Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 76
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA VIÊM NÃO-MÀNG NÃO 
DO CRYPTOCOCCUS NEOFORMANS TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI 
TP. HCM TỪ 11/2008 ĐẾN 6/2009 
Nhữ Thị Hoa*, La Gia Hiếu*, Nguyễn Lê Hoàng Anh*, Trần Phủ Mạnh Siêu**, Lê Đức Vinh* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Cryptococcus neoformans là một vi nấm có ái lực cao đối với hệ thần kinh trung ương, gây 
viêm não-màng não. Bệnh liên quan đến tình trạng suy giảm miễn dịch và là dấu hiệu thông báo sự chuyển từ 
nhiễm HIV sang AIDS. Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh có thể rút ra triệu chứng chỉ 
điểm, giúp các đối tượng nguy cơ lưu ý đến khám và điều trị sớm, hạn chế tử vong. 
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên bệnh nhân viêm não-màng 
não (VNMN) do C. neoformans điều trị tại bệnh viện Bệnh nhiệt đới Tp. Hồ Chí Minh (BVBNĐ) từ 11/2008 
đến 6/2009. 
Đối tượng & phương pháp nghiên cứu: mô tả tiền cứu hàng loạt 98 trường hợp VNMN do C. 
neoformans điều trị tại BVBNĐ từ 11/2008 đến 6/2009. Ghi nhận dữ kiện lâm sàng, cận lâm sàng qua thăm 
khám, phỏng vấn trực tiếp và kết quả xét nghiệm ghi trong hồ sơ bệnh án dựa trên bảng câu hỏi soạn sẵn. Soi 
tươi dịch não tủy (DNT) sau khi nhuộm mực tàu được dùng chẩn đoán nhiễm C. neoformans. Tần số, tỉ lệ, số 
trung bình được đo lường và phân tích bằng kiểm định χ2. 
Kết quả: đau đầu xuất hiện sớm và phổ biến nhất (81,6% và 99%). Khoảng 2/3 bệnh nhân nhập viện trong 
2 tuần đầu của bệnh. Rối loạn tri giác chỉ chiếm 15,3% và liên quan đến mật độ nấm >105 CFU/ml (RR = 3,8[1,4 
– 10,1]). Tổn thương dây VII và liệt vận động rất ít xảy ra (3,1%). DNT thay đổi không hằng định về sinh hóa và 
tế bào. 
Kết luận: Nhức đầu có thể được xem là dấu chứng báo hiệu VNMN do C. neoformans ở người SGMD, vì 
thế các đối tượng nguy cơ cao cần được giáo dục để đi khám nếu bị nhức đầu kéo dài trên 1 tuần. Nên lưu ý tính 
không hằng định của sự thay đổi sinh hóa, tế bào DNT trong chẩn đoán và theo dõi điều trị VNMN nấm. 
Từ khóa: viêm não-màng não do vi nấm, C. neoformans, var. neoformans, var. gattii, suy giảm miễn dịch, 
HIV, AIDS. 
ABSTRACT 
CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS OF CRYPTOCOCCAL MENINGO-
ENCEPHALITIS IN PATIENTS TREATED AT THE HOSPITAL OF TROPICAL DISEASES, HCM CITY, 
FROM 11/2008 TO 06/2009. 
Nhu Thi Hoa, La Gia Hieu, Nguyen Le Hoang Anh, Tran Phu Manh Sieu, Lê Đức Vinh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 76 - 82 
Introduction: Cryptococcosis is an opportunistic infection among immunodeficient subjects. It indicates the 
progress from HIV infection to AIDS state. The study on clinical and paraclinical characteristics will help to 
determine indicators for early diagnosis of cryptococcal disorder of the central nervous system among HIV 
  BM Ký Sinh Trùng – Vi nấm học, Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 
 Khoa xét nghiệm, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, TP. HCM 
Tác giả liên lạc: Ths Nhữ Thị Hoa ĐT : 0903379566 Email : 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 77
positive subjects. 
Objective: to determine the proportion of clinical and paraclinical characteristics among cryptococcal 
meningo-encephalitis patients admitted to the Hospital of Tropical Diseases, HCM city, from November 2008 to 
June 2009. 
Method and subjects: a prospective case series study was conducted with 98 cryptococcal meningo-
encephalitis patients treated at the Hospital of Tropical Diseases from 11/2008 to 6/2009. Clinical and paraclinical 
data were collected by examination, face-to-face interview and from medical record. India ink preparation of the 
cerebrospinal fluid (CSF) is used to diagnose C. neoformans. Frequencies, proportions and means are calculated 
and analysed by χ2 test. 
Results: headache is the earliest and the most common symptom (81.6% and 99%, respectively). About 2/3 
of patients are admitted to the hospital in the first two weeks. The rate of patients with Glasgow coma score of <15 
is 15.3% and is related to yeast density of >105 CFU/ml (RR = 3.8[1.4 – 10.1]). Injury of the 7th nerve and motor 
paralysis are rare (3.1%). Biochemical and cytologic charateristics of the CSF change inconsistently. 
Conclusions and recommendations: Headache can be considered as an indicator of meningo-encephalitis 
among immunodepressive patients. Therefore, subjects of high risk should consult the doctors when their headache 
prolongs >1 week. The inconsistent changes of CSF characteristics should be kept in mind in the diagnosis and 
follow up of treatment of cryptococcal meningo-encephalitis. 
Key words: Cryptococcus neoformans, immunodeficient, HIV, AIDS, cryptococcal meningo-encephalitis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
C. neoformans là một vi nấm hạt men xâm lấn 
chủ yếu vào hệ thần kinh trung ương và gây 
VNMN bán cấp. Hội chứng kích thích màng não 
là động cơ thúc đẩy bệnh nhân đến khám nhưng 
thường ở giai đoạn nặng, khi mật độ vi nấm cao 
trong DNT. Mặc dù ngưỡng mật độ cho phép 
phát hiện tế bào C. neoformans là 103 – 104 
CFU/ml DNT(1) nhưng đa số bệnh nhân AIDS bị 
nhiễm nấm Cryptococcus neoformans ở hệ thần 
kinh trung ương có số lượng nấm dao động từ 
105 – 107 CFU/ml DNT(12). Nói cách khác, ngay từ 
đầu, vi nấm phát triển nhiều và nhanh hơn, 
bệnh diễn tiến cấp tính hơn. Để hạn chế nguy cơ 
tử vong, kéo dài đời sống cho bệnh nhân, việc 
tìm ra dấu hiệu gợi ý sớm VNMN nấm trên cơ 
địa SGMD là cần thiết và vì thế, khảo sát thăm 
dò này được thực hiện. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu mô tả tiền cứu hàng loạt 98 
trường hợp VNMN do C. neoformans điều trị 
nội trú tại Bệnh viện Bệnh nhiệt Đới Tp. Hồ 
Chí Minh từ 11/2008 đến 6/2009. Thông tin về 
lâm sàng được thu thập bằng cách thăm khám 
và phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân dựa trên 
bảng câu hỏi cấu trúc. Các dữ kiện cận lâm 
sàng được ghi nhận theo kết quả xét nghiệm 
trong hồ sơ bệnh án. Định danh chủng 
(variety) dựa trên tính chất đổi màu của các 
canh cấy Canavanine - Glycine - 
Bromothymol (CGB) và Creatinine Dextrose 
Bromothymol blue Thymine (CDBT). Mật độ 
nấm/1ml dịch não tủy (CFU/1ml DNT) được 
tính từ số khúm nấm đếm được trên canh cấy 
SDA ủ ở 37oC/24 – 72giờ của 250µl DNT. Các 
biến số khảo sát được mô tả bằng tần số, tỷ lệ, 
số trung bình. Xác định mức độ kết hợp RR 
[khoảng tin cậy 95% của RR] bằng các phép 
kiểm 2. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Đặc tính Tần số Tỷ lệ % 
Suy giảm miễn dịch 
Có 94 95,9 
HIV (+) (n = 94) 90 95,7 
HIV (–) 4 4,3 
Không 4 4,1 
Phát hiện nhiễm HIV (n = 90) 
Trước nhập viện 48 53,3 
Sau nhập viện 42 46,7 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 78
Đặc tính Tần số Tỷ lệ % 
CD4+ (n = 39) 
Trung bình = 36,4 ± 55,2 Trung vị = 15 
< 50/mm
3
 máu 30 76,9 
50 – 100/mm
3
 máu 7 18,0 
> 100/mm
3
 máu 2 5,1 
Chủng 
Var. neoformans 91 92,9 
Var. gattii 7 7,1 
Hầu như các đối tượng nghiên cứu đều 
nhiễm var. neoformans và bị SGMD với nguyên 
nhân chính là HIV/AIDS. 
Bảng 2: triệu chứng cơ năng ở các đối tượng nghiên 
cứu. 
 Tần số Tỷ lệ (%) 
Triệu chứng đầu tiên 
Đau đầu 80 81,6 
Sốt 15 15,3 
Nôn 0 0,0 
Khác 3 3,1 
Thời gian xuất hiện triệu chứng đầu tiên đến khi nhập viện 
Trung bình = 16,1 ± 13,3 Trung vị = 13,5 
Tuần 1 34 34,7 
Tuần 2 29 29,6 
≥ tuần 3 35 35,7 
Triệu chứng cơ năng 
Đau đầu 97 99,0 
Buồn nôn, nôn 67 68,4 
Nhìn mờ 37 37,8 
Giảm trí nhớ 3 3,1 
Nhức đầu xuất hiện sớm nhất và thường 
gặp nhất. Đa số đối tượng nhập viện sau một 
tuần xuất hiện triệu chứng đầu tiên. 
Bảng 3: Triệu chứng thực thể ở các đối tượng nghiên 
cứu. 
 Tần số Tỷ lệ (%) 
Sốt 
Trung bình = 37,9 ± 0,75 Trung vị = 37,9 
Có 49 50,0 
Không 49 50,0 
Trị số Glasgow 
Trung bình = 14,1 ± 2,6 Trung vị = 15 
≤ 7 5 5,1 
8 - 14 10 10,2 
15 83 84,7 
Cổ gượng 78 79,6 
Nhìn đôi 15 15,3 
Liệt vận động 3 3,1 
 Tần số Tỷ lệ (%) 
Tổn thương thần kinh sọ 
Dây VII 3 3,1 
Dây VI 1 1,0 
Cổ gượng xuất hiện trong đa số trường hợp 
nhưng hầu hết bệnh nhân có tri giác bình 
thường. Bệnh hiếm khi gây tổn thương thần 
kinh sọ. 
Bảng 4: Đặc điểm dịch não tủy ở các đối tượng 
nghiên cứu. 
 Tần số Tỷ lệ 
Áp lực mở 
< 20 cm nước 15 15,3 
20 – 40 cm nước 44 44,9 
> 40 cm nước 39 39,8 
Đạm/DNT 
Trung bình = 0,74 ± 0,55 Trung vị = 0,58 
> 0,45g/l 62 62,3 
≤ 0,45g/l 36 36,7 
Đường/DNT 
< ½ đường máu 79 80,6 
≥ ½ đường máu 19 19,4 
Bạch cầu/DNT 
Trung bình = 79,7 ± 131,8 Trung vị = 29,5 
≤ 5 BC/mm3 66 67,4 
> 5 BC/mm3 32 32,6 
Lympho/DNT 
Trung bình = 69,1 ± 23,9 Trung vị = 77,5 
> 75% 32 57,1 
≤ 75% 24 42,9 
Sự thay đổi sinh hóa, tế bào trong DNT chưa 
thể hiện rõ trong khoảng 15 – 43% trường hợp. 
Bảng 5: Sự phân bố đặc điểm lâm sàng và cận lâm 
sàng theo mức độ nhiễm nấm (CFU/ml DNT). 
 Glasgow p (
2
) 
RR[KTC95%] < 15 15 
Mật độ nấm lúc NV 
TB nhân = 33,9x103 [19,8 x 103 - 58 x 103] 
Trung vị = 40,7 x10
3
>10
5 
10 (29,4) 24 (70,6) < 0,005 
3,8 [1,4 -10,1] ≤ 10
5
 5 (7,8) 59 (92,2) 
Mật độ nấm trung bình trong mẫu nghiên 
cứu không cao, < 105/ml DNT.Trong các đặc 
điểm lâm sàng và cận lâm sàng, chỉ có rối loạn 
tri giác liên quan với mức độ nhiễm nấm. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 79
Khảo sát bao gồm 98 bệnh nhân, hầu hết bị 
suy giảm miễn dịch (95,9%), chủ yếu do nhiễm 
HIV/AIDS (90/94) (Bảng 1), phù hợp với tính 
chất cơ hội của C. neoformans. Tuy nhiên, do 
mẫu chỉ được thu thập tại BV Bệnh Nhiệt Đới 
nên có thể chưa bao phủ hết các trường hợp 
nhiễm C. neoformans không AIDS. Tương ứng 
với quần thể HIV/AIDS vượt trội trong mẫu 
nghiên cứu, sự phân bố var. của C. neoformans 
nghiêng hẳn về var. neoformans, 92,9% so với 
7,1% của var. gattii (Bảng 1), phù hợp với báo 
cáo của các nước Đông Nam Á, khu vực có cùng 
đặc điểm địa lý, khí hậu với Việt Nam. 
Xét về tình trạng nhiễm HIV/AIDS liên quan 
đến cryptococcosis, bảng 1 mô tả 46,7% đối 
tượng không biết nhiễm HIV trước khi nhập 
viện. Điều này chứng minh vai trò chỉ điểm giai 
đoạn AIDS của C. neoformans như y văn đã ghi 
nhận(2), đồng thời phản ánh phần nào, vấn đề 
tầm soát nhiễm HIV trong cộng đồng chưa đạt 
hiệu quả cao dẫn đến nhiều hạn chế trong việc 
theo dõi, dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ 
hội, ảnh hưởng đến chất lượng sống còn của 
bệnh nhân. 
Về mật độ CD4, chỉ 39/94 cơ địa SGMD được 
đo (36 HIV/AIDS, 1 lupus và 2 không rõ nguyên 
nhân) với trung vị là 15 (Bảng 1), tuy chưa phản 
ánh chính xác số lượng CD4 cho toàn bộ mẫu 
nhưng nhìn chung, phù hợp với ngưỡng tấn 
công mạnh của C. neoformans(3). Y văn ghi nhận 
nguy cơ nhiễm C. neoformans cao khi tế bào 
lympho TCD4 <100/mm3 máu, và giảm <50/mm3 
trong 3/4 cơ địa AIDS(5), tương tự 76,9% trong 
bảng 1 nhưng cao hơn 5,5% của N. Q. Trung(11). 
Có thể do mật độ CD4 của N. Q. Trung không 
phải là số đo thực tế mà được ước lượng từ số tế 
bào lympho trong máu ngoại vi nên khả năng 
sai số là tất yếu. 
Đặc điểm lâm sàng của viêm não-màng não 
do C. neoformansm 
Về triệu chứng đầu tiên, nhức đầu xuất hiện 
sớm nhất trong 81,6% bệnh nhân (Bảng 2). Phải 
chăng do sự ưu thế của var. neoformans trong 
mẫu khảo sát? Var. neoformans thường gây VMN 
làm tăng áp lực nội sọ dẫn đến nhức đầu. Cảm 
giác nhức đầu thường ảnh hưởng đến lao động 
và sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân nên được 
nhận biết nhiều hơn. Trong khi var. gattii có 
khuynh hướng xâm lấn nhu mô não tạo thành 
những tổn thương khu trú với biểu hiện tổn 
thương thần kinh sọ. 
Thời gian nhập viện trung bình từ lúc xuất 
hiện triệu chứng đầu tiên là 16,1 ± 13,3, trung vị 
= 13,5 ngày (Bảng 2), tương tự thống kê của 
nhiều tác giả khác: VNMN nấm ở người không 
nhiễm HIV thường diễn tiến bán cấp (≥ 2 tuần) 
hay mạn tính (≥ 1 tháng), nhưng thể cấp tính 
thường xảy ra ở bệnh nhân AIDS(2, 4, 15). Nếu xét 
chi tiết hơn, bảng 2 cho thấy khoảng 1/3 trường 
hợp nhập viện trong tuần đầu của bệnh, thấp 
hơn thống kê của N. Q. Trung (51,7%), nhưng 
ngược lại, vào tuần thứ 2 và từ tuần thứ 3 trở đi, 
bảng 2 lại cao hơn (29,6% và 35,7% so với 19,7% 
và 28,6%)(11). Có lẽ do số trường hợp biết nhiễm 
HIV sau khi nhập viện của khảo sát này là 
46,7%, thấp hơn 52,4% của tác giả. Các biểu hiện 
kích thích màng não – nhức đầu, sốt, nôn ói – có 
thể gặp trong nhiều bệnh thông thường khác 
như cảm cúm, viêm họng ... và vì không biết 
nhiễm HIV nên bệnh nhân chưa nhận thức 
chính xác tình trạng bệnh, họ sẽ trải qua một 
hành trình khám, điều trị tại các chuyên khoa 
khác trước khi đến BVBNĐ khi bệnh không cải 
thiện hoặc trở nặng. 
Về triệu chứng cơ năng, nhức đầu hầu như 
xảy ra ớ tất cả bệnh nhân (99%), buồn nôn-nôn 
đứng thứ hai (68,4%) (bảng 2) như ghi nhận của 
nhiều tác giả trong và ngoài nước(9, 7, 11, 15). Tuy 
nhiên các khảo sát tại Châu Phi cho rằng cổ 
cứng và tổn thương thần kinh sọ là phổ biến 
nhất: dấu màng não chỉ xảy ra trên 50% bệnh 
nhân HIV và 29% cơ địa không HIV(10). Một lần 
nữa, vai trò của var. được đặt ra. Thật vậy, var. 
gattii chiếm tỉ lệ cao trong số các chủng phân lập 
từ Châu Phi(6). Xét về sự thay đổi thị lực, nhìn 
mờ chiếm 37,8% với mức độ tăng dần, đặc biệt 
khi đau đầu xuất hiện hoặc gia tăng. Tuy biểu 
hiện này chỉ là hậu quả của tăng áp lực nội sọ 
nhưng nếu bệnh diễn tiến lâu dài có thể gây ra 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 80
những tổn thương thực thể tại võng mạc, điểm 
hoàng và thần kinh thị giác dẫn đến di chứng 
mù không hồi phục. Những triệu chứng khác 
như mệt mỏi, ăn uống kém, ho, khó thở, giảm trí 
nhớ chiếm tần số rất thấp. 
Tóm lại, triệu chứng nhức đầu xuất hiện 
sớm nhất và thường gặp nhất, vì vậy có thể xem 
nhức đầu như là dấu hiệu chỉ điểm của VNMN 
do C. neoformans trên đối tượng SGMD và nên 
khuyến cáo cộng đồng HIV/AIDS đến khám khi 
có biểu hiện nhức đầu kéo dài. 
Đối với triệu chứng thực thể, sốt chiếm 50% 
(Bảng 3), thấp hơn đánh giá của Van der 
Horst(15), N. Q. Trung(11). Tuy nhiên, sốt không 
phải là biểu hiện đặc trưng của VNMN do C. 
neoformans và không hằng định trong ngày nên 
khó so sánh giữa các khảo sát với nhau. 
Trung bình nhân chỉ số Glasgow là = 14,1 ± 
2,6, trung vị = 15 (Bảng 3) với 15,3% trường hợp 
< 15, không khác biệt so với số liệu của N. Q. 
Trung(11). Kết quả trên có thể bắt nguồn từ mật 
độ nấm thấp trong dịch não tủy (CFU/ml DNT) 
lúc nhập viện của các đối tượng nghiên cứu, 
33,9 x 103 [19,8 x 103 - 58 x 103 (Bảng 5). 
Trong các dấu hiệu thực thể khác của viêm 
màng não (Bảng 3), cổ gượng chiếm 79,6% 
trường hợp, cao hơn so với kết luận của L. Minh 
(66,7%) và N. Q. Trung (38,8%); ngược lại, biểu 
hiện tổn thương thần kinh sọ, liệt nửa người 
thấp hơn so với hai tác giả này (4,1% so với 
41,7% và 32%)(7, 11). Y văn ghi nhận var. gattii phổ 
biến trên cơ địa miễn dịch bình thường với khả 
năng xâm lấn nhu mô não, gây tổn thương thần 
kinh khu trú(8, 14). Như vậy, về mặt lý thuyết, so 
với nghiên cứu hiện tại, số đối tượng có MD 
bình thường trong mẫu của L. Minh vượt trội 
hơn (83,3% so với 4,1% của bảng 3) dẫn đến khả 
năng nhiễm var. gattii cao hơn nên khuynh 
hướng gây tổn thương thần kinh khu trú nhiều 
hơn. Ngược lại quần thể của N. Q. Trung rất ít 
nguy cơ nhiễm var. gattii vì tất cả các đối tượng 
đều bị SGMD, do đó biểu hiện thần kinh khu trú 
phải hiếm hơn so với bảng 3. Tuy nhiên, trong 
thực tế kết quả của 2 tác giả này cùng cao hơn 
hoặc cùng thấp hơn kết quả hiện tại. Phải chăng 
tính hằng định trong khả năng gây bệnh của 
var. gattii chưa cao hay còn yếu tố nào khác tác 
động đến? Đây là một dấu hỏi cần được giải 
quyết bằng một nghiên cứu với cỡ mẫu quy mô 
hơn để có kết quả chính xác hơn sau khi các yếu 
tố tương tác, gây nhiễu được kiểm soát tối đa. 
Trong tổn thương dây thần kinh sọ não, dây 
VII chiếm tần số cao hơn (3/4 trường hợp) (Bảng 
3). Nhiều khả năng C. neoformans thường xâm 
lấn vùng đáy sọ và lưng tiểu não, nơi dây VII đi 
qua nên dễ bị tổn thương. 
Đặc điểm dịch não tủy 
Áp lực mở tăng trong 84,7% trường hợp 
với 39,8% tăng trên 40 cm H20 (Bảng 4) cao 
hơn Chuck và Sande(2) ghi nhận 66% bệnh 
nhân có áp lực mở DNT > 20 cm H20, trong 
khi N. Q. Trung(11) thống kê được 72,9%. Thời 
gian từ lúc khởi phát đến khi nhập viện, mức 
độ nặng nhẹ của bệnh ... có thể là nguyên 
nhân của sự khác biệt. 
Bảng 4 cũng mô tả 62,3% mẫu DNT có 
lượng đạm tăng, thấp nhất là 48mg% và cao 
nhất là 266mg%. Đạm/DNT tăng là biểu hiện 
đáp ứng của cơ thể đối với sự viêm nhiễm của 
hệ thần kinh trung ương. Do đó nồng độ 
đạm/DNT có thể giúp tiên lượng phần nào tình 
trạng bệnh, nếu vượt quá 500 – 1.000mg% sẽ trở 
thành dấu hiệu gợi ý tắc nghẽn khoang dưới 
nhện khi C. neoformans tạo thành các khối u ở hệ 
thần kinh trung ương. 
Số lượng bạch cầu tăng được ghi nhận 
trong 32,6% mẫu với lympho chiếm ưu thế 
(57,1%) (Bảng 4), tương tự với nghiên cứu của 
N. Q. Trung(11) nhưng thấp hơn so với L. 
Minh(7). Hầu hết đối tượng trong nghiên cứu 
này và của N. Q. Trung đều bị suy giảm miễn 
dịch nên khả năng đáp ứng kém hơn 83,3% cơ 
địa không SGMD trong mẫu của L. Minh, vì 
vậy bạch cầu và đạm trong DNT thấp hơn. Do 
bạch cầu ít nên C. neoformans ít bị khống chế 
sẽ hoạt động mạnh hơn, tiêu thụ đường nhiều 
hơn. Điều này giải thích số trường hợp giảm 
đường /DNT ở bảng 4 nhiều hơn so với Lê 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 81
Minh(7). Như vậy bạch cầu/DNT không tăng 
báo hiệu một tiên lượng xấu. 
Trong khảo sát hiện tại, 8/14 bệnh nhân tử 
vong có < 20 tế bào/l DNT. Casadevall khảo sát 
trên bệnh nhân AIDS phát hiện CD4+ giảm dần 
trong quá trình điều trị là dấu hiệu đáp ứng rất 
kém với tình trạng viêm(1). 
Tuy nhiên, DNT có thể hoàn toàn bình 
thường về mặt sinh hóa và tế bào nhất là ở bệnh 
nhân AIDS, với tỷ lệ 17% theo Moosa(10). Bảng 3 
thể hiện 32/98 (32,6%) mẫu DNT có lượng bạch 
cầu nằm trong giới hạn bình thường. Nếu xét 
thêm đạm/DNT, cả hai thông số này đều không 
tăng trong 17/98 (17,3%) trường hợp, và khi kết 
hợp với đường/DNT, số trường hợp DNT 
không thay đổi về mặt sinh hóa và tế bào là 3/98 
(3,1%) mặc dù bệnh nhân đã được xác định 
VNMN do Cr. neoformans. Các lập luận trên 
chứng tỏ sự hạn chế của những thay đổi sinh 
hóa, tế bào DNT trong định hướng VNMN nấm. 
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng theo 
mức độ nhiễm nấm (CFU/ml DNT) 
Trung bình nhân mật độ nấm của mẫu 
nghiên cứu là 33,9 x 103 [19,8 x 103 – 58,0 x 103] 
/ml DNT (bảng 5) thấp hơn y văn đánh giá trên 
cơ địa HIV/AIDS(13). Sự khác biệt có thể bị chi 
phối bởi các trường hợp chưa phát hiện bất 
thường về miễn dịch nhưng cũng có thể tình 
trạng nhiễm thật sự thấp trong mẫu hiện tại. 
Những trường hợp nhiễm nấm cao > 105 
CFU/ml DNT sẽ có khả năng bị rối loạn tri giác 
gấp 3,8 lần nhóm còn lại (p < 0,005). Đây là biên 
dưới của mật độ nấm ở đa số cơ địa AIDS (105 – 
107CFU/ml)(12). Các đặc điểm lâm sàng và cận 
lâm sàng khác chưa thể hiện mối liên quan với 
mật độ nấm, có thể do ảnh hưởng của cỡ mẫu. 
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
Nhức đầu có thể được xem là dấu chứng báo 
hiệu VNMN do C. neoformans ở cơ địa SGMD, vì 
thế các đối tượng nguy cơ cao cần được giáo 
dục để đi khám phát hiện bệnh khi bị nhức đầu 
kéo dài trên 1 tuần. Rối loạn tri giác thường xảy 
ra ở mật độ trên 105 CFU nấm/ml. Mặc dù số 
lượng bạch cầu và nồng độ đạm trong DNT có 
giá trị tiên lượng và theo dõi điều trị nhưng 
VNMN nấm trên người SGMD, sự tăng bạch 
cầu, đạm và sự giảm đường trong DNT không 
hằng định, do đó, cần cân nhắc khi lý giải các 
thông số này. 
Chân thành cám ơn