Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của thực quản Barrett

Mở đầu: Thực quản Barrett là tổn thương tiền ung thư. Theo y văn ghi nhận tần suất thực quản Barrett ở các quốc gia phương Tây cao hơn ở các quốc gia Châu Á. Trong thập niên gần đây, người ta quan sát thấy sự thay đổi đáng kể trong tần suất bệnh thực quản Barrett và ung thư biểu mô tuyến thực quản. Riêng tại Việt Nam, thực quản Barrett vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức và hầu hết được chẩn đoán dựa trên hình ảnh nội soi nghi ngờ. Với xu thế hội nhập thế giới về nhiều mặt như kinh tế, văn hoá, xã hội và sự thay đổi lối sống sẽ làm gia tăng tần suất mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản và chắc hẳn có tác động mạnh đến tần suất thực quản Barrett trong dân chúng. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học của thực quản Barrett. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 83 bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett qua nội soi. Xác định CSR bằng phương pháp nhuộm Alcian blue pH 2,5. Kết quả: 54,2% trường hợp chuyển sản biểu mô trụ (trong đó 19,3% CSR, 6% chuyển sản loại tế bào đáy vị, 28,9% chuyển sản loại tế bào tâm vị). Về lâm sàng: tuổi trung bình 47,5 ± 14,18; nam ưu thế hơn nữ (2,21/1); bệnh nhân có triệu chứng trào ngược điển hình không cao (31,2% nóng rát sau xương ức, 12,5% cảm giác chua trong miệng, 12,5% ợ trớ). Về nội soi: Dạng dải chiếm ưu thế (87,5%); Đoạn ngắn chiếm 81,2%; không có thoát vị hoành; 43,75% viêm thực quản và 50% nhiễm Hp. Về mô bệnh học: tỉ lệ nghịch sản nhẹ chiếm 12,5% và chỉ ghi nhận nghịch sản ở nhóm thực quản Barrett đoạn ngắn. Nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) có thói quen uống rượu và triệu chứng đau sau xương ức nhiều hơn nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (-) (với p lần lượt là 0,015 và 0,047). Không thấy có sự khác biệt về tỉ lệ nghịch sản giữa nhóm thực quản Barrett CSR (+) và nhóm thực quản Barrett CSR (-). Kết luận: Thực quản Barrett được chẩn đoán ở độ tuổi trẻ hơn, ưu thế ở nam giới, có triệu chứng điển hình của trào ngược dạ dày thực quản thấp. Đa phần thực quản Barrett là đoạn ngắn và dạng dải. Tỉ lệ nghịch sản không khác biệt giữa thực quản Barrett CSR (+) và thực quản Barrett CSR (-).

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của thực quản Barrett, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa I 30 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC CỦA THỰC QUẢN BARRETT Lê Đình Quang*, Trần Kiều Miên*, Nguyễn Thuý Oanh** TÓM TẮT Mở đầu: Thực quản Barrett là tổn thương tiền ung thư. Theo y văn ghi nhận tần suất thực quản Barrett ở các quốc gia phương Tây cao hơn ở các quốc gia Châu Á. Trong thập niên gần đây, người ta quan sát thấy sự thay đổi đáng kể trong tần suất bệnh thực quản Barrett và ung thư biểu mô tuyến thực quản. Riêng tại Việt Nam, thực quản Barrett vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức và hầu hết được chẩn đoán dựa trên hình ảnh nội soi nghi ngờ. Với xu thế hội nhập thế giới về nhiều mặt như kinh tế, văn hoá, xã hội và sự thay đổi lối sống sẽ làm gia tăng tần suất mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản và chắc hẳn có tác động mạnh đến tần suất thực quản Barrett trong dân chúng. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô bệnh học của thực quản Barrett. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 83 bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett qua nội soi. Xác định CSR bằng phương pháp nhuộm Alcian blue pH 2,5. Kết quả: 54,2% trường hợp chuyển sản biểu mô trụ (trong đó 19,3% CSR, 6% chuyển sản loại tế bào đáy vị, 28,9% chuyển sản loại tế bào tâm vị). Về lâm sàng: tuổi trung bình 47,5 ± 14,18; nam ưu thế hơn nữ (2,21/1); bệnh nhân có triệu chứng trào ngược điển hình không cao (31,2% nóng rát sau xương ức, 12,5% cảm giác chua trong miệng, 12,5% ợ trớ). Về nội soi: Dạng dải chiếm ưu thế (87,5%); Đoạn ngắn chiếm 81,2%; không có thoát vị hoành; 43,75% viêm thực quản và 50% nhiễm Hp. Về mô bệnh học: tỉ lệ nghịch sản nhẹ chiếm 12,5% và chỉ ghi nhận nghịch sản ở nhóm thực quản Barrett đoạn ngắn. Nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) có thói quen uống rượu và triệu chứng đau sau xương ức nhiều hơn nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (-) (với p lần lượt là 0,015 và 0,047). Không thấy có sự khác biệt về tỉ lệ nghịch sản giữa nhóm thực quản Barrett CSR (+) và nhóm thực quản Barrett CSR (-). Kết luận: Thực quản Barrett được chẩn đoán ở độ tuổi trẻ hơn, ưu thế ở nam giới, có triệu chứng điển hình của trào ngược dạ dày thực quản thấp. Đa phần thực quản Barrett là đoạn ngắn và dạng dải. Tỉ lệ nghịch sản không khác biệt giữa thực quản Barrett CSR (+) và thực quản Barrett CSR (-). Từ khoá: thực quản Barrett, CSR, nghịch sản, BTNDDTQ ABSTRACT BARRETT’S ESOPHAGUS: CLINICAL, ENDOSCOPIC AND HISTOLOGICAL CHARACTERISTICS Le Dinh Quang, Tran Kieu Mien, Nguyen Thuy Oanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 30 - 36 Background: Barrett’s esophagus (BE) is premalignant lesion. According to literature, the prevalence of BE is higher in Western than Asia countries. There has been a crucial change of incidence of BE and esophageal adenocarcinoma in recent decade. In Vietnam, BE has not been concerned properly yet and diagnosis of BE is also based on suspected endoscopy. Nowadays, with the trend in the world in many aspects such as economic, cultural, social and “westernization” in lifestyle might increase incidence of GERD and have certainly strong  Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. HCM,  khoa Nội soi BV Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS.CKI Lê Đình Quang_ ĐT: 0985938040_Email: dinhquangledr@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 31 impact on incidence of BE. Aim: To describe clinical, endoscopic and histological characteristics of BE. Method: cross-sectional study of 83 patients with endoscopically suspected esophageal metaplasia. Intestinal metaplasia (IM) is proven by Alcian blue pH 2.5 solution. Results: There are 54.2% of patients with columnar epithelium metaplasia including 19.3% IM, 6% gastric-type metaplasia and 28.9% cardia-type metaplasia. Clinical features: the average age was 47.5 ± 14.18 years old; the male : female ratio was 2.21 : 1; the percent of patiens with typical symptoms for GERD was low (31.2% heartburn, 12.5% acid reguritation, 12.5 % reguritation). Endoscopic features: the tongue-type BE was predominant (87.5%); short segment BE was 81.2%; there was no hernie; endoscopic esophagitis was 43.75% and 50% of patients was infected by Hp. Histological features: patients with low grade dysplaisa was 12.5% and dysplasia only occurred in patients with short segment BE. Patients BE with IM (+) had more alcohol drinking and post-sternal pain than patients BE without IM (p = 0.015 and 0.047, respectively); there was no statistical difference of dysplasia between patients BE with IM and patients BE without IM. Conclusions: In Vietnam, the average age of BE is younger; male is predominant; patients with typical symptoms of GERD are less; most patients had short segment BE and tongue-type BE; there was no statistically significant difference of dysplasia between patients BE with IM and patients BE without IM. Key words: Barrett’s esophagus (BE), intestinal metaplasia (IM), dysplasia, GERD. ĐẶT VẤN ĐỀ Năm 1950, Norman Barrett lần đầu tiên mô tả tổn thương chuyển sản ruột tại đoạn dưới thực quản và gọi là thực quản Barrett. Đến nay, cơ chế hình thành tổn thương trong thực quản Barrett và khả năng tân sản ác tính của bệnh vẫn là vấn đề đang được nghiên cứu(4). Theo y văn ghi nhận tần suất thực quản Barrett ở các quốc gia phương Tây cao hơn ở các quốc gia Châu Á(5,13). Tuy nhiên trong thập niên gần đây, người ta quan sát thấy sự thay đổi đáng kể trong tần suất bệnh thực quản Barrett và ung thư biểu mô tuyến thực quản. Tầm quan trọng của thực quản Barrett là nguy cơ tiến triển đến ung thư biểu mô tuyến thực quản. Nguy cơ ung thư tăng 10 – 30 lần so với dân số chung(11). Tại các quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ và các nước phương Tây cũng ghi nhận thấy sự gia tăng đáng kể tỉ lệ thực quản Barrett cũng như sự gia tăng báo động tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến thực quản(6). Tại các quốc gia Châu Á, vài nghiên cứu cho thấy sự gia tăng tỉ lệ thực quản Barrett trong dân số. Nghiên cứu tại Iran ghi nhận tỉ lệ thực quản Barrett chiếm 5% trong dân số(14). Một nghiên cứu khác tại Trung Quốc trên 4120 trường hợp cho thấy tỉ lệ phát hiện thực quản Barrett qua nội soi ở những bệnh nhân có triệu chứng đường tiêu hóa trên khác nhau là 2,44%. Theo dõi 492 bệnh nhân trong 2 năm, tỉ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến thực quản là 0,61% bệnh nhân-năm(16). Riêng tại Việt Nam, thực quản Barrett vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức và hầu hết được chẩn đoán dựa trên hình ảnh nội soi nghi ngờ. Với xu thế hội nhập thế giới về nhiều mặt như kinh tế, văn hoá, xã hội và sự thay đổi lối sống sẽ làm gia tăng tần suất mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản và chắc hẳn có tác động mạnh đến tần suất thực quản Barrett trong dân chúng. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của thực quản Barrett” với mong muốn bước đầu tìm hiểu về đặc điểm thực quản Barrett tại Việt Nam, từ đó góp một phần cho những nghiên cứu sâu hơn trong việc chẩn đoán, phân tầng nguy cơ và xử trí thực quản Barrett. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa I 32 ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang, mô tả Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn lựa Bệnh nhân được nội soi đường tiêu hóa trên có hình ảnh nghi ngờ thực quản Barrett trong thời gian từ 01/03/2010 đến 30/07/2010 tại Khoa nội soi Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân có 1 trong các yếu tố sau: Bệnh ung thư thực quản đã được chẩn đoán, tiền sử phẫu thuật thực quản, rối loạn đông cầm máu, dãn tĩnh mạch thực quản hoặc xơ gan. KẾT QUẢ Trong thời gian từ 01/03/2010 đến 30/07/2010, chúng tôi thu thập được 109 trường hợp có tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett qua nội soi. Trong số đó có 26 mẫu sinh thiết từ đoạn dưới thực quản cho kết quả mô bệnh học là biểu mô dạ dày, nên chúng tôi chỉ đưa 83 trường hợp còn lại vào nghiên cứu. Mô bệnh học của tổn thương thực quản Barrett nghi ngờ qua nội soi cho kết quả chuyển sản biểu mô trụ chiếm 54,2%, trong đó CSR chiếm 19,3%, chuyển sản loại tế bào đáy vị chiếm 6% và chuyển sản loại tế bào tâm vị chiếm 28,9%. Trong khi mô bệnh học không cho kết quả chuyển sản biểu mô trụ chiếm 45,8% bao gồm 33,7% trường hợp viêm thực quản mạn tính, 1,2% trường hợp loét thực quản, 2,4% trường hợp nhú gai thực quản và 8,5% trường hợp biểu mô gai lành tính. Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng Barrett CSR (+) n = 16 Barrett CSR (-) n = 29 Không chuyển sản n = 38 Tuổi 47,5 ± 14,18 46,17 ± 9,87 44,18 ± 9,83 Giới (n,%) Nam 11 (68,8) 12 (41,4) 24 (63,2) Nữ 5 (31,2) 17 (58,6) 14 (36,8) Barrett CSR (+) n = 16 Barrett CSR (-) n = 29 Không chuyển sản n = 38 BMI (n,%) < 18,5 1 (6,2) 2 (6,9) 4 (10,5) 18,5 – 25 14 (87,5) 23 (79,3) 29 (76,3) 25 – 30 1 (6,2) 4 (13,8) 5 (13,2) > 30 0 (0) 0 (0) 0 (0) Hút thuốc lá (gói- năm) 9,5 (0 - 17,75)* 0 (0 - 16)* 0 (0 – 13,25)* Uống rượu (n,%) Không 5 (31,2) 20 (69) 19 (50) Thỉnh thoảng 10 (62,5) 5 (17,2) 13 (34,2) Thường xuyên 1 (6,2) 4 (13,8) 6 (15,8) TCCN (n,%) Vướng nghẹn ở cổ 1 (6,2) 2 (6,9) 3 (7,9) Cảm giác chua trong miệng 2 (12,5) 10 (34,5) 9 (23,7) Ợ trớ 2 (12,5) 1 (3,4) 5 (13,2) Buồn nôn, nôn 4 (25) 6 (20,7) 9 (23,7) Đau sau xương ức 4 (25) 1 (3,4) 3 (7,9) Nóng rát sau xương ức 5 (31,2) 4 (13,8) 12 (31,6) Đầy bụng, khó tiêu 9 (56,2) 15 (51,7) 23 (60,5) Nóng rát thượng vị 10 (62,5) 11 (37,9) 15 (39,5) Đau thượng vị 12 (75) 22 (75,9) 28 (73,7) Không TCCN 0 (0) 2 (6,9) 2 (5,3) Bảng 2. Đặc điểm nội soi Barrett CSR (+) n = 16 Barrett CSR (-) n = 29 Không chuyển sản n = 38 Dạng tổn thương thực quản (n,%) Dạng đảo 8 (50) 9 (31) 17 (44,7) Dạng dải 14 (87,5) 28 (96,6) 32 (84,2) Chu vi 3 (18,8) 2 (6,9) 2 (5,3) Chiều dài tổn thương (n,%) < 3 cm 13 (81,2) 20 (69) 31 (81,6) > 3 cm 2 (12,5) 8 (27,6) 3 (7,9) Dạng đảo (đơn độc) 1 (6,2) 1 (3,4) 4 (10,5) Thoát vị hoành (n,%) 0 (0) 1 (3,4) 0 (0) Phân loại LA (n,%) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 33 Barrett CSR (+) n = 16 Barrett CSR (-) n = 29 Không chuyển sản n = 38 A 2 (12,5) 3 (10,3) 9 (23,7) B 5 (31,2) 2 (6,9) 6 (15,8) C 0 (0) 1 (3,4) 0 (0) D 0 (0) 0 (0) 0 (0) Xét nghiệm Urease nhanh (n,%) Âm tính 8 (50) 20 (69) 27 (71,1) Dương tính 8 (50) 9 (31) 11 (28,9) Bảng 3. Đặc điểm mô bệnh học Barrett CSR (+) n = 16 Barrett CSR (-) n = 29 Không chuyển sản n = 38 Nghịch sản (n,%) Nhẹ 2 (12,5) 3 (10,3) 0 (0) Nặng 0 (0) 0 (0) 0 (0) Không xác định 0 (0) 0 (0) 0 (0) Viêm mạn tính 16 (100) Bảng 4. So sánh nhóm thực quản Barrett CSR (+) và nhóm thực quản Barrett CSR (-) Barrett CSR (+) (n = 16) Barrett CSR (-) (n = 29) P Tuổi 47,5 ± 14,18 46,17 ± 9,87 0,714 Giới (n,%) 0,079 Nam 11 (68,8) 12 (41,4) Nữ 5 (31,2) 17 (58,6) Hút thuốc lá (gói-năm) 9,5 (0 - 17,75)* 0 (0 - 16)* 0,098 Uống rượu (n,%) 0,015 Không 5 (31,2) 20 (69) Thỉnh thoảng 10 (62,5) 5 (17,2) Thường xuyên 1 (6,2) 4 (13,8) Đau sau xương ức 4 (25) 1 (3,4) 0,047 NS nhẹ 2 (12,5) 3 (10,3) 1 Bảng 5. So sánh nhóm thực quản Barrett CSR (+) và nhóm không có chuyển sản biểu mô trụ Barrett CSR (+) (n = 16) Không chuyển sản n = 38 p Tuổi 47,5 ± 14,18 44,18 ± 9,83 0,32 Giới (n,%) 0,69 Nam 11 (68,8) 24 (63,2) Nữ 5 (31,2) 14 (36,8) Hút thuốc lá (gói- 9,5 (0 - 17,75)* 0 (0 – 13,25)* 0,18 Barrett CSR (+) (n = 16) Không chuyển sản n = 38 p năm) Uống rượu (n,%) 0,21 Không 5 (31,2) 19 (50) Thỉnh thoảng 10 (62,5) 13 (34,2) Thường xuyên 1 (6,2) 6 (15,8) NS nhẹ 2 (12,5) 0 (0) 0,084 BÀN LUẬN Trong nghiên cứu chúng tôi thu thập được 83 trường hợp có tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett qua nội soi. Kết quả mô bệnh học ghi nhận chuyển sản biểu mô trụ chiếm 54,2% (CSR chiếm 19,3%) và không có hiện tượng chuyển sản biểu mô trụ ở đoạn dưới thực quản chiếm 45,8%. Theo GOSPE ghi nhận tỉ lệ phát hiện chuyển sản biểu mô trụ trên mô bệnh học trong nhóm tổn thương nghi ngờ thực quản Barrett trên nội soi là 44,2%(7). Nghiên cứu của Kim và cộng sự ghi nhận CSR trong nhóm tổn thương biểu mô trụ nghi ngờ qua nội soi là 22%, thấp hơn so với các nghiên cứu của phương Tây. Sự khác biệt có thể phần nào hiểu được do tần suất bệnh ở Châu Á thấp hơn, cũng như sự khó khăn trong xác định chỗ nối thực quản – dạ dày, sinh thiết đúng vị trí và mức độ chính xác của bác sĩ giải phẫu bệnh(5). Như vậy chỉ với phương pháp nội soi, chúng ta sẽ chẩn đoán quá mức thực quản Barrett CSR (+). Thêm nữa nghiên cứu của chúng tôi cho thấy CSR được khẳng định trong nhóm tổn thương thực quản đoạn ngắn (20,3%) nhiều hơn trong nhóm đoạn dài (15,4%). Nghiên cứu của Hirota và cộng sự ghi nhận kết quả tương tự, tỉ lệ CSR trong nhóm tổn thương đoạn ngắn (6%) nhiều hơn trong nhóm tổn thương đoạn dài (1,6%)(3). Trong nghiên cứu của Padda và cộng sự cho kết quả ngược lại, tỉ lệ CSR trong nhóm tổn thương thực quản đoạn ngắn (38,4%) thấp hơn trong nhóm tổn thương thực quản đoạn dài (75%)(8). Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện 1/83 trường hợp CSR với nhuộm HE, trong khi với nhộm Alcian blue pH 2,5 chúng tôi phát hiện Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa I 34 được 16/52 trường hợp CSR. Nandurker và cộng sự ghi nhận 46/158 trường hợp CSR với kết hợp nhuộm HE và Alcian blue, trong khi chỉ ghi nhận 25/158 trường hợp CSR chỉ với nhuộm HE(3). Như vậy để gia tăng khả năng chẩn đoán CSR chúng ta cần sử dụng phương pháp nhuộm Alcian blue pH 2,5. Với phương pháp nhuộm này, chúng tôi phát hiện được 19,3% trường hợp CSR, tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của Toruner(8) 29/395 trường hợp (7,4%) và Nasseri- Moghaddam (14) 13/269 trường hợp (5%), nhưng thấp hơn nghiên cứu của Chen (11) 261/782 trường hợp (33,38%). Sự khác biệt có thể do đối tượng nghiên cứu khác nhau. Theo những ghi nhận của y văn, thực quản Barrett thường được phát hiện ở độ tuổi trung niên, trung bình khoảng 55 tuổi(13). Trong nghiên cứu chúng tôi độ tuổi trung bình phát hiện thực quản Barrett qua nội soi là 47,5 tuổi hơi thấp hơn so với nghiên cứu của, Carton (3), Kim(5), Toruner(8) và Massimo Conio(9). Tại Châu Âu, tuổi trung bình khoảng 60 tuổi(16). Như vậy so về độ tuổi chẩn đoán thực quản Barrett CSR (+) dân số chúng tôi trẻ hơn dân số của các nước phương Tây và trong khu vực. Xét về giới tính, thực quản Barrett CSR (+) thường gặp ở nam nhiều hơn nữ(13). Trong nghiên cứu chúng tôi cũng cho thấy thực quản Barrett CSR (+) ưu thế ở nam, và điều này cũng thấy trong những nghiên cứu của các tác giả khác(3,5,9,10,16). Uống rượu bia và hút thuốc lá được ghi nhận là yếu tố nguy cơ cho sự phát triển thực quản Barrett CSR (+). Hirota và cộng sự ghi nhận tỉ lệ hút thuốc lá ở nhóm thực quản Barrett cao hơn nhóm không CSR. Tiền sử uống rượu cũng ghi nhận tỉ lệ cao trong nhóm CSR. Trong nghiên cứu Massimo Conio cho thấy uống rượu và hút thuốc lá ở nhóm thực quản Barrett và nhóm viêm thực quản cao hơn nhóm người khỏe mạnh(9). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy số bệnh nhân hút thuốc lá và uống rượu chiếm hơn phân nửa dân số. Và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm nam và nữ. Nghiên cứu của Kim cho thấy sự khác biệt ý nghĩa về tình trạng hút thuốc lá giữa nhóm Barrett CSR (+) và nhóm chuyển sản biểu mô trụ trên nội soi với CSR (-)(5). Bằng chứng cho thấy BMI cũng được xem như là một yếu tố nguy cơ phát triển thực quản Barrett. Hơn 10 nghiên cứu bệnh chứng đánh giá sự kết hợp giữa BMI và thực quản Barrett. Tuy nhiên kết quả này không hằng định, một số nghiên cứu cho thấy với BMI = 30 và >= 35 có sự gia tăng nguy cơ phát triển thực quản Barrett, trong khi một số khác thì không thấy sự kết hợp giữa BMI và nguy cơ phát triển thực quản Barrett(2). Bằng chứng khác cho thấy thực quản Barrett có liên quan với tình trạng béo phì vùng bụng và không có liên hệ với BMI(13). Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân có BMI <= 25 thấp hơn nghiên cứu của Kim(5) (6,2% so với 23,8%), và không có bệnh nhân nào đạt mức BMI >= 30 và không ghi nhận sự khác biệt BMI giữa nhóm Barrett CSR (+) và nhóm không chuyển sản biểu mô trụ. Như vậy có thể nói hiện tại BMI chưa thấy có sự ảnh hưởng trên thực quản Barrett tại Việt Nam và một yếu tố cần đánh giá thêm đó là chỉ số béo phì vùng bụng. Các triệu chứng được xem là điển hình của BTNDDTQ bao gồm cảm giác nóng rát sau xương ức, cảm giác chua trong miệng, và ợ trớ. Massimo Conio cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) và nhóm chứng về triệu chứng BTNDDTQ (cảm giác nóng rát sau xương ức với p < 0,0001, ợ trớ với p < 0,0001 và khó nuốt với p < 0,0001)(9). Martínez de Haro cũng ghi nhận cảm giác nóng rát sau xương ức 91,1%, nuốt nghẹn 51,4%(10). Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận triệu chứng ợ nóng chiếm 1/3 trường hợp và chưa thấy có sự khác biệt với nhóm không chuyển sản biểu mô trụ. So với nghiên cứu Kim thì triệu chứng ợ nóng chỉ 8,9% thấp hơn so với nghiên cứu chúng tôi. Sự khác biệt này có thể liên quan đến việc dịch thuật ngữ “heartburn” sang tiếng Hàn(5). Tuy nhiên không phải tất cả bệnh nhân BTNDDTQ đều phát triển thực quản Barrett mà còn do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường(9). Nghiên cứu của Toruner cho thấy chỉ 10,3% có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 35 triệu chứng ợ nóng, trong khi đau thượng vị 65% và buồn nôn, nôn 31,2%(8). Khoảng phân nửa bệnh nhân có triệu chứng không điển hình của BTNDDTQ như khó chịu hoặc đau ở vùng thượng vị, sau xương ức và khó nuốt, giống với nghiên cứu của Avidan khi so sánh hiện diện triệu chứng trào ngược giữa 306 bệnh nhân viêm thực quản, 235 bệnh nhân thực quản Barrett và nhóm chứng 198 bệnh nhân không có BTNDDTQ cho thấy không có sự khác biệt(3). Trong nghiên cứu chúng tôi cũng cho thấy tỉ lệ cao những triệu chứng không phải điển hình của BTNDDTQ (đau thượng vị 75%, nóng rát thượng vị 62,5%, đầy bụng khó tiêu 56,2% và rát sau xương ức 25%). 71,3% bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) không có triệu chứng trào ngược do vậy việc tầm soát thực quản Barrett dựa vào triệu chứng là không thích hợp(5). Như vậy ngay cả bệnh nhân không có triệu chứng BTNDDTQ điển hình cũng không nên bỏ qua trong việc tầm soát thực quản Barrett. Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận, nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (+) có triệu chứng đau sau xương ức nhiều hơn nhóm bệnh nhân thực quản Barrett CSR (-) (25% so với 3,4% với p = 0,047). Nghiên cứu của Kim cho thấy sự khác biệt ý nghĩa về triệu chứng cảm giác nóng rát sau xương ức giữa nhóm Barrett CSR (+) và nhóm chuyển sản biểu mô trụ trên nội soi với CSR (-)(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tổn thương thực quản Barrett dạng dải là thường gặp nhất 87,5%, cũng giống như nghiên cứu tại Trung Quốc của Chen(16). Mặc dù có những báo cáo cho thấy thực quản Barrett CSR (+) đoạn dài là một yếu tố nguy cơ quan trọng cho phát triển ung thư biểu mô tuyến thực quản, thì gần đây nhiều báo cáo cũng ghi nhận thực quản Barrett CSR (+) đoạn ngắn cũng có thể phát triển đến ung thư biểu mô tuyến thực quản. Theo nghiên cứu của Chen cho thấy thực quản Barrett CSR (+) đoạn dài chiếm ưu thế(16), trong khi nghiên cứu của chúng tôi thì ngược lại thực quản Barrett CSR (+) đoạn ngắn ưu thế. Điề
Tài liệu liên quan