Đánh giá độ lưu giữ của xi măng gắn đối với phục hình trên implant

Mục tiêu: 1) Đánh giá khả năng lưu giữ phục hình trên abutment bằng titanium của một số loại xi măng thông dụng, 2) Xác định lực làm sút phục hình ra khỏi abutment bằng máy đo lực kéo, 3) So sánh khả năng lưu giữ phục hình vào abutment giữa các loại xi măng. Phương pháp và vật liệu: Có 07 loại xi măng nha khoa đưa vào nghiên cứu, mỗi loại được đánh giá bằng 05 bộ mẫu thử. Mỗi bộ mẫu gồm 03 thành phần: mão chụp chất liệu thép không gỉ thực hiện theo phương pháp CAD/CAM, abutment chất liệu titanium đường kính 6,5 mm vặn chặt vào analog cùng loại với lực 30N. Mão chụp được gắn vào abutment bằng xi măng với lực nén 2kg giữ trong 60 phút rồi cho vào môi trường 370C, độ ẩm 100% trong 24 giờ. Tiến hành thử nghiệm kéo sút mão chụp khỏi abutment bằng máy đo lực kéo Tensilon thuộc hệ thống Universal Material Testing đã cài đặt cùng vận tốc kéo 0,5 mm/phút. Mỗi bộ mẫu trải qua đủ 03 lần thử nghiệm kéo, đảm bảo mỗi loại xi măng trải qua đủ 15 lần đánh giá khả năng lưu giữ phục hình (n=15, N=105). Kết quả và kết luận: Sử dụng phép kiểm ANOVA một yếu tố cùng phép kiểm t test phân tích và xử lý số liệu đã thu được kết quả như sau: 1) Khả năng lưu giữ phục hình của xi măng xếp theo thứ tự tăng dần bắt đầu từ GIC (Ketac Cem 59,88 N), eugenol_oxít kẽm (Temp Bond 66,46 N), nhựa hóa trùng hợp (Crown set 202,9 N), phosphate kẽm (Elite GC 209,10 N), nhựa lưỡng trùng hợp (Maxcem Elite 222,48 N), GIC lai (Fuji Plus 246,15 N), polycarboxylate (Durelon 317,14 N); 2) Lực tối đa cần thiết làm sút phục hình ra khỏi abutment ở nhóm xi măng gắn tạm đạt 66,46 N, nhóm xi măng gắn vĩnh viễn đạt 210,95 N và nhóm xi măng chuyên dụng cho phục hình trên implant đạt 202,9 N; 3) Xi măng polycarboxylate có khả năng lưu giữ phục hình vào abutment cao nhất

pdf10 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 300 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá độ lưu giữ của xi măng gắn đối với phục hình trên implant, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 139 ĐÁNH GIÁ ĐỘ LƯU GIỮ CỦA XI MĂNG GẮN ĐỐI VỚI PHỤC HÌNH TRÊN IMPLANT Bùi Ngọc Chinh*, Lê Đức Lánh**, Trần Hùng Lâm** TÓM TẮT Mục tiêu: 1) Đánh giá khả năng lưu giữ phục hình trên abutment bằng titanium của một số loại xi măng thông dụng, 2) Xác định lực làm sút phục hình ra khỏi abutment bằng máy đo lực kéo, 3) So sánh khả năng lưu giữ phục hình vào abutment giữa các loại xi măng. Phương pháp và vật liệu: Có 07 loại xi măng nha khoa đưa vào nghiên cứu, mỗi loại được đánh giá bằng 05 bộ mẫu thử. Mỗi bộ mẫu gồm 03 thành phần: mão chụp chất liệu thép không gỉ thực hiện theo phương pháp CAD/CAM, abutment chất liệu titanium đường kính 6,5 mm vặn chặt vào analog cùng loại với lực 30N. Mão chụp được gắn vào abutment bằng xi măng với lực nén 2kg giữ trong 60 phút rồi cho vào môi trường 370C, độ ẩm 100% trong 24 giờ. Tiến hành thử nghiệm kéo sút mão chụp khỏi abutment bằng máy đo lực kéo Tensilon thuộc hệ thống Universal Material Testing đã cài đặt cùng vận tốc kéo 0,5 mm/phút. Mỗi bộ mẫu trải qua đủ 03 lần thử nghiệm kéo, đảm bảo mỗi loại xi măng trải qua đủ 15 lần đánh giá khả năng lưu giữ phục hình (n=15, N=105). Kết quả và kết luận: Sử dụng phép kiểm ANOVA một yếu tố cùng phép kiểm t test phân tích và xử lý số liệu đã thu được kết quả như sau: 1) Khả năng lưu giữ phục hình của xi măng xếp theo thứ tự tăng dần bắt đầu từ GIC (Ketac Cem 59,88 N), eugenol_oxít kẽm (Temp Bond 66,46 N), nhựa hóa trùng hợp (Crown set 202,9 N), phosphate kẽm (Elite GC 209,10 N), nhựa lưỡng trùng hợp (Maxcem Elite 222,48 N), GIC lai (Fuji Plus 246,15 N), polycarboxylate (Durelon 317,14 N); 2) Lực tối đa cần thiết làm sút phục hình ra khỏi abutment ở nhóm xi măng gắn tạm đạt 66,46 N, nhóm xi măng gắn vĩnh viễn đạt 210,95 N và nhóm xi măng chuyên dụng cho phục hình trên implant đạt 202,9 N; 3) Xi măng polycarboxylate có khả năng lưu giữ phục hình vào abutment cao nhất. Từ khóa: Độ lưu giữ, xi măng, phục hình, implant, abutment, mão chụp. ABSTRACT ASSESSMENT OF THE TENSILE STRENGTH OF CEMENT-RETAINED CROWN TECHNIQUE WITH DENTAL IMPLANTS Bui Ngoc Chinh, Le Đuc Lanh, Tran Hung Lam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 138 - 148 Objectives: 1) Assess the retained crown of some popular dental cements on Titanium abutment. 2) Determine the tensile strength of cement-retained crown on abutment by the pull-out measuring machine. 3) Compare the retention of fabricated metal coping on abutment by using different types of dental cements. Methods and Materials: There were seven types of dental cements investigated in this study, and every single type of cements were evaluated with five samples. Each sample had three components: a stainless steel crown manufactured by CAD/CAM method, a titanium abutment tightened into a titanium analog with torque at 30 N. Castings stored for 24h at 37C in 100% humidity environment were cemented on abutments with a * Bệnh viện An Sinh ** Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc ThS Bùi Ngọc Chinh ĐT: 0983555993 Email: buingocchinh@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 140 load of 2kg maintaining for 60minutes.The pull-out test was carried out by using an universal testing machine at a crosshead speed of 0.5 mm/min. Every samples took three times of the pull-out test so that every types of cements were tested 15 times (n=15, N=105). Results and Conclusion: By using ANOVA and Tukey studentized methods to analyse and examine, the results showed: 1) The ability of cement-retained crown on abutment increased from GIC (Ketac Cem 59.88 N), Zinc oxide & eugenol (Temp Bond 66.46 N), Resin chemistry cement (Crown set 202.9 N), Zinc phosphate (Elite GC 209.10 N), Self-etch/Self-adhesive Resin Cement (Maxcem Elite 222.48 N), Resin reinforced glass ionomer (Fuji Plus 246.15 N), and Zinc polycarboxylate (Durelon 317.14 N); 2) The mean values of max loads in Newton at failure (n=15) for the various cements were different, such as the temporary cement was 66.46 N, the permanent cement group was 210.95 N and the cementing implant-retained crowns was 202.9 N; 3) Zinc polycarboxylate cement had the best ability of cement-retained crown on abutment. Keywords: Retention, cement, implant, abutment, crown. MỞ ĐẦU Những ưu nhược điểm khi phục hồi trên implant bằng phục hình gắn bởi xi măng đã được mô tả nhiều trong y văn. Bên cạnh đó, việc chọn lựa loại xi măng phù hợp để sử dụng giữ vai trò quan trọng vì ảnh hưởng đến sự lưu giữ phục hồi. Một mặt, chọn loại xi măng có độ lưu giữ cao sẽ gây khó khăn khi cần tháo gỡ phục hình; mặt khác loại xi măng không đủ độ lưu giữ lại là nguồn gốc làm bệnh nhân không hài lòng. Tuy nhiên, thực tế không có nhiều chất gắn chuyên biệt mà đa phần sử dụng chung với xi măng gắn cho phục hình trên răng tự nhiên. Mansour và cộng sự (2002)(5), cùng với James và cộng sự (2006)(2) đã báo cáo về thứ tự mức độ lưu giữ các loại xi măng dùng trong cấy ghép implant không giống trên răng thật. Rõ ràng chưa có một loại xi măng nào thích hợp cho tất cả các tình huống lâm sàng. Các yếu tố cơ học như hình thái lưu giữ, chiều cao, sự phân bố và số lượng abutment, cũng như sự khít sát của khung sườn sẽ ảnh hưởng lớn đến mức độ lưu giữ của xi măng đối với phục hình bên trên. Do vậy, cần có thêm những nghiên cứu về hiệu quả của các loại xi măng gắn phục hình trên implant. Mục tiêu Đánh giá khả năng lưu giữ phục hình trên abutment bằng titanium của một số loại xi măng thông dụng. Xác định lực làm sút phục hình ra khỏi abutment bằng máy đo lực kéo. So sánh khả năng lưu giữ phục hình vào abutment giữa các loại xi măng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đối tượng nghiên cứu Mẫu nghiên cứu Nghiên cứu thực hiện trên 7 loại xi măng, tương ứng mỗi loại có 5 bộ mẫu, mỗi bộ gồm: mão chụp-abutment-analog giống nhau hoàn toàn. Thử nghiệm lặp lại 3 lần trên mỗi bộ mẫu, như vậy mỗi loại xi măng đều trải qua (3x5) = 15 lần thử nghiệm kéo. Tổng cộng cần tiến hành (7x15) = 105 lần kiểm tra độ bền kéo, N=105. Vật liệu nghiên cứu Abutment bằng Titanium loại Dual Abutment (DAB 65 11 HL, Dentium, Korea) đường kính 6,5mm; chiều cao 5,5mm; giới hạn có thể điều chỉnh trên miệng 1,5mm; chiều cao trong nướu 1,5mm. Analog (bản sao của implant) bằng titanium cùng loại với abutment (Dual, DAN 38, Dentium, Korea). Mão chụp được chế tạo bằng thép không gỉ theo phương pháp CAD/CAM đảm bảo giống nhau hoàn toàn, một đầu khít sát với abutment, một đầu nối vào bộ vật giữ. Bộ giữ analog và mão chụp được thiết kế và chế tạo bằng thép không gỉ dùng chung cho Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 141 toàn bộ các mẫu thử trong suốt quá trình đo lực kéo. (*) Độ khích sát của mão chụp vào abutment trong giới hạn cho phép theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khánh Mỹ, Hoàng Tử Hùng năm 2010 (90,12 ± 10,08 µm đối với sườn zirconia và 84,20 ± 22,01 µm với sườn Ni-Cr)(7). (**)Trung tâm thiết kế chế tạo thiết bị mới Neptech, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu thực nghiệm In vitro trong phòng thí nghiệm. Các bước tiến hành Chuẩn bị: Gắn abutment vào analog với lực vặn 30N. Trám bít lổ vít trên abutment bằng Cavit (3M ESPE, St. Paul, MN). Chia phức hợp analog-abutment và mão chụp vào 7 nhóm, mỗi nhóm 5 bộ, phân biệt nhau theo ký hiệu màu sắc. Gắn mão chụp vào abutment: Phủ xi măng, đã trộn theo hướng dẫn của nhà sản xuất, vào trong lòng mão chụp một đoạn dài 3mm, dày 1mm bắt đầu tính từ phía đường hoàn tất vào trong. Gắn mão chụp vào abutment, sau đó dùng lực nén 2kg dọc theo trục implant và giữ 60 phút. Ngâm mẫu 24 giờ ở 370C, độ ẩm 100%, sau đó lau khô rồi tiến hành thử nghiệm kéo. Toàn bộ quá trình trộn xi măng được thực hiện bởi một trợ thủ nha khoa và gắn xi măng do một bác sĩ nha khoa thực hiện. Đo lực kéo sút và ghi nhận kết quả: Cài đặt vận tốc kéo 0,5 mm/phút chung cho tất cả mẫu thử. Tiến hành thử nghiệm kéo và ghi nhận kết quả theo thứ tự màu sắc đã ký hiệu bằng máy đo lực thuộc hệ thống Universal Material Testing Machine. Toàn bộ quá trình đo lực kéo do hai kỹ sư tại trung tâm nghiên cứu vật liệu Polymer, đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện độc lập. Đã tiến hành đo thử nghiệm trên 35 mẫu trước khi thực hiện trên mẫu chính thức. Làm sạch và chuẩn bị mẫu cho lần đo kế tiếp: Làm sạch lòng mão chụp và bề mặt abutment bằng máy rung siêu âm. Kiểm tra lại lực vặn abutment vào analog. Thử nghiệm được lặp lại từ giai đoạn gắn mão chụp vào abutment 2 quy trình nữa, đảm bảo mỗi loại xi măng trải qua đủ 15 lần kiểm tra lực kéo sút (n=15). Hình 1: Các bước tiến hành. (a) Mỗi nhóm 5 bộ analog-abutment và mão chụp, phân biệt nhau theo ký hiệu màu sắc. (b) Gắn mão chụp vào abutment với lực nén 2kg dọc theo trục implant và giữ 60 phút. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 142 (c) Tiến hành thử nghiệm kéo bằng hệ thống Universal Material Testing Machine. Các dữ kiện cần thu thập Lực tối đa (Max load) hay còn gọi là ngưỡng lực mà xi măng còn khả năng chịu được để lưu giữ mão chụp trên abutment. Biến dạng tại thời điểm lực tối đa (Strain of max load) là tỉ lệ phần trăm sự thay đổi về mức độ liên kết trong xi măng tại thời điểm chịu lực tải tối đa so với thời điểm ban đầu. Còn được gọi là biến dạng không thuận nghịch; nghĩa là xi măng còn giữ sự biến dạng khi thôi tác động lực kéo. Lực tại thời điểm sút phục hình (Load at break) được ghi lại khi mão chụp hoàn toàn sút khỏi abutment, lực này thường trùng nhưng cũng có thể nhỏ hơn lực ngưỡng. Ý nghĩa, cho biết loại xi măng đang kiểm tra có tính giòn hay có khả năng đàn hồi tốt. + Biến dạng tại thời điểm lực làm sút phục hình (Strain of load at break) là tỉ lệ phần trăm sự thay đổi về mức độ liên kết trong xi măng tại thời điểm mão chụp sút khỏi abutment so với thời điểm ban đầu. Các loại xi măng măng dùng trong nghiên cứu Xử lý và phân tích dữ kiện Kiểm tra các phiếu đánh giá ngay trong buổi đo lực kéo. Điều chỉnh các sai sót (nếu có) ngay trong ngày. Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS cho Window. Sử dụng thống kê mô tả xem trị số trung bình của lực tối đa xi măng còn khả năng lưu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 143 giữ phục hình, lực tại thời điểm sút phục hình và độ biến dạng. Sử dụng thống kê suy lý đánh giá sự khác biệt kết quả giữa các lần đo trong cùng một loại xi măng và sự khác biệt về khả năng chịu lực tối đa của các xi măng trong nghiên cứu bằng phân tích ANOVA một yếu tố, dùng phép kiểm t bắt cặp để kiểm tra sự khác biệt giữa lực ngưỡng và lực tại thời điểm phục hình không còn được lưu giữ trên abutment. Cuối cùng, tiến hành phân tích mối tương quan giữa lực và độ biến dạng. Phép kiểm định ý nghĩa khi p<0,05 (độ tin cậy 95%). KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm mẫu nghiên cứu Cùng một loại xi măng, kết quả lực kéo làm sút phục hình khỏi abutment giữa nhóm mẫu đo lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Khả năng lưu giữ phục hình Xi măng gắn tạm Temp Bond, xi măng oxyde kẽm - eugenol, cho khả năng lưu giữ phục hình thấp hơn so với các loại khác trong nhóm nghiên cứu. Đặc điểm cần lưu ý ở loại vật liệu này là lực ngưỡng và lực tại thời điểm phục hình sút khỏi abutment khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05, Biểu đồ 1). Kết quả cho thấy liên kết hóa học trong thành phần của xi măng ở mức thấp. Chỉ cần tác động lực đạt ngưỡng và số lần tác dụng lực tối thiểu đã có khả năng làm sút phục hình. Nhận định trên được khẳng định một lần nữa từ kết quả trình bày trong Bảng 2. Khi tác dụng lực tối đa, các mối liên kết bên trong xi măng Temp Bond đã biến dạng đủ; khi nhận lực làm sút, sự biến dạng không còn đáng kể. Do vậy, độ biến dạng tại thời điểm tác dụng lực tối đa của xi măng này tương quan có ý nghĩa thống kê với lực tác dụng tối đa, và tại thời điểm sút phục hình độ biến dạng tương quan không có ý nghĩa thống kê với lực làm sút. Kết quả nghiên cứu của James Sheets và cộng sự (2006)(2) ghi nhận cần tác dụng lực 117,8 N để kéo sút phục hình gắn bằng xi măng Temp Bond E rơi khỏi abutment. Nghiên cứu của Ahmed Mansour và cộng sự (2002)(5) cần tác dụng lực 9,25 kg để làm rơi phục hình gắn bằng xi măng IRM. Trong khi Yu-Hwa Pan, Ching- Kai Lin và cộng sự (2005)(14) dùng chất gắn tạm Temp Bond E cần tác dụng lực 0,274 Mpa (29 N/m2) làm sút phục hình. Bên cạnh đó, Carlos Wahl và cộng sự (2007)(12) tiến hành thử nghiệm với xi măng thương hiệu ZOE cũng cần tác dụng lực trung bình 8,4 kgf (82,32 N) để kéo sút phục hình khỏi trụ lưu giữ. Các tác giả trên đều phân loại xi măng có thành phần oxít kẽm và eugenol này vào nhóm có khả năng lưu giữ thấp nhất so với các nhóm khác; tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi, kế quả được trình bày trong Bảng 4. Xi măng gắn vĩnh viễn Lực tối đa làm sút phục hình của các xi măng Elite GC, Maxcem Elite, Fuji Plus và Durelon khác biệt có ý nghĩa thống kê với lực tại thời điểm phục hình rơi khỏi abutment (p<0,005; Biểu đồ 1). Sự khác biệt này thể hiện mức độ liên kết hóa học của chính bản thân xi măng cũng như liên kết cơ học của xi măng với bề mặt abutment và mặt trong phục hình. Khi tác động lực ngưỡng, các mối liên kết bên trong những loại vật liệu trên vẫn còn khá chặt chẽ (Bảng 2 cho thấy mối tương quan không có ý nghĩa thống kê giữa lực tối đa và độ biến dạng tại thời Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 144 điểm tác dụng lực tối đa). Để cắt đứt mối liên kết giữa phục hình và abutment khi gắn bằng những xi măng này, ngoài việc tác động lực tối đa còn phải lặp lại tác động nhiều lần với nhiều mức lực khác nhau để có thể làm rơi phục hình khỏi trụ lưu giữ (sự biến dạng chỉ tương quan có ý nghĩa thống kê với lực tại thời điểm sút phục hình, Bảng 2). Quá trình tác động lặp lại có thể ảnh hưởng đến sự vững ổn của trụ implant bên dưới. Ketac Cem thuộc nhóm xi măng gắn vĩnh viễn nhưng cho khả năng tháo gỡ phục hình trên abutment dễ dàng hơn các loại vật liệu gắn vĩnh viễn khác. Thậm chí chỉ cần tác dụng một lực tương đương với nhóm xi măng gắn tạm và được xếp vào nhóm A, nhóm xi măng có khả năng lưu giữ phục hình trên abutment thấp nhất (Bảng 3, 4). Bên cạnh đó, khi lực tác động vừa đạt ngưỡng, xi măng gắn Ketac Cem đã có thể để phục hình sút khỏi abutment (Biểu đồ 1). Vì vậy nếu lựa chọn sử dụng vật liệu này cần cân nhắc cẩn thận các yếu tố ảnh hưởng đến độ lưu giữ của abutment. Trong nghiên cứu của James Sheets và cộng sự (2006)(2) về khả năng lưu giữ phục hình trên abutment của vật liệu glass inomer (Ketac Cem), kết quả cho thấy xi măng này được xếp vào nhóm thứ hai trong bảng phân loại gồm 03 phân nhóm. Bên cạnh đó, tác giả còn thấy rằng khả năng lưu giữ phục hình của xi măng glass inomer (Ketac Cem) cao hơn cả glass inomer có thêm thành phần nhựa (Fuji Plus). Sự khác biệt kết quả một phần do quá trình chuẩn bị mẫu nghiên cứu của James Sheets và cộng sự không thực hiện giai đoạn giữ mẫu trong môi trường ẩm 100% ở 370C, quá trình trùng hợp của xi măng diễn ra liên tục trong 24 giờ dưới lực nén 2kg, lại kèm theo việc xử lý lòng phục hình bằng Al2O3, đường kính 50µ trước khi gắn xi măng. Ngoài ra, kết quả thu được cũng không tương đồng với Christian Mehl và cộng sự (2008)(6). Khi so sánh lực làm sút phục hình khỏi abutment, tác giả nhận thấy nếu sử dụng xi măng glass inomer (Ketac Cem) sẽ cần một lực lớn hơn khi gắn phục hình bằng xi măng tạm loại oxyde kẽm không eugenol (Freegenol) hay xi măng phosphate kẽm (Harvard). Kết quả của Christian Mehl và cs (2008)(6) tương đồng với Akca, Mansour và cs (2002)(5). kiểm định t bắt cặp Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 145 Elite GC, xi măng phosphate kẽm, có khả năng lưu giữ phục hình trên abutment thấp nhất trong phân nhóm B, nhóm xi măng gắn vĩnh viễn có mức lưu giữ trung bình (Bảng 4). Kết quả thu được hoàn toàn phù hợp với báo cáo của Ahmed Mansour và cộng sự (2002)(14) về khả năng giữ vững phục hình trên implant của xi măng phosphate kẽm. Nhưng không cùng nhận định với Yu-Hwa Pan, Ching-Kai Lin (2005)(14), James Sheets (2006)(2), Carlos Wahl (2007)(12) và các cộng sự của họ về thứ tự của xi măng phosphate kẽm với GIC lai (Fuji Plus). Mặt dù giống nhau thành phần cấu tạo chính, nhưng các loại xi măng phosphate kẽm sử dụng trong các nghiên cứu được cung cấp từ các nhà sản xuất khác nhau, có thể sự khác biệt về thành phần cấu tạo đã làm nên sự khác biệt về kết quả. Fuji Plus, xi măng glass inomer tăng cường thành phần nhựa, chỉ đứng sau xi măng polycarboxylate về khả năng lưu giữ phục hình trên implant (Bảng 4). Yoshikawa (1994)(13) và Swift (1995)(11) cùng cộng sự của họ đã tiến hành kiểm tra và đánh giá độ lưu giữ của xi măng glass inomer tăng cường thành phần nhựa. Kết quả ghi nhận rằng, sự gắn kết vào ngà răng hay bề mặt kim loại của xi măng glass inomer tăng cường thành phần nhựa và xi măng polycarboxylate tương tự nhau. Điểm khác biệt duy nhất ở thời gian trùng hợp, thời gian cần thiết của xi măng glass inomer tăng cường thành phần nhựa kéo dài hơn xi măng polycarboxylate, ít nhất 24 giờ(5). Chính sự tiếp xúc sớm với môi trường ẩm có thể đã làm yếu đi các mối liên kết hóa học của loại xi măng này, GIC lai. Kết quả thu được về xi măng Fuji Plus không chỉ phù hợp với nhận định của Yoshikawa và Swift, mà còn tương đồng với kết quả nghiên cứu các tác giả Ahmed Mansour (2002)(6), James Sheets (2006)(2) và cộng sự của họ về khả năng lưu giữ phục hình trên implant của xi măng GIC lai. Tuy nhiên, Yu-Hwa Pan, Ching-Kai Lin và cộng sự (2005)(14) ghi nhận kết quả ngược lại. Khi so sánh về loại sản phẩm sử dụng, có thể thấy đây không phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt. Bởi vì, chỉ có nghiên cứu của James Sheets và cộng sự (2006)(2) sử dụng sản phẩm Fuji Plus giống với nghiên cứu của chúng tôi. Đặc điểm cần lưu ý là trong quá trình chuẩn bị mẫu nghiên cứu, Yu-Hwa Pan và Ching-Kai Lin(14) để các mẫu thử của mình trải qua 100000 chu kỳ nhai và 1000 chu kỳ nhiệt, giai đoạn này không được thực hiện trong nghiên cứu của chúng tôi, cũng như của Ahmed Mansour và James L. Sheets. Mặc dù vậy, Jing Li vàYoshihito Naito (2010)(4), Christian Mehl và Sonke Harder (2011)(6) cùng cộng sự của họ cho thấy các loại tác động nhiệt, lực nhai, lực rung và thời gian tồn tại không làm thay đổi thứ tự phân loại khả năng lưu giữ phục hình trên implant của xi măng nha khoa. Tuy nhiên, trong những nghiên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 146 cứu này các tác giả không so sánh giữa hai xi măng glass inomer tăng cường thành phần nhựa và polycarboxylate. Có thể thấy rằng, xếp loại thứ tự của xi măng GIC lai vẫn còn chưa thống nhất. Sự bất đồng quan điểm này không chỉ trong thứ tự về khả năng lưu giữ phục hình trên implant với xi măng polycarboxylate, mà còn với cả xi măng nhựa dán và xi măng phosphate kẽm. Durelon, xi măng polycarboxylate có tính chất tương tự xi măng phospate kẽm. Nhưng do khác nhau lượng chất phụ gia và tỉ lệ nhôm oxyde trong thành phần bột đã làm tăng khả năng lưu giữ của loại xi măng này. Qua nghiên
Tài liệu liên quan