Mở đầu: Năm 2011, trận dịch Tay Chân Miệng bùng nổ, tại TP HCM và các tỉnh miền nam. Một số lượng
đáng kể các trẻ có biểu hiện nặng đã nhập viện tại BV bệnh Nhiệt Đới-khoa Hồi Sức Cấp Cứu Tích Cực Chống
Độc Trẻ Em. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mong có cái nhìn toàn cảnh của các thể bệnh nặng góp phần mở
rộng những hiểu biết thiết thực về bệnh Tay Chân Miệng (TCM) của trẻ em VN.
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhi bệnh TCM nặng tại bệnh viện
Bệnh Nhiệt Đới từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2011.
Đối tượng- Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả hồi cứu. Đề tài khảo sát các bệnh nhi được chẩn đoán
TCM 2B trở lên, được điều trị tại khoa HSCCTCCĐTE BVBNĐ từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2011.
Kết quả: Có 150 trường hợp được đưa vào khảo sát. Về đặc điểm dịch tễ: tỉ lệ nam/nữ bằng 2,1, độ tuổi
thường gặp nhất là từ 6 tháng- 3 tuổi (86%). 70,7% cư ngụ ở TP. HCM. Về đặc điểm lâm sàng: nhập hồi sức (từ
các khoa thường chuyển xuống) chủ yếu là ngày 3 (44%), nhưng nhập thẳng khoa Hồi sức thường rơi vào ngày 2
(47%). Các biểu hiện lâm sàng khi nhập hồi sức: sốt ≥ 380C trở lên (92,7%), sang thương da (78,7%), loét miệng
(68,7%), giật mình (68%). Có 11,3% không biểu hiện sang thương hoặc loét miệng. Biến chứng xuất hiện chủ
yếu vào ngày 2, 3, 4 của bệnh. Phân độ lúc xuất viện: hơn 50% các trường hợp là độ 2B, chủ yếu là 2B nhóm 1.
Độ 3 chiếm tỷ lệ cao 46,7% và chỉ có 3 ca độ 4. Có 1 trường hợp độ 4 tử vong. Thời gian hạ sốt trung bình là 6,7 ±
1,7 ngày và thời gian nằm viện trung bình là 9 ± 3,2 ngày. Về đặc điểm cận lâm sàng: trong 4 ngày đầu, bạch cầu
máu cao (> 10000/mL), cao nhất vào N2, trở về bình thường từ N5, tỉ lệ Neutrophile và Lymphô tương đương
nhau. Thay đổi dịch não tủy gợi ý bệnh cảnh viêm màng não siêu vi. Trên 136 ca phết họng làm PCR tìm
enterovirus, tỷ lệ dương tính là 68,4%.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh tay chân miệng nặng tại Bệnh viện bệnh Nhiệt Đới (từ tháng 05-2011 đến tháng 07-2011), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 265
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
CỦA BỆNH TAY CHÂN MIỆNG NẶNG TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI
(TỪ THÁNG 05-2011 ĐẾN THÁNG 07-2011)
Nguyễn Thị Thúy Nga*, Huỳnh Trung Triệu*, Đông Thị Hoài Tâm**
TÓM TẮT
Mở đầu: Năm 2011, trận dịch Tay Chân Miệng bùng nổ, tại TP HCM và các tỉnh miền nam. Một số lượng
đáng kể các trẻ có biểu hiện nặng đã nhập viện tại BV bệnh Nhiệt Đới-khoa Hồi Sức Cấp Cứu Tích Cực Chống
Độc Trẻ Em. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mong có cái nhìn toàn cảnh của các thể bệnh nặng góp phần mở
rộng những hiểu biết thiết thực về bệnh Tay Chân Miệng (TCM) của trẻ em VN.
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhi bệnh TCM nặng tại bệnh viện
Bệnh Nhiệt Đới từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2011.
Đối tượng- Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả hồi cứu. Đề tài khảo sát các bệnh nhi được chẩn đoán
TCM 2B trở lên, được điều trị tại khoa HSCCTCCĐTE BVBNĐ từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2011.
Kết quả: Có 150 trường hợp được đưa vào khảo sát. Về đặc điểm dịch tễ: tỉ lệ nam/nữ bằng 2,1, độ tuổi
thường gặp nhất là từ 6 tháng- 3 tuổi (86%). 70,7% cư ngụ ở TP. HCM. Về đặc điểm lâm sàng: nhập hồi sức (từ
các khoa thường chuyển xuống) chủ yếu là ngày 3 (44%), nhưng nhập thẳng khoa Hồi sức thường rơi vào ngày 2
(47%). Các biểu hiện lâm sàng khi nhập hồi sức: sốt ≥ 380C trở lên (92,7%), sang thương da (78,7%), loét miệng
(68,7%), giật mình (68%). Có 11,3% không biểu hiện sang thương hoặc loét miệng. Biến chứng xuất hiện chủ
yếu vào ngày 2, 3, 4 của bệnh. Phân độ lúc xuất viện: hơn 50% các trường hợp là độ 2B, chủ yếu là 2B nhóm 1.
Độ 3 chiếm tỷ lệ cao 46,7% và chỉ có 3 ca độ 4. Có 1 trường hợp độ 4 tử vong. Thời gian hạ sốt trung bình là 6,7 ±
1,7 ngày và thời gian nằm viện trung bình là 9 ± 3,2 ngày. Về đặc điểm cận lâm sàng: trong 4 ngày đầu, bạch cầu
máu cao (> 10000/mL), cao nhất vào N2, trở về bình thường từ N5, tỉ lệ Neutrophile và Lymphô tương đương
nhau. Thay đổi dịch não tủy gợi ý bệnh cảnh viêm màng não siêu vi. Trên 136 ca phết họng làm PCR tìm
enterovirus, tỷ lệ dương tính là 68,4%.
Kết luận: Để phát hiện sớm bệnh TCM nặng nên lưu ý những điểm sau đây: trẻ em nhỏ < 3 tuổi, nhất là trẻ
nam. Nếu trẻ sốt ngày 2- ngày 3, lưu ý phát hiện những sang thương ngoài da và/hoặc loét miệng, giật mình để
đưa trẻ vào viện sớm. Phát hiện sớm những biến chứng tim mạch, thần kinh, bằng cách theo dõi sát nhịp tim,
huyết áp, nhịp thở và cách thở hoặc biểu hiện giật mình. Không nhất thiết phải dùng kháng sinh dù bạch cầu máu
cao trong vài ngày đầu.
Từ khóa: Tay chân miệng nặng, biến chứng tim mạch, thần kinh, hô hấp
* Bệnh Viện Bệnh Nhiệt đới ** Bộ Môn Nhiễm ĐHYD TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thúy Nga, ĐT: 0985805501 Email: hello_thisworld@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa I 266
ABSTRACT
EPIDEMIOLOGIC, CLINICAL FEATURES AND LABORATORY FINDINGS OF SEVERE HAND-
FOOT-MOUTH DISEASE AT THE HOSPITAL FOR TROPICAL DISEASES
FROM MAY 2011 TO NOV 2011
Nguyen Thi Thuy Nga, Huynh Trung Trieu, Dong Thi Hoai Tam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17-Supplement of No 1-2013: 265 - 271
Background: A large outbreak of Hand Foot Mouth Disease (HFM) happened in 2011 in HCM city and the
south provinces of VN. We would like to have an overall view of the severe cases, to have a more understanding of
this disease.
Material and methods: Through a retrospective study, we described the epidemiologic, clinical features and
laboratory findings of severe cases of HFM admitted to the Pediatric Intensive Care Unit of the Hospital For
Tropical diseases from may 2011 to November 2011.
Results: 150 cases were described, with a boy/girl rate of 2.1, and 86% from 6 months to 3 years of age. The
median day for transferring the patient from another ward to the PICU was Day 3 of the illness (43%), but those
who were directly admitted to PICU were on Day 2 (47%). The main clinical signs on admission were:
temperature ≥380C (92.7%), skin lesions (78.7%), mouth ulcerations (68.7%), myoclonic jerk (68%). There were
11.3% of cases who had no any skin or mouth ulcers. The complications occurred mainly in Day 2, 3, 4 of the
illness. At discharge more than 50% were classified as 2B. The grade 3 has a high percentage 46.7% and 3 cases
were classified as grade 4, in which 1 died. The median effervescence day was 6.7 ± 1.7, and the median day of
hospitalization was 9 ± 3.2 days. About the laboratory parameters: for the first 4 days, the white cells count was
high (> 10000/mL), highest on Day 2, and became normal from Day 5. The percentage of Neutrophiles and
Lymphocytes were similar. The CSF disorders were of viral meningitis. In 136 PCR throat swabs performed,
68.4% were positive with enterovirus.
Conclusions: To a better detection of severe HFM cases, we should pay more attention to infants < 3 years
old, especially male patients. Vital signs and myoclonic jerk should be monitored carefully to detect cardiac,
respiratory and neurological complications. Antibiotics were not necessary even if blood leucocytes were high.
Key words: Severe Hand Foot Mouth disease, children, complications
MỞ ĐẦU
Trong vòng một thập kỉ trở lại đây, với nhiều
trận dịch liên tiếp xảy ra, bệnh Tay Chân Miệng
(BTCM) đã được xem như một vấn đề sức khỏe
cộng đồng hết sức quan trọng cho các quốc gia
khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bệnh do
Coxsackievirus A16 (CA16) và Enterovirus 71
(EV71) gây ra. Năm 2003, tại khu vực phía nam,
một đợt bùng phát bệnh viêm não cấp tính liên
quan đến BTCM đã được báo cáo tại TP HCM.
Năm 2005, đã xác định là EV71 trong 42,1% và
52,1% là CA 16 trong 411 mẫu bệnh phẫm trẻ
em. Từ năm 2007 trở đi, số ca bệnh hàng năm lên
đến hơn 10 000 ca, với tử vong từ 23 đến 25 ca(6).
Phần lớn các trường hợp bệnh xảy ra ở các tỉnh
phía nam. Chúng tôi mong được hiểu thêm về
đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của
những ca bệnh nặng này, góp phần mở rộng
thêm những hiểu biết thiết thực về bệnh Tay
Chân Miệng của trẻ em Việt Nam qua khảo sát
mô tả các trẻ em nhập tại BV Bệnh Nhiệt Đới của
mùa dịch năm 2011.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng,
cận lâm sàng của bệnh nhi bệnh Tay Chân
Miệng nặng tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới
khoa HSCCTCCĐTE từ tháng 5/2011 đến
tháng 7/2011.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 267
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Mô tả hồi cứu với tiêu chuẩn chọn bệnh là
các trẻ em TCM từ độ 2B trở lên
KẾT QUẢ
Đặc điểm dịch tễ:
Có 101 trẻ nam (67%) và 49 trẻ nữ (33%), tỷ lệ
nam/nữ bằng 2,1. Đa số cư ngụ ở TP HCM
(70,7%). Số tuổi phân bố từ 3,5 tháng đến 72
tháng (6 tuổi). Chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm từ
13 đến 24 tháng (54%), kế đến là 2 nhóm 7-12
tháng (18%) và 25-36 tháng (14%).
4%
18%
54%
14%
8%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
≤6th 7-12th 13-24th 25-36th 37-48th
Tỷ lệ (%)
Biểu đồ 1: Phân bố ca bệnh theo nhóm tuổi
Đặc điểm lâm sàng
Nhập viện sớm nhất là ngày 1, trễ nhất là
ngày 6. Ngày nhập viện nhiều nhất là ngày 2
(42,7%), kế đến là ngày 3 (29,3%) và ngày 4
(14,7%). Trong đó, ngày 3 là ngày các trẻ từ trại
thường được chuyển xuống khoa hồi sức nhiều
nhất (44%), còn ngày 2 là ngày trẻ nhập thẳng
nhiều nhất (47%).
11.9%
44.0%
16.7%
47.0%
24.2%
21.2%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
Tỷ lệ (%)
Khoa chuyển HS Nhi
Nhập thẳng HS Nhi
Biểu đồ 2: Phân bố bệnh theo ngày nhập khoa hồi sức
Các biểu hiện LS khi nhập hồi sức: sốt từ
380C trở lên (92,7%), sang thương da (78,7%),
loét miệng (68,7%). Có 11,3% không biểu hiện
sang thương hoặc loét miệng. Biểu hiện giật
mình thường là nguyên nhân đưa trẻ vào khoa
chiếm 68%.
01%
04%
12%
68%
69%
79%
93%
0% 50% 100%
YẾU CHI
ĐI LOẠNG CHOẠNG
RUN CHI
GIẬT MÌNH
LOÉT MIỆNG
SANG THƯƠNG DA
SỐT
Tỷ lệ (%)
Biểu đồ 3: Tần suất biểu hiện lâm sàng khi nhập
khoa hồi sức
Biến chứng
Biến chứng tim mạch chiếm tỉ lệ cao nhất
(96,7%) với biểu hiện tim nhanh, còn huyết áp
cao chỉ xuất hiện ở 30% các trường hợp. Biến
chứng hô hấp (38,7%) gồm thở nhanh, thở không
đều, thở rít. Biến chứng thần kinh biểu hiện với
tần suất 80% .
Bảng 1: Tần suất có biến chứng tim mạch, hô hấp,
thần kinh
Biểu hiện biến chứng Số ca Tỉ lệ %
Tim nhanh 145 96,7
Huyết áp cao 45 30
Hô hấp * 58 38,7
Thần kinh ** 120 80
Có 70,3% các ca bệnh có biểu hiện tim nhanh,
tập trung từ ngày 2 đến ngày 4. Còn huyết áp
cao lại xuất hiện từ ngày 2 đến ngày 6 của bệnh.
Về biến chứng hô hấp, thở nhanh và thở
không đều chiếm tỷ lệ lần lượt là 27,6% và 25%
(Biểu đồ 5).
Về biểu hiện thần kinh, giật mình chiếm tỷ lệ
cao nhất (76,7%), nhất là vào ngày 2-ngày 3. Run
chi và thất điều chiếm tỉ lệ khoảng 20% (33 ca).
Có 3 ca thất điều, 1 ca có biểu hiện đảo mắt,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa I 268
không có ca nào có biểu hiện yếu liệt. Dựa vào
các biểu hiện tim mạch và thần kinh như trên,
phân độ lúc xuất viện bao gồm: 51,3% là độ 2B
với 42% là 2B nhóm 1. Độ 3 chiếm tỷ lệ 46,7% và
3 ca độ 4, trong đó có một trường hợp tử vong.
8
12
14
36 36
30
0
5
10
15
20
25
30
35
40
0 2 4 6 8 10 12
Ngày bệnh
Số ca
Số ca cao huyết áp
Số ca tim nhanh
Biểu đồ 4: Tần suất ca bệnh có tim nhanh, huyết áp
cao tính theo ngày bệnh
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Số ca
Thở nhanh
Thở không đều
Thở rít
Biểu đồ 5: Tần suất các biểu hiện hô hấp theo ngày
bệnh
Đặc điểm cận lâm sàng
Bạch cầu được theo dõi mỗi ngày. Trong 4
ngày đầu, trị số bạch cầu có phần cao hơn so với
trị số bình thường (thay đổi từ 11.200 đến
14.000/mL), cao nhất vào N2 (14.400/mL) và trở
về bình thường từ N5. Tỷ lệ đa nhân và đơn
nhân tương đương nhau.
Tiểu cầu không giảm, và trị số CRP không
tăng cao. Ở 12 bệnh nhân có chỉ định chọc dò tủy
sống, và giá trị trung vị của số lượng DNT không
cao (12 tế bào/ml), tỷ lệ tế bào đa nhân và đơn
nhân tương đương nhau. Các trị số đạm, đường
và lactat DNT trong giới hạn bình thường. 17
trường hợp được làm CK-MB và trị số trung vị là
34.5 U/l. Trung vị của Troponin I trên 25 ca là
0,001U/l. Mức đường huyết trong giới hạn 70-
140g/dl chiếm 89,8% các trường hợp.
11.2
14.4
12.6
11.2
9.8 9.8
8.8
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1 2 3 4 5 6 7
Số lượng tb
BẠCH CẦU
NEUTRO
LYMPHO
Biểu đồ 6: Thay đổi của bạch cầu từ ngày 1 đến
ngày 7
Về xét nghiệm PCR để tìm tác nhân gây
bệnh, chúng tôi thực hiện được 136 ca phết họng,
trong đó tỷ lệ (+) là 68,4%. Tỷ lệ (+) của phết trực
tràng và dịch não tủy thấp hơn.
Bảng 2: Kết quả PCR tìm Enterovirus
Số ca thực
hiện
Số ca (+) Tỷ lệ %
Phết họng 136 93 68,4
Phết bóng nước 3 3 100
Phết trực tràng 8 4 50
PCR dịch não tủy 22 2 9,1
Về điều trị
Ở các bệnh nhi độ 2B nhóm 1 (63 ca), có 17
bệnh nhân được truyền IVIG. Có 27 (32%)
bệnh nhân thuộc độ 2B nhóm 2 và độ 3 không
sử dụng IVIG do tình trạng cao HA thoáng
qua. Chỉ có 21,4% bệnh nhân độ 3 cần đến
điều trị vận mạch.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ
Về giới tính
Với tỉ lệ nam nữ xấp xỉ 2,1/1, có thể nói rằng
BTCM xảy ra ở phái nam nhiều hơn phái nữ và
kết quả này cũng tương tự như nhiều nghiên
cứu khác : nghiên cứu của Sun Li-mei năm 2008
ở Quảng Đông Trung Quốc, tỉ lệ nam/nữ
=1,84/1(7). Nghiên cứu của Susheera
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 269
Chatproedprai tại Thái Lan năm 2009, ghi nhận
nam/nữ=1,3/1(8). Nghiên cứu của Chế Th. Đoan
tại BV Nhi Đồng 2 thì tỉ lệ này là 1,7/1. Còn theo
tác giả Nguyễn Trần Nam tại BV Nhi Đồng 2
năm 2011, cũng ghi nhận được sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỉ lệ trẻ nam diễn tiến độ nặng
hơn so với trẻ nữ(5). Hiện chúng tôi cũng chưa
tìm thấy y văn nào giải thích cụ thể tình trạng
bệnh nặng liên quan đến giới tính, nhưng sự
khác biệt mạnh về giới tính này có thể góp phần
trong việc tìm hiểu các yếu tố liên quan độ nặng
của trẻ bệnh.
Về nhóm tuổi
Trẻ nhỏ nhất trong mẫu nghiên cứu được ghi
nhận là 3 tháng rưỡi, và lớn nhất là 72 tháng (6
tuổi). Bệnh nhân thuộc nhóm 13-24 tháng chiếm
tỉ lệ cao nhất (54%), kế đến là nhóm 7-12 tháng
và 25-36 tháng với tỉ lệ lần lượt là 18%, 14%. Gần
như các báo cáo cho biết BTCM gặp chủ yếu ở
trẻ < 5 tuổi, nhất là ở trẻ < 3 tuổi. Với tác giả Sun
Li-mei tại Đài Loan, tỉ lệ trẻ dưới 3 tuổi chiếm
70%(7). Một số nghiên cứu ở Đài Loan cho thấy
trẻ < 3 tuổi có nguy cơ biến chứng cao hơn(2,4).
Các tác giả này cũng nhận định rằng tuổi càng
lớn thì xác suất bệnh nặng càng ít hơn. Điều này
hẳn có liên quan đến tình trạng chưa đủ trưởng
thành của hệ miễn dịch bẩm sinh và hệ miễn
dịch thích ứng ở lứa tuổi 1- 5 tuổi này.
Về đặc điểm lâm sàng:-Về ngày nhập khoa hồi
sức
Thông thường trẻ nhập viện vào trại thường
với chẩn đoán là TCM 2A và được chuyển đến
khoa hồi sức cấp cứu nếu trở nặng hoặc chuyển
độ. Với nhóm bệnh nhân này, ngày nhập hồi sức
cấp cứu trải dài từ ngày 1 đến sau ngày 7. Chiếm
ưu thế 44% là ngày 3 của bệnh. Kế đến là ngày 4
và 2 với tỉ lệ 16,7% và 11,9%. Chúng tôi lưu ý
rằng sau ngày 6, vẫn còn 10% bệnh nhi chuyển
xuống hồi sức. Đây có phải chăng những trường
hợp có biến chứng muộn? Đối với những trẻ
nhập thẳng vào khoa hồi sức, ngày nhập nhiều
nhất lại là ngày 2 (47%), còn ngày 3 là 24,2% và
ngày 4 là 21,2%. Không có ca nào vào thẳng khoa
hồi sức từ ngày 6 trở đi. Phải chăng điều này nói
lên rằng diễn biến nặng của bệnh nhân TCM đòi
hỏi phải nhập hồi sức có thể không có nữa sau
ngày 6 của bệnh? Nhìn chung vào biểu đồ 2, có
thể nói rằng TCM biểu hiện nặng sớm ngày 2-
ngày 3 của bệnh. Nếu đem so với bệnh sốt xuất
huyết Dengue, đa số biểu hiện nặng, chẳng hạn
sốc, xuất huyết nặng, xảy ra vào ngày trễ hơn,
tức là ngày 4-ngày 5 của bệnh. Đây cũng là một
yếu tố lưu ý để phân biệt sốt xuất huyết Dengue
và TCM.
Về biểu hiện lâm sàng khi nhập hồi sức
Chúng tôi nhận định rằng biểu hiện sang
thương da, loét miệng gợi ý BTCM chỉ chiếm tỉ
lệ khoảng 70% và có nghĩa rằng cần lưu ý những
trường hợp không có biểu hiện ngoài da-niêm
mạc mà vẫn có thể có biến chứng của TCM. Sang
thương da đơn thuần là 78,7%, loét miệng đơn
thuần là 68,7%.Vừa sang thương da, vừa loét
miệng chiếm 58,7%. Nghiên cứu ghi nhận có tới
11,3% không có biểu hiện sang thương da hoặc
loét miệng. Những trẻ không có biểu hiện sang
thương da hoặc loét miệng đều có triệu chứng
giật mình. Hạn chế của khảo sát hồi cứu ở đây là
không thể mô tả được số lượng sang thương,
hình ảnh cụ thể của vết loét, vị trí nào xuất hiện
nhiều, vị trí nào xuất hiện ít. Có thể nói rằng trên
thực tế có những trường hợp ghi nhận sang
thương da rất nhiều hoặc cũng có ca vết loét
miệng rất nhỏ và khó nhìn thấy được.
Trong các biểu hiện thần kinh lúc nhập viện
thì giật mình chiếm ưu thế (68%), run chiếm tỉ lệ
thấp (12%), đi loạng choạng và yếu chi chiếm tỉ
lệ không đáng kể (dưới 4%). Tỉ lệ gặp sang
thương da hoặc thần kinh cũng tương tự trong
khảo sát của các tác giả khác.
Về biến chứng
Ngày 3 là ngày quan trọng đối với bệnh
TCM, ngày mà các biến chứng tim nhanh, huyết
áp cao, thở nhanh, thở không đều, run chi, thất
điều xuất hiện với tỉ lệ cao nhất. Điều này cũng
phù hợp với kết quả của nghiên cứu của bệnh
viện Nhi Đồng I thì thời điểm xuất hiện biến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa I 270
chứng thường gặp từ ngày thừ 2–5 (88,7%), cao
nhất là ngày thứ 3 (35%). Các dấu hiệu này biểu
hiện rối loạn hệ thần kinh tự động, gây nên bởi
vai trò đáp ứng viêm của cytokin, do phóng
thích quá mức các catecholamin, cũng như tác
động trực tiếp đến trung tâm tuần hoàn, hô hấp
ở thân não.
Về phân độ bệnh
Dựa vào bảng phân độ BTCM của Bộ Y Tế
năm 2012(1), chúng tôi đã phân các ca bệnh thành
các độ 2B nhóm 1, 2B nhóm 2, độ 3 và độ 4. Đa
phần các ca bệnh tập trung ở độ 2B và độ 3
(98%). Trong đó, độ 2B chiếm tỉ lệ cao nhất (hơn
50%), chủ yếu là 2B nhóm 1, độ 3 chiếm tỉ lệ khá
cao (46,7%), độ 4 chiếm tỉ lệ thấp (2%). Vì định
nghĩa của các ca độ 2 đã được quy định rõ, nên
chúng tôi đi sâu tìm hiểu biểu hiện của các ca độ
3 và độ 4. Trong 70 ca độ 3, thì HA cao chiếm tới
64,3% (45 ca), trong đó HA cao kèm thở nhanh
hay thở không đều thay đổi từ 20% đến 22,8%.
Có 25 ca không cao huyết áp, nhưng có thở
nhanh và thở không đều với tỉ lệ khoảng 27,1%.
Còn cả 3 ca độ 4 đều có biểu hiện cao HA, thở
nhanh, thở không đều. Trong đó có 1 ca xuất
hiện thêm thất điều, đảo mắt, sau đó rơi vào suy
hô hấp tuần hoàn và tử vong.
Về đặc điểm cận lâm sàng
Khi ghi nhận số lượng bạch cầu trung bình
từ ngày 1 đến ngày 7 của các bệnh nhi, chúng tôi
nhận thấy, bạch cầu có phần tăng cao vào những
ngày đầu của bệnh, nhưng giảm dần rồi trở về
bình thường từ ngày 5. Tăng cao nhất là ngày 2
(14,4 K/mL), tiếp đến là ngày 3 (12,6 K/mL), ngày
1 và 4 bằng nhau (11,2 K/mL). Tuy nhiên dù
bạch cầu có tăng nhưng tỉ lệ Neut và Lym tương
đương nhau (Biểu đồ 6). Tại sao đây là một bệnh
do vi-rút mà bạch cầu máu lại gia tăng? Đây là
một đặc điểm của BTCM nặng. Tương tự như
việc xuất hiện các biến chứng tim mạch, hô hấp,
thần kinh xảy ra cao nhất ở ngày 3, thì số lượng
trung bình của bạch cầu cũng tăng cao vào ngày
2 và 3. Số lượng bạch cầu giảm dần cũng đi đôi
với tình trạng ổn định dần trên lâm sàng.
Về đặc điểm dịch não tủy: có 38 trẻ có những
biểu hiện thần kinh cần phân biệt với viêm màng
não mủ, và được chọc dò tủy sống. Giá trị trung
vị của số lượng tế bào/DNT không cao (12 tế
bào/ml), tuy nhiên có tới 55% các ca được xét
nghiệm có số lượng tế bào >10/ml, và khoảng
10% các ca có >100 tế bào/ml, trong đó Neut và
Lym chiếm tỉ lệ gần tương đương nhau (khoảng
50%). Ngoài ra, giá trị trung vị của Protein/DNT,
tỉ lệ Glucose/DNT so với đường huyết lấy cùng
lúc, lactate/DNT trong giới hạn bình thường.
Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của tác
giả C.T.Đoan, thực hiện trên 27 trẻ BTCM nặng
tại BV Nhi Đồng 2, có 15 trẻ chọc dò tủy sống, thì
11 trẻ biểu hiện của bệnh cảnh viêm màng não
siêu vi. Nghiên cứu của tác giả Cheol Soon Choi
thực hiện tại Hàn Quốc 2009, khảo sát trên 42 trẻ
có nhiễm khuẩn hệ TKTW bởi EV71 cũng thấy
có sự gia tăng bạch cầu/DNT, ở bệnh nhân nhẹ là
251,33 tế bào/ml, còn ở bệnh nhân nặng là 494,64
tế bào/ml, các giá trị sinh hóa DNT trong giới
hạn bình thường(3).
Về kết quả PCR tìm enterovirus: Có 136 ca
được làm phết họng (chiếm 90,7%), trong số đó
có 93 ca dương tính với enterovirus. Vậy tỉ lệ
dương tính đạt được là 68,4%; 3 ca được làm
phết bóng nước và 8 ca làm phết trực tràng: cả 3
ca làm phết bóng nước đều dương, và 4/8 phết
trực tràng dương tính; 22 ca làm PCR dịch não
tủy, nhưng tỉ lệ dương tính rất thấp (2/22, 9,1%)
(Bảng 2). Sự hiện diện của vi-rút trong DNT thấp
cũng là một điều đã được ghi nhận (< 5%)(9). Tỷ
lệ PCR (+) khác nhau tùy theo nghiên cứu. Tác
giả Cheol Soon Choi thực hiện tại Hàn Quốc
2009, khảo sát trên 42 trẻ có nhiễm khuẩn hệ
TKTW bởi EV71, tỉ lệ dương tính khi làm phết
họng, phết trực tràng, và dịch não tủy lần lượt là
38,1%, 83,3%, 7,1%(3). Sự khác biệt về tỉ lệ dương
tính có lẽ do những tiêu chuẩn chọn bệnh, ngày
lấy bệnh phẩm khác nhau và kỹ thuật thực hiện
tại những phòng xét nghiệm khác nhau.
KẾT LUẬN
Trong mùa dịch bệnh tay chân miệng: đặc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 271
biệt quan tâm đến sức khỏe của trẻ em nhỏ < 3
tuổi, nhất là trẻ nam, vì đây là đối tượng dễ có
khả năng bị mắc bệnh. Lưu ý phát hiện những
sa