụ giai đoạn 2000 – 2005 
DOANH THU CÁC NĂM (tỷ đồng) 
Hình thức kinh tế 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
Cá thể 173,52 189,97 278,41 380,35 561,51 715,68 
Công ty TNHH 94,88 195,83 269,89 597,99 1.040,50 1.496,60 
DNTN 79,15 117,76 124,98 211,97 252,43 353,34 
 Nguồn: Niên giám thống kê 2005 - Quận 2, Trang 38 
Doanh thu TM - DV Quận 2 năm 2000 
là 347,55 tỷ đồng, đến năm 2005 tăng vọt 
lên 2.565,41 tỷ đồng. Tốc độ phát triển 
bình quân/năm là 79,4%. Tuy doanh thu có 
mức tăng nhanh nhưng giá trị còn thấp so 
với các quận nội thành khác, chỉ chiếm tỷ 
lệ 0.2% trong tổng mức bán chung ở khu 
vực nội thành của thành phố. 
Có thể thấy sau ngày thành lập Quận 
2, chính quyền Quận 2 đã khuyến khích 
mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư 
vào quận bằng những chính sách thông 
thoáng, tạo nhiều thuận lợi cho ngành TM 
- DV có điều kiện phát triển. Bên cạnh 
đó, với đà phát triển của ĐTH, việc thu 
hẹp dần đất nông nghiệp đã tạo ra một lớp 
người không nghề nghiệp nhưng có vốn 
tương đối do được đền bù giải tỏa, chuyển 
sang làm thương mại, dịch vụ tạo ra sự 
bùng phát kinh doanh. Các doanh nghiệp 
tư nhân, công ty TNHH lần lượt ra đời, 
dọc theo các con đường chính, góp phần 
hình thành những khu phố thương mại 
dịch vụ đa dạng hơn trước rất nhiều. Một 
số công ty nước ngoài, với bề dày kinh 
nghiệm và tầm cỡ thế giới, cũng đã nhanh 
chóng nhận ra những thuận lợi về con 
người, về địa thế đất đai và nhất là những 
chính sách mang tính khuyến khích, hỗ 
trợ của chính quyền. Họ đã mạnh dạn đầu 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 
88 
tư và có những thành công nhất định. 
Có thể kể đến Park Land, River side với 
dịch vụ cho thuê căn hộ cao cấp. Metro, 
APSC kinh doanh đủ các loại hàng tiêu 
dùng.v.v. 
Ngoài những đơn vị có quy mô lớn, 
hoạt động hiệu quả thì vẫn còn đó những 
dãy phố mà hình thái kinh doanh còn rất 
manh mún, đậm nét nông thôn, tạo ra sự 
chênh lệch rõ nét về sự phát triển của một 
quận đang trong quá trình ĐTH. 
Giai đoạn 2006 - 2015 
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ 
Quận lần thứ ba (2006 - 2010), lần đầu tiên 
đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
theo hướng dịch vụ - thương mại, phấn đấu 
đến năm 2010, tỷ trọng ngành TM - DV 
đạt trên 50% cơ cấu kinh tế. 
Bảng 2. Tỷ trọng ngành CN-TTCN và TM-DV trên địa bàn Quận 2 (2010 - 2015) 
(Đơn vị: %/cơ cấu ngành kinh tế) 
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 
CN-TTCN 46,65 45,20 40,78 37,57 33,78 33,31 
TM-DV 53,31 54,79 59,21 62,47 66,21 66,69 
 Nguồn: Báo cáo của UBND Quận 2 về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm, 2011 - 2015 trên địa bàn. 
Theo thống kê ở bảng 2, có thể thấy tỷ 
trọng của ngành TM - DV từ 2010 - 2015 
đã tăng đáng kể, từ 53,31% (năm 2010) lên 
66,69% (vào cuối năm 2015). Ngược lại, 
cũng trong giai đoạn này, CN - TTCN giảm 
từ 46,65% xuống còn 33,31%. Nếu so với 
thời điểm mới thành lập Quận, sự thay đổi 
về tỷ trọng giữa các ngành kinh tế trên địa 
bàn Quận 2 càng thể hiện rõ nét. Nếu năm 
1997, CN - TTCN chiếm 93,23%, chủ yếu 
ở quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, 
TM - DV khi đó chỉ chiếm 4,58%, NN ở 
mức 1,42%; thì đến cuối năm 2015, tỷ 
trọng ngành TM - DV chiếm gần 70% 
trong cơ cấu kinh tế Quận, CN dưới 30% và 
NN chỉ chiếm khoảng 0,003%. Điều này 
cho thấy, lĩnh vực TM - DV có đóng góp 
ngày càng lớn vào kinh tế của Quận. 
Bảng 3. Giá trị thương mại dịch vụ trên địa bàn Quận 2 (2011 - 2015) 
 (Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế 
- xã hội năm 2016 - 2020 của UBND Quận 2) 
NGUYỄN HỒNG TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
89 
Trong giai đoạn 2011 - 2015, TM - 
DV có sự tăng trưởng mạnh từ 26.689 tỷ 
đồng lên 62.379 tỷ đồng, có được kết quả 
này là do chủ trương của lãnh đạo 
TP.HCM về mặt dài hạn là tiếp tục đẩy 
mạnh phát triển tỷ trọng TM - DV. 
Theo Quyết định số 1999/QĐ-UBND 
ngày 24/4/2014 của UBND TP.HCM về 
phương hướng, nhiệm vụ phát triển 
TP.HCM đến năm 2020 gắn với Quy hoạch 
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành 
phố đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2025, UBND Quận 2 đã xây dựng kế 
hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho giai 
đoạn 2015 - 2020 với doanh thu ngành dịch 
vụ - thương mại tăng bình quân mỗi năm từ 
20 - 25%. Đến năm 2020, tỷ trọng ngành 
dịch vụ - thương mại sẽ chiếm trên 80% 
trong cơ cấu kinh tế quận. 
Trong cơ cấu ngành kinh tế TM - DV 
trên địa bàn Quận 2 có 3 lĩnh vực đóng góp 
đáng kể vào nguồn thu ngân sách và làm 
thay đổi diện mạo của quận trong quá trình 
ĐTH; đó là hoạt động kinh doanh - dịch vụ 
bất dộng sản, bán lẻ (siêu thị, trung tâm 
thương mại - TTTM) và dịch vụ cảng 
chiếm ưu thế, nổi trội hơn hết. 
Dịch vụ cảng - logistics 
Theo Quyết định 791/QĐ-CP của Thủ 
tướng Chính phủ năm 2005 về việc phê 
duyệt quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển 
khu vực TP.HCM - Đồng Nai - Bà Rịa - 
Vũng Tàu (nhóm cảng số 5) đến năm 2010 
và định hướng đến năm 2020, có đề cập 
đến việc di dời các cảng trên sông Sài Gòn 
(Tân Cảng Sài Gòn, cảng Nhà Rồng, 
Khánh Hội) và Nhà máy đóng tàu Ba Son. 
Trong đó, cùng với cảng Hiệp Phước 
(huyện Nhà Bè), cảng Cát Lái (Quận 2, 
trên sông Đồng Nai) là cảng container tổng 
hợp phục vụ công tác di dời các cảng trên 
sông Sài Gòn, cũng như hỗ trợ cho cụm 
cảng cửa ngõ quốc tế Tân Cảng - Cái Mép 
(Bà Rịa - Vũng Tàu) trong việc vận chuyển 
hàng hóa. Hiện nay Tân Cảng Sài Gòn đã 
được sát nhập vào cảng Cát Lái. Với quy 
hoạ