Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là để xác định đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng của 47 bệnh nhân với hội chứng Sheehan chúng tôi đã chẩn đoán và điều trị trong 3 năm, từ tháng 01/2009 đến tháng 12/2011 tại khoa Nội tiết bệnh viện Chợ rẫy. Phương pháp: Hồi cứu mô tả. Các dữ liệu như tiền sử y khoa, các xét nghiệm cận lâm sàng, phân tích hormone tuyến yên, CT và/hoặc MRI scan của hố yên của bệnh nhân đã được xem xét. Kết quả: Tất cả 47 bệnh nhân đều bị mất sữa sau sinh và bị vô kinh. Tất cả bệnh nhân đều có tiền sử băng huyết khi sinh và các triệu chứng của hội chứng Sheehan. Có 12 (25,5%) bệnh nhân có rối loạn tri giác. Tất cả 47 bệnh nhân có suy giáp thứ phát, suy vỏ thượng thận, thiểu năng sinh dục hypogonadotrophic và sự thiếu hụt hoóc môn tăng trưởng. Đái tháo nhạt đã không được tìm thấy trong bất kỳ bệnh nhân nào. Hình ảnh tuyến yên teo nhỏ được phát hiện ở 3/11 bệnh nhân được làm CT. Kết luận: Mặc dù hiếm, nhưng hội chứng Sheehan vẫn còn gặp trong thực hành lâm sàng. Nếu không được chẩn đoán sớm, nó có thể gây ra bệnh tật và tử vong. Các dấu hiệu quan trọng nhất để chẩn đoán hội chứng Sheehan là mất sữa sau sinh và không có kinh nguyệt trở lại sau khi sinh bị băng huyết nặng.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng Sheehan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 184
giữa nhóm BN có và không có viêm teo NMDD
(5,1 ± 1,8 so với 6,2 ± 1,4). Với giá trị ngưỡng
PGI/PGII ≤ 5,5, độ nhạy và độ đặc hiệu trong
chẩn đoán nhiễm HP và viêm teo NMDD lần
lượt là 80,7% và 76,3%. Kết quả này gợi ý rằng
việc định lượng nồng độ PG và gastrin huyết
thanh giúp ích cho lâm sàng trong chẩn đoán
nhiễm HP, mức độ hoạt động của VDD và viêm
teo NMDD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di-Mario F, Cavallaro LG et al (2006), “Usefulness of serum
pepsinogens in Helicobacter pylori chronic gastritis: Relationship
with inflammation, activity and density of the bacterium”,
Digestive Disease and Sciences, 51, pp: 1791-5.
2. Germana B et al (2005), “Clinical usefulness of serum
pepsinogens I and II, gastrin-17, and anti-Helicobacter pylori
antibodies in the management of dyspeptic patients in primary
care”, Digestive and Liver disease, 37, pp: 501-8.
3. Kang JM, Kim N et al (2008), “The role of serum pepsinogen and
gastrin test for the detection of gastric cancer in Korea”,
Helicobacter, 13, pp: 146-56.
4. Kim JH et al (2001), “Seroepidemiological study of Helicobacter
pylori infection in asymtomatic people in South Korea”, J.
Gastroenterol. and Hepatol., 16, pp: 969-75.
5. Kim JH et al (2009), “Clinical meaning of pepsinogen test and
Helicobacter pylori serology in the health check-up population in
Korea”, European Journal of Gastroenterology and Hepatology, 21,
pp: 606-12.
6. Kiyohira K, Yoshihara M, Ito M, et al (2003), “Serum pepsinogen
concentration as a marker of Helicobacter pylori infection and the
histologic grade of gastritis; evaluation of gastric mucosa by
serum pepsinogen levels”, J. Gastroenterol., 38, pp: 332-8.
7. Kwak MS, Kim N, Lee HS et al (2010), “Predictive power of
serum pepsinogen tests for the development of gastric cancer in
comparision to the histologic risk index”, Dig. Dis. Sci., 55, pp:
2275-85.
8. Leung WK, Wu M, Kakugawa Y et al (2008), “Screening for
gastric cancer in Asia: current evidence and practice”, Lancet
Oncol., 9, pp: 279-87.
9. Miki K. (2006), “Gastric cancer screening using serum
pepsinogen test method”, Gastric cancer, 9, pp: 245-53.
10. Tran Khanh Hoan và CS (2010), “Non-invasive method for
evaluation intestinal metaplasia and gastric epithelial dysplasia”,
Vietnamese J. Gastroenterology, 20 (5), pp. 1335-42.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG SHEEHAN
Nguyễn Thị Bích Đào*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là để xác định đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng
của 47 bệnh nhân với hội chứng Sheehan chúng tôi đã chẩn đoán và điều trị trong 3 năm, từ tháng
01/2009 đến tháng 12/2011 tại khoa Nội tiết bệnh viện Chợ rẫy.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả. Các dữ liệu như tiền sử y khoa, các xét nghiệm cận lâm sàng, phân tích
hormone tuyến yên, CT và/hoặc MRI scan của hố yên của bệnh nhân đã được xem xét.
Kết quả: Tất cả 47 bệnh nhân đều bị mất sữa sau sinh và bị vô kinh. Tất cả bệnh nhân đều có tiền sử
băng huyết khi sinh và các triệu chứng của hội chứng Sheehan. Có 12 (25,5%) bệnh nhân có rối loạn tri
giác. Tất cả 47 bệnh nhân có suy giáp thứ phát, suy vỏ thượng thận, thiểu năng sinh dục
hypogonadotrophic và sự thiếu hụt hoóc môn tăng trưởng. Đái tháo nhạt đã không được tìm thấy trong bất
kỳ bệnh nhân nào. Hình ảnh tuyến yên teo nhỏ được phát hiện ở 3/11 bệnh nhân được làm CT.
Kết luận: Mặc dù hiếm, nhưng hội chứng Sheehan vẫn còn gặp trong thực hành lâm sàng. Nếu không
được chẩn đoán sớm, nó có thể gây ra bệnh tật và tử vong. Các dấu hiệu quan trọng nhất để chẩn đoán hội
chứng Sheehan là mất sữa sau sinh và không có kinh nguyệt trở lại sau khi sinh bị băng huyết nặng.
Từ khóa: Hội chứng Sheehan, tuyến yên.
ABSTRACT
CLINICAL AND PARACLINICAL FEATURES OF SHEEHAN’ SYNDROME PATIENTS
Nguyen Thi Bich Dao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 184 - 190
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 185
Purpose: The aim of the present study was to determine the clinical and hormonal characteristics with
Sheehan's syndrome in 47 cases that we had diagnosed. Fourty-seven patients with Sheehan's syndrome,
diagnosed and treatment at Chợ rẫy hospital in the last 3 years (1/2009-12/2011) were reported in the
study.
Methods: Descriptive-retrospective study. Medical history, physical examination, routine laboratory
examinations, pituitary hormone analysis, CT and/or MRI scan of the sella of the patients were reviewed.
Results: All patients had a history of massive hemorrhage at delivery and physical signs of Sheehan's
syndrome. Fourty-seven of them lacked postpartum milk production, followed by failure of resumption of
menses. There were 12 (25.5%) subjects with disturbances in consciousness. All 47 patients had secondary
hypothyroidism, adrenal cortex failure, hypogonadotrophic hypogonadism deficiency. Diabetes insipidus has
not been found in any patient. Empty sellae were revealed in 3/11 patients by CT.
Conclusions: Sheehan's syndrome is still encountered in clinical practice occasionally. If not
diagnosed early, it could cause increased morbidity and mortality. The most important clues for diagnosis of
Sheehan's syndrome are lack of lactation and failure of menstrual resumption after a delivery complicated
with severe hemorrhage.
Keywords: Sheehan’s syndrome, pituitary gland.
MỞ ĐẦU
Hội chứng Sheehan là tình trạng suy tuyến
yên, xuất hiện ở một số phụ nữ sau đẻ do
nguyên nhân tuyến yên bị hoại tử. Hay còn
được gọi là hoại tử tuyến yên sau đẻ -
postpartum pituitary necrosis (Sheehan’s
syndrome) được mô tả năm 1937 bởi Harold
Leeming Sheehan (1900-1988).
Sheehan là bệnh hiếm ở các nước đã phát
triển, nhưng vẫn là mối đe dọa chính cho phụ
nữ ở những nước đang phát triển.
Sinh lý bệnh
Cho đến nay, cơ chế chính xác gây hoại tử
tuyến yên sau đẻ vẫn chưa được biết rõ. Một giả
thiết được đưa ra để giải thích hiện tượng này là
trong quá trình mang thai, tuyến yên sẽ to ra,
cần nhiều máu hơn nên nó cũng sẽ có nguy cơ
cao hơn bị tổn thương khi thiếu máu. Do đó khi
sản phụ bị mất nhiều máu trong hoặc ngay sau
sinh như đờ tử cung, vỡ tử cung, rau càrăng
lược... dẫn đến tụt huyết áp thì theo phản xạ, các
mạch máu sẽ co lại để ưu tiên cấp máu cho các
cơ quan quan trọng như não, tim, thận... và
giảm cấp máu cho đa phần các cơ quan khác
nên tuyến yên sẽ dễ bị hoại tử do thiếu máu
nặng và kéo dài. Một giả thiết khác là các sản
phụ có nguy cơ cao bị mắc các bệnh tự miễn,
viêm mạn tính... trong đó tuyến yên bị viêm
mạn tính và dẫn đến suy tuyến yên sau đẻ.
Trong đa số các trường hợp, dấu hiệu và triệu
chứng của HC Sheehan có biểu hiện ban đầu
không rõ rệt, dễ bị bỏ qua và diễn ra âm thầm,
tiến triển từ từ có thể sau vài tháng nhưng cũng
có thể sau nhiều năm. Nó là tổng hợp các triệu
chứng của suy tuyến giáp, thượng thận và sinh
dục. Các triệu chứng của suy giáp như chậm
chạp, tăng cân, sợ lạnh... Các triệu chứng của
suy thượng thận như mệt nhiều, huyết áp thấp,
sút cân... Các triệu chứng của suy tuyến sinh
dục như rụng lông nách, lông mu, không có
kinh trở lại hoặc kinh nguyệt không đều... Các
triệu chứng khác như thiếu máu nặng, có thể bị
trầm cảm hoặc rối loạn tâm thần. Thường là sau
một cuộc đẻ mất nhiều máu, nhiều phụ nữ teo
nhỏ bầu vú, teo bộ phận sinh dục ngoài, mệt
mỏi, phản xạ kém, giảm trí nhớ; đôi lúc hạ
đường huyết, thậm chí hôn mê..
* Khoa Nội tiết, BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thị Bích Đào, ĐT: 0983915048, Email: phd_bichdao@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 186
Tuy nhiên cũng có những triệu chứng có giá
trị gợi ý và xuất hiện sớm nhưng ít được để ý,
đó là sau đẻ người mẹ không có sữa cho con bú
và không bao giờ có kinh trở lại.Phần lớn những
dấu hiệu trên là không đặc hiệu, dễ nhầm với
bệnh khác, do đó đa số các bệnh nhân Sheehan
thường được chẩn đoán muộn và sai.
Chẩn đoán HC Sheehan có thể rất khó khăn.
Khó khăn lớn nhất là do người bệnh thường đến
bệnh viện muộn, triệu chứng không đặc hiệu và
thầy thuốc lại ít khi nghĩ đến bệnh này.
Để chẩn đoán HC Sheehan cần dựa vào hỏi
bệnh rất có giá trị như tiền sử sinh đẻ, nuôi con
(có sữa không), kinh nguyệt. Khi khám bệnh
phải chú ý xem bệnh nhân có sẹo mổ không, lý
do mổ là gì, có liên quan đến băng huyết sau đẻ
hay không.
Việc thăm khám cần chú ý để phát hiện các
triệu chứng của suy giáp, suy thượng thận và
nhất là suy sinh dục như đầu vú nhạt màu, lông
nách và lông mu bị rụng...Các xét nghiệm máu
gồm định lượng các hormon tuyến yên (ACTH,
TSH, FSH, LH), hormon tuyến giáp (FT3, FT4),
hormon tuyến thượng thận (Cortisol), hormon
tuyến sinh dục (estrogen, progesteron) .. và các
hormon này thường bị giảm rất thấp.
Các xét nghiệm máu khác để phát hiện bệnh
nhân bị thiếu máu, rối loạn nước và điện giải.
Chụp cộng hưởng từ tuyến yên để kiểm tra
kích thước tuyến yên cũng như loại trừ các
nguyên nhân gây suy tuyến yên khác, ví dụ như
u tuyến yên.
Điều trị hội chứng Sheehan về nguyên tắc là
điều trị thay thế các hormon bị thiếu; thuốc sử
dụng thường là các hormon tổng hợp; điều trị
dò liều để tìm được liều đủ và phù hợp cho
từng người bệnh; điều trị lâu dài, suốt đời.
Hội chứng Sheehan là một bệnh lý nội tiết
nặng và khá phức tạp nhưng nếu được điều trị
đầy đủ thì bệnh nhân hoàn toàn có được cuộc
sống với chất lượng tốt. Điều quan trọng nhất là
cần phát hiện sớm các bệnh nhân có nguy cơ cao
do bị băng huyết sau đẻ. Hiện nay những tiến
bộ trong sản khoa nên căn bệnh này ngày càng
ít gặp hơn và cũng được phát hiện sớm hơn.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vì hội chứng Sheehan là bệnh lý hiếm gặp,
nên các nghiên cứu trên thế giới về Sheehan
thường là báo cáo với số lượng bệnh nhân
nghiên cứu ít.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là để xác định
đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng
của 47 bệnh nhân với hội chứng Sheehan chúng
tôi đã chẩn đoán và điều trị trong 3 năm qua tại
khoa Nội tiết bệnh viện Chợ rẫy. Các dữ liệu
như tiền sử y khoa, các xét nghiệm cận lâm
sàng, phân tích hormone tuyến yên, CT và/hoặc
MRI scan của hố yên của bệnh nhân đã được
xem xét.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân nhập viện điều trị tại
khoa nội tiết vì bị hội chứng sheehan từ 2009
đến 2011.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Những bệnh nhân nhập viện điều trị tại
khoa nội tiết vì bị hội chứng sheehan có hồ sơ
lưu trữ tại bệnh viện chợ rẫy.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu mô tả.
KẾT QUẢ
Chúng tôi khảo sát được 47 trường hợp
hội chứng Sheehan nhập viện điều trị tại khoa
Nội tiết – Bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng
thời gian từ tháng 01/2009 đến tháng 12/2011.
Đặc điểm lâm sàng
Đặc điểm về tuổi
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong
nhóm nghiên cứu là 55,1 ± 13,1 tuổi.
Bảng 1: Phân nhóm tuổi
Phân nhóm tuổi N Phần trăm
< 45 tuổi 6 12,8%
45- 55 tuổi 16 34%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 187
55 – 65 tuổi 14 29,8%
>65 11 23,4%
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân 45 – 55 tuổi có
tỉ lệ cao nhất là 34 % và có tỉ lệ thấp nhất là
nhóm bệnh nhân < 45 tuổi.
Nghề nghiệp và nơi cư trú
Bảng 2: Nghề nghiệp và địa chỉ
Đặc điểm N Phần trăm
Nơi cư trú
Thành thị 11 23,4%
Nông thôn 36 76,6%
Nghề nghiệp
Nông dân 8 17%
Văn phòng 2 4,2%
ở nhà 35 74,5%
khác 2 4,3%
Nhận xét: Đến 2/3 trường hợp bệnh nhân
sống ở nông thôn (76,6%). 74,5% bệnh nhân ở
nhà, chỉ có 02 trường hợp làm văn phòng (4,2%).
Đặc điểm về tiền căn sản khoa
Bảng 3: Tiền căn sản khoa
Đặc điểm N Phần trăm
Sinh khó 5 10,6%
Sinh mổ 2 4,3%
Sinh thường 40 85,1%
Tổng cộng 47 100
Nhận xét: Chỉ có 02 trường hợp sinh mổ
(4,3%), 5 trường hợp sinh khó, còn lại đa số
đều sinh thường.
Biểu hiện lâm sàng sau sinh
Mất sữa sau sinh có 47 trường hợp (100%)
và Vô kinh thứ phát có 47 trường hợp (100%).
Tất cả bệnh nhân đều mất sữa sau sinh và sau
đó là vô kinh thứ phát.
Thời gian liên quan đến tiền căn sản khoa
Bảng 4: Thời gian liên quan đến tiền căn sản khoa
Thời gian Trung bình ± độ
lệch chuẩn
Thời gian mất sữa sau sinh (tháng)* 1,0 (0,5 – 2,0)
Sinh con lần thứ x bị băng huyết* 3,5 (3,0 – 6,5)
Thời gian từ khi bị băng huyết đến khi
xuất hiện triệu chứng mệt mỏi (tháng)*
120,0 (36,0 –
168,0)
Thời gian từ khi bị băng huyết đến lúc đi
khám bệnh (tháng)
150,7 ± 107,8
(*) Trung vị (khoảng tứ vị, Q1 – Q3)
Nhận xét: Thời gian trung bình bị mất sữa
sau sinh là 01 tháng. Đa số bệnh nhân sinh
nhiều lần, trung bình bệnh nhân bị băng huyết
sau sinh ở lần sinh con thứ 4. Thời gian từ lúc bị
băng huyết đến lúc xuất hiện triệu chứng mệt
mỏi trung bình là 10 năm (120 tháng). Thời gian
từ lúc bị băng huyết đến lúc bệnh nhân đi khám
bệnh trung bình 13 năm (150 tháng).
Lý do nhập viện
Bảng 5: Lý do nhập viện
Đặc điểm N Phần trăm
Tình trạng nhập viện
Thường 2 4,3%
Cấp cứu 45 95,7%
Lý do vào viện
Rối loạn tri giác 12 25,5%
Nôn ói 11 23,4%
Tiêu chảy, đau bụng 3 6,4%
Mệt mỏi 16 34%
Khác 5 10,6%
Nhận xét: Đa số bệnh nhân nhập viện trong
tình trạng cấp cứu (95,75%). Triệu chứng thường
gặp nhiều nhất khi nhập viện là mệt mỏi, rối
loạn tri giác và nôn ói.
Triệu chứng lâm sàng
Bảng 6: Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng N Phần trăm
Chậm chạp 41 87,2%
Tăng cân 4 8,5%
Sợ lạnh 8 17%
Mệt mỏi 46 97,9%
Huyết áp thấp 19 40,4%
Sụt cân 6 12,8%
Đầu vú nhạt màu 1 2,1%
Rụng lông 18 38,3%
Trầm cảm 3 6,4%
Thiếu máu 33 70,2%
Nhận xét: Hầu hết bệnh nhân đều có triệu
chứng mệt mỏi (97,9%), chậm chạp (87,2%),
huyết áp thấp, rụng lông vùng cơ quan sinh
dục, thiếu máu. Có 03 trường hợp bị trầm cảm
lâu ngày, 01 trường hợp thay đổi sắc tố đầu vú.
Đặc điểm huyết áp lúc nhập viện
Bảng 7: Đặc điểm huyết áp
Huyết áp Trung bình ± Thấp nhất –
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 188
độ lệch chuẩn cao nhất
HA tâm thu (mmHg) 105,4 ± 17,8 70 – 140
HA tâm trương
(mmHg)
65,3 ± 8,5 45 - 80
Nhận xét: Huyết áp tâm thu trung bình của
nhóm nghiên cứu lúc nhập viện là 105,4 mmHg,
thấp nhấp là 70 mmHg, cao nhấp 140 mmHg.
Tương tự, mức huyết áp tâm trương trung bình
là 65,3 mmHg.
Đặc điểm cận lâm sàng
Đặc điểm về sinh hóa và lipid máu
Bảng 8: Đặc điểm về sinh hóa và lipid máu lúc nhập
viện
Đặc điểm Trung bình ±
độ lệch chuẩn
Đường huyết lúc nhập viện (mg/dl) 91,4 ± 48,5
Cholesterone (mg/dl) 241,5 ± 63,8
Triglyceride (mg/dl) 202,7 ± 64,3
HDL-c (mg/dl) 37,2 ± 11,8
LDL-c (mg/dl) 163,1 ± 59,1
Hồng cấu (G/L) 3,7 ± 0,6
Hgb (g/dl) 10,8 ± 1,8
Bạch cầu (G/L) 6,7 ± 2,9
Na máu (mmol/L) 120,6 ±1,1
Kali máu (mmol/L) 3,5 ± 0,6
Ca máu (mmol/L) 2,0 ± 0,3
Cl máu (mmol/L) 86,7 ± 10,2
Cratinin máu (mg/dl) 0,86 ± 0,23
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân nghiên cứu có
nồng độ LDL-c trung bình là 163,1 ± 59,1 mg/dl,
cao hơn so với giá trị tham khảo: và nồng độ
HDL-c thấp với 37,2 ± 11,8 mg/dl. Bệnh nhân bị
thiếu máu nhẹ với Hgb trung bình là 10,8 ± 1,8
g/dl. Đặc biệt natri máu của bệnh nhân khá thấp,
với chỉ số trung bình là 120,6 ±1,1 mmol/L.
Đặc điểm hormone tuyến yên
Bảng 9: Đặc điểm hormone tuyến yên
Hormone tuyến yên Giá trị
ACTH (pg/ml) 11,02 (7,06 – 24,78)
Cortisol máu (ng/ml) 23,3 (8,0 – 44,0)
TSH (mU/L) 1,23 (0,32 – 1,98)
fT4 (pg/ml) 6,34 (3,16 – 11,7)
fT3 (pg/ml) 1,37 (0,90 – 2,02)
FSH (mU/L) 4,09 (1,90 – 12,20)
LH (mU/L) 1,24 (0,47 – 2,10)
Estradiol (pg/ml) 15,2 (12,0 – 33,8)
Nhận xét: Các hormone thùy trước tuyến
yên của nhóm bệnh nhân nghiên cứu có nồng
độ trung bình rất thấp, tất cả bệnh nhân đều
bị suy toàn bộ thùy trước tuyến yên.
Các đặc điểm khác
Bảng 10: Đặc điểm khác
Đặc điểm N Phần trăm
Hình ảnh CT tuyến yên teo nhỏ 3/11 27,2%
Đái tháo nhạt 0/47
Nhận xét: Chỉ có 11 bệnh nhân được chụp
CT scan não trong đó có 03 trường hợp có
hình ảnh tuyến yên teo nhỏ (27,2%). Không có
bệnh nhân nào bị đái tháo nhạt.
Kết quả điều trị
Bệnh nhân đáp ứng với điều trị tốt, xuất
viện: 47/47 (100%).
Thời gian nằm viện
Thời gian nằm viện điều trị trung bình là 10
ngày (khoảng tứ vị: 7 – 15 ngày).
BÀN LUẬN
Hội chứng Sheehan là tình trạng hoại tử
tuyến yên xảy ra sau tai biến sản khoa, băng
huyết sau sanh. Chẩn đoán dựa vào tiền căn sản
khoa và các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
với các hormon tuyến yên có nồng độ thấp.
Hình ảnh học tuyến yên (CT scan hay MRI) cho
thấy hình ảnh hố yên trống. Hội chứng Sheehan
là một trong những nguyên nhân suy tuyến yên
ở các nước đang phát triển và ở các nước phát
triển thì ít gặp hơn(1,4). Hội chứng Sheehan có thể
là tình trạng thiếu hụt hormone tuyến yên toàn
bộ hay từng phần(0).
Chúng tôi khảo sát được 47 trường hợp
bệnh nhân có hội chứng Sheehan nhập viện
điều trị tại khoa Nội tiết bệnh viện Chợ Rẫy
trong 3 năm, từ tháng 1/ 2009 đến tháng 12
năm 2011, có tuổi trung bình là 55,1 ± 13,1
tuổi, mặc dù đa số (34%) là bệnh nhân tuổi từ
45-55, nhưng có 6 bệnh nhân < 45 tuổi và 23,4
% bệnh nhân > 65 tuổi. So sánh với kết quả
nghiên cứu của Sert M và cs(3) tại khoa nội tiết
bệnh viện Balcali Thổ Nhĩ kỳ từ 2/1982-
5/2002, có 28 trường hợp Sheehan’s được chẩn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 189
đoán và theo dõi trong 20 năm, tuổi trung
bình của các đối tượng nghiên cứu là 48,2 ±
10,5 tuổi (30-70), thì độ tuổi trung bình của
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
lớn hơn, nhưng bệnh nhân ở các độ tuổi trong
2 nghiên cứu thì tương đồng nhau và cũng
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Yusuf
Özkan & Ramis Colak có 20 ca được khảo sát
thì độ tuổi trung bình là 51,1 ± 9,4 năm (từ 40 -
65 tuổi).
Đa số bệnh nhân của chúng tôi (76,6%)
đến từ khu vực nông thôn với công việc là ở
nhà (74,5%) hoặc làm nông nghiệp (17%). Có
sự khác biệt này là do bệnh viện Chợ rẫy là
tuyến cuối trong hệ thống y tế chăm sóc sức
khỏe tiếp nhận bệnh nhân của khu vực đồng
bằng sông Cửu long.
Xem xét tiền căn sản khoa của 47 người
bệnh, 85,1 % (40/47) bệnh nhân có cuộc sinh
bình thường, chỉ có 5 trường hợp sinh khó và 2
trường hợp sinh mổ. Nhưng tất cả 47 bệnh nhân
đều mất sữa sau sinh và sau đó là vô kinh thứ
phát. Thời gian trung bình bị mất sữa sau sinh là
01 tháng. Đa số bệnh nhân sinh nhiều lần, trung
bình bệnh nhân bị băng huyết sau sinh ở lần
sinh con thứ 4 (3-6,5). Tương tự kết quả nghiên
cứu của Sert M, có 9/28 trường hợp mang thai 1
lần, 42,9% (12/28) bệnh nhân mang thai từ 4 lần
trở lên, có 1 trường hợp đã mang thai 9 lần. Thời
gian từ lúc bị băng huyết đến lúc xuất hiện triệu
chứng mệt mỏi trung bình là 10 năm (120 tháng).
Nhưng phải mất thời gian rất lâu sau khi đã có
biểu hiện bất thường của sức khỏe người bệnh
mới đi khám bệnh Thời gian mắc bệnh trung
bình (từ lúc bị băng huyết đến lúc bệnh nhân
đến bệnh viện) trung bình 13 năm (150 tháng).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với
kết quả của tác giả Sert M với thời gian mắc
bệnh trung bình, là 13,92 ± 6,05 (từ 6-30 năm) và
tác giả Yusuf Özkan & Ramis Colak(5) có thời
gian chẩn đoán là 16,35 ± 4,74 (từ 5-25 năm).
Thời gian phát hiện bệnh dài cho thấy bệnh
nhân được chẩn đoán muộn, ảnh hưởng đến
chất lượng sống. Đa số các nghiên cứu về
Sheehan là nghiên cứu hồi cứu, nhưng nghiên
cứu của tác giả Fumio(3) là nghiên cứu tiền cứu,
với