Mở đầu: Nội soi đại tràng giúp chẩn đoán chính xác ung thư đại tràng. Propofol là thuốc mê tĩnh mạch
thường được sử dụng để an thần cho bệnh nhân trong quá trình nội soi. Phương pháp truyền thuốc kiểm soát
nồng độ đích được cho là góp phần nâng cao hiệu quả và mức an toàn cho bệnh nhân trong khi được thực hiện
các thủ thuật.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phương pháp an thần bằng propofol kiểm soát nồng độ
đích trong thủ thuật nội soi đại tràng
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân ngoại trú, từ 16 tuổi trở lên, ASA I – II, có chỉ định
nội soi đại tràng chẩn đoán được phân làm 3 nhóm, mỗi nhóm 30 người. Nhóm 1 được an thần bằng propofol
kiểm soát nồng độ đích, nhóm 2 được an thần bằng propofol tiêm ngắt quãng, nhóm 3 chỉ sử dụng chất bôi trơn
trong thủ thuật. Ghi nhận mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng chấp nhận thủ thuật lần sau, thời gian làm
thủ thuật, thời gian hồi tỉnh, thời gian xuất viện của bệnh nhân, mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi, các thay đổi
về nhịp tim, huyết áp tâm thu và SpO2.
Kết quả: Không có sự khác biệt về: thời gian soi ở 3 nhóm; thời gian hồi tỉnh, thời gian xuất viện, mức độ
đau, mức độ hài lòng của bệnh nhân và mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi giữa nhóm 1 và nhóm 2. Bệnh nhân
nhóm 3 có mức độ đau và tỉ lệ không chấp nhận thủ thuật lần sau cao hơn 2 nhóm có sử dụng propofol. Nhịp tim
và huyết áp của bệnh nhân nhóm 1 ổn định trong thủ thuật.
Kết luận: propofol kiểm soát nồng độ đích có thể áp dụng hiệu quả và an toàn cho thủ thuật nội soi đại
tràng
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả an thần bằng Propofol kiểm soát nồng độ đích trong thủ thuật nội soi đại tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 306
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ AN THẦN BẰNG PROPOFOL KIỂM SOÁT
NỒNG ĐỘ ĐÍCH TRONG THỦ THUẬT NỘI SOI ĐẠI TRÀNG
Nguyễn Thanh Oánh*, Phan Tôn Ngọc Vũ**, Nguyễn Văn Chừng***
TÓM TẮT
Mở đầu: Nội soi đại tràng giúp chẩn đoán chính xác ung thư đại tràng. Propofol là thuốc mê tĩnh mạch
thường được sử dụng để an thần cho bệnh nhân trong quá trình nội soi. Phương pháp truyền thuốc kiểm soát
nồng độ đích được cho là góp phần nâng cao hiệu quả và mức an toàn cho bệnh nhân trong khi được thực hiện
các thủ thuật.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phương pháp an thần bằng propofol kiểm soát nồng độ
đích trong thủ thuật nội soi đại tràng
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân ngoại trú, từ 16 tuổi trở lên, ASA I – II, có chỉ định
nội soi đại tràng chẩn đoán được phân làm 3 nhóm, mỗi nhóm 30 người. Nhóm 1 được an thần bằng propofol
kiểm soát nồng độ đích, nhóm 2 được an thần bằng propofol tiêm ngắt quãng, nhóm 3 chỉ sử dụng chất bôi trơn
trong thủ thuật. Ghi nhận mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng chấp nhận thủ thuật lần sau, thời gian làm
thủ thuật, thời gian hồi tỉnh, thời gian xuất viện của bệnh nhân, mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi, các thay đổi
về nhịp tim, huyết áp tâm thu và SpO2.
Kết quả: Không có sự khác biệt về: thời gian soi ở 3 nhóm; thời gian hồi tỉnh, thời gian xuất viện, mức độ
đau, mức độ hài lòng của bệnh nhân và mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi giữa nhóm 1 và nhóm 2. Bệnh nhân
nhóm 3 có mức độ đau và tỉ lệ không chấp nhận thủ thuật lần sau cao hơn 2 nhóm có sử dụng propofol. Nhịp tim
và huyết áp của bệnh nhân nhóm 1 ổn định trong thủ thuật.
Kết luận: propofol kiểm soát nồng độ đích có thể áp dụng hiệu quả và an toàn cho thủ thuật nội soi đại
tràng.
Từ khóa: nội soi đại tràng, propofol, kiểm soát nồng độ đích
ABSTRACT
THE EFFECT OF PROPOFOL TCI IN COLONOSCOPY
Nguyen Thanh Oanh, Phan Ton Ngoc Vu, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 306 - 311
Background - Objectives: Colonoscopy help accurate diagnosis of colon cancer. Propofol is an anesthetic
commonly used intravenous sedation to patients during endoscopy. Target Control Infusion (TCI) is contributing
to improving the effectiveness and safety of patients during minor surgery.
The aim of our study was to evaluate the safety and efficacy of propofol TCI during colonoscopy.
Method: Outpatients, aged 16 years or older, ASA I - II, indicated diagnostic colonoscopy were classified
into 3 groups of 30 people. Group 1 were sedated with propofol TCI, group 2 was sedated with intermittent
propofol injection, group 3 only lubricant used in the procedure.
Patient satisfaction, acceptability next procedure, recovery time, discharge time, procedure duration
colonoscopists satisfaction, the changes in heart rate, systolic blood pressure and SpO2 were recorded.
Bệnh viện Nguyễn Trãi TP.HCM ** Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM
*** Đại Học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Thanh Oánh ĐT: 0908182601, Email: drnguyenthanhoanh@yahoo.com.vn,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 307
Results: There were no significant differences among the three groups in the procedure time. There were no
significant differences between the group 1 and group 2 in the recovery time, discharge time, patient satisfaction,
pain control and colonoscopists satisfaction. Pain during colonoscopy and the rate of inacceptability next
procedure of the patients in group 3 is significantly higher than in sedated groups. Heart rate and blood pressure
of the patients in group 1 were stable during procedure.
Conclusion: The propofol target control injection can be applied effectively and safely for colonoscopy.
Key words: colonoscopy, propofol, target control infusion.
MỞ ĐẦU
Ung thư đại tràng là một bệnh lý phổ biến,
đứng hàng đầu trong ung thư đường tiêu hóa.
Theo Hội Ung thư thành phố Hồ Chí Minh, đây
là một trong năm loại ung thư có số người mắc
cao nhất. Tuy nhiên, bệnh có thể điều trị và
phòng ngừa được. Nội soi đại tràng đóng vai
trò quan trọng trong việc chẩn đoán sớm và
chính xác các bệnh lý ung thư đại tràng. Tuy
nhiên, bệnh nhân thường lo ngại cảm giác đau,
khó chịu khi được nội soi đại tràng. Hiện nay,
nhiều bệnh viện đã triển khai sử dụng thuốc an
thần, giảm đau cho bệnh nhân khi thực hiện nội
soi đại tràng. Propofol là thuốc thường được sử
dụng để an thần cho bệnh nhân khi thực hiện
các thủ thuật bằng cách tiêm từng liều ngắt
quãng. Cách cho thuốc này có thể dẫn đến quá
liều gây ra các tai biến về hô hấp, tuần hoàn.
Phương pháp truyền tĩnh mạch kiểm soát nồng
độ đích với hệ thống vi tính hóa được ứng dụng
trong gây mê hồi sức đã tạo thuận lợi trong việc
kiểm soát mức độ an thần và an toàn hơn cho
người bệnh. Đó là lý do chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đánh giá hiệu quả an thần bằng
propofol kiểm soát nồng độ đích trong thủ thuật
nội soi đại tràng.
Mục tiêu
Đánh giá hiệu quả của phương pháp an thần
bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong nội
soi đại tràng.
Đánh giá sự thay đổi các chỉ số tuần hoàn,
hô hấp trong các giai đoạn của nội soi đại tràng
áp dụng phương pháp an thần bằng propofol
kiểm soát nồng độ đích.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân ngoại trú ≥ 16 tuổi, ASA I, II, có
chỉ định nội soi đại tràng chẩn đoán
Thời gian: từ tháng 11 năm 2010 đến tháng
04 năm 2011
Địa diểm: Bệnh viện Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp
Nhóm 1: Cài đặt nồng độ đích tại huyết
tương (Cp) ban đầu là 4 mcg/ml, tiến hành soi
khi bệnh nhân mất tri giác. Ghi nhận nồng độ
đích propofol đạt được ở não (Ce). Nồng độ này
sẽ được cài đặt như là nồng độ hồi tỉnh dự kiến.
Tùy theo đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân có
thể điều chỉnh Cp tăng hoặc giảm 0,5 – 1
mcg/ml.
Nhóm 2: tiêm tĩnh mạch propofol, liều ban
đầu là 1 mg/kg cân nặng, tiêm nhắc lại liều 0,5
– 1 mg/kg tùy theo đáp ứng lâm sàng của
bệnh nhân.
Nhóm 3: chỉ dùng chất bôi trơn, không dùng
thuốc an thần.
Ghi nhận mạch, huyết áp động mạch không
xâm lấn, SpO2 tại các thời điểm trước khi nội soi,
trong khi làm thủ thuật và thời điểm xuất viện.
Ghi nhận các tai biến tụt huyết áp tâm thu trên
20%, mạch chậm dưới 50 lần/phút, SpO2 < 90%
và cách xử trí. Ghi nhận thời gian làm thủ thuật
của 3 nhóm, thời gian hồi tỉnh và thời gian xuất
viện của 2 nhóm có sử dụng propofol trong nội
soi, xác định mức độ đau của bệnh nhân theo
thang điểm VAS (Visual Analog Scale), mức độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 308
hài lòng của bệnh nhân và bác sĩ nội soi, khả
năng chấp nhận thủ thuật lần sau.
Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được trong quá trình nghiên
cứu được ghi chép vào phiếu thu thập dữ liệu
và xử lý với phần mềm SPSS for Windows 15.0.
Các biến định lượng được mô tả dưới dạng giá
trị trung bình và độ lệch chuẩn. Dùng phép
kiểm t khi so sánh 2 số trung bình, test ANOVA
khi so sánh 3 số trung bình. Các biến định tính
được mô tả dưới dạng tỉ lệ % và được kiểm định
với test chi bình phương. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có 90 bệnh
nhân được nội soi đại tràng, bao gồm 30 bệnh
nhân được an thần bằng propofol kiểm soát
nồng độ đích (nhóm 1), 30 bệnh nhân được an
thần với propofol tiêm ngắt quãng (nhóm 2) và
30 bệnh nhân không sử dụng thuốc an thần
(nhóm 3). Đặc điểm của bệnh nhân trong 3
nhóm nghiên cứu được trình bày ở bảng 1.
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 1 trình bày đặc điểm chung của mẫu
nghiên cứu, không có sự khác biệt giữa các
nhóm về cân nặng trung bình (p = 0,16), tuổi (p =
0,59), giới tính (p = 0,87) và phân loại ASA (p =
0,56)
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
Số bệnh nhân 30 30 30
Cân nặng (kg) 56,4 ± 7,4 53,0 ± 8,9 53,1 ± 6,5
Tuổi (năm) 51,6 ± 13,7 50,2 ± 16,7 47,4 ± 17,1
Nữ / nam 18 / 12 19 / 11 20 / 11
ASA I / ASA II 18 / 12 14 / 16 17 / 13
Thời gian thực hiện nội soi ở 3 nhóm
Không có sự khác biệt về thời gian thực hiện
nội soi ở 3 nhóm, p = 0,82 (bảng 2)
Bảng 2: Thời gian thực hiện nội soi ở 3 nhóm
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 P
Thời gian soi
(phút)
6,4 ± 3,0 6,8 ± 3,6 6,9 ± 3,0 0,82
Thời gian hồi tỉnh và thời gian xuất viện
của bệnh nhân nhóm 1 và nhóm 2
Bảng 3: Thời gian hồi tỉnh và thời gian xuất viện của
bệnh nhân nhóm 1 và nhóm 2
Nhóm 1 Nhóm 2 p
Thời gian hồi tỉnh
(phút)
6,6 ± 1,8 7,0 ± 2,1 0,51
Thời gian xuất viện
(phút)
29,5 ± 5,0 31,5 ± 4,4 0,1
Mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng
chấp nhận thủ thuật của bệnh nhân, mức
độ hài lòng của bác sĩ nội soi
Bảng 4: Mức độ đau, mức độ hài lòng, khả năng chấp
nhận thủ thuật của bệnh nhân, mức độ hài lòng của
bác sĩ nội soi
Nhóm1 Nhóm 2 Nhóm3 P
Mức độ đau
(VAS)
0,6 ± 0,6 0,4 ± 0,6 3,2 ± 1,0 0,0001
Mức độ hài
lòng của BN
(VAS)
9,4 ± 0,6 9,6 ± 0,6 6,9 ± 0,9 0,0001
Mức hài lòng
của bác sĩ nội
soi (VAS)
9,0 ± 0,9 9,4 ± 0,8 7,8 ± 1,0 0,0001
Khả năng chấp
nhận thủ thuật
lần sau (%)
100 96,7 73,3 0,001
Không có sự khác biệt về mức độ đau, mức
độ hài lòng, khả năng chấp nhận thủ thuật của
bệnh nhân và mức độ hài lòng của bác sĩ nội soi
giữa 2 nhóm có sử dụng propofol trong nội soi
đại tràng.
Thay đổi tần số tim, huyết áp tâm thu và
độ bảo hòa oxy mao mạch (SpO2) của bệnh
nhân ở 3 nhóm
Không có sự khác biệt về thay đổi tần số tim
ở các thời điểm nghiên cứu của bệnh nhân ở
nhóm 1 và nhóm 2 (p > 0,05). Tần số tim của
bệnh nhân ở nhóm 3 cao hơn tần số tim của
bệnh nhân ở nhóm 1 và nhóm 2 tại các thời điểm
1 phút, 5 phút và xuất viện. Huyết áp tâm thu tại
thời điểm 1 phút trong nội soi của bệnh nhân ở
nhóm 2 thấp hơn nhóm 1 có ý nghĩa thống kê (p
= 0,005). Huyết áp tâm thu tại các thời điểm 1
phút, 5 phút trong nội soi và khi xuất viện của
bệnh nhân ở nhóm 3 cao hơn nhóm 1 và nhóm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 309
2. Không có sự khác biệt về độ bảo hòa oxy mao
mạch (SpO2) của 3 nhóm ở các thời điểm của thủ
thuật.
Các tai biến về hô hấp, tuần hoàn ở 3 nhóm
Bảng 5: Các tai biến về hô hấp, tuần hoàn
Tai biến Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
Tụt HA > 20% so với
HA ban đầu
5 (16,7) 18 (60) 0 (0)
Tụt HA > 30% so với
HA ban đầu
1 (3,3) 4 (13,3) 0 (0)
Mạch chậm < 50
lần/phút
0 (0) 0 (0) 0 (0)
SpO2 < 90% 0 (0) 4 (13,3) 0 (0)
Tỉ lệ tụt huyết áp tâm thu ≥ 20% so với huyết
áp nền ở nhóm 2 cao hơn nhóm 1 (p = 0,001).
Nhóm 2 có tỉ lệ tụt huyết áp tâm thu ≥ 30% so
với huyết áp nền cao hơn nhóm 1, tuy nhiên sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p =
0,16). Nhóm 2 có tỉ lệ SpO2 giảm dưới 90% cao
hơn so với nhóm 1 (p = 0,04).
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu chúng tôi là 49,8 tuổi, là độ tuổi
thường gặp các bệnh lý đại – trực tràng (4), (5).
Không có sự khác biệt về tỉ lệ phân bố giới tính
và phân loại ASA giữa bệnh nhân trong 3 nhóm
nên không ảnh hưởng kết quả đánh giá mức độ
đau, sự thay đổi nhịp tim, huyết áp.
Thời gian thực hiện nội soi trong nghiên cứu
chúng tôi tương đối ngắn do chúng tôi chỉ chọn
các trường hợp nội soi chẩn đoán. Thời gian hồi
tỉnh và thời gian xuất viện là vấn đề được quan
tâm khi gây mê hoặc an thần cho bệnh nhân
ngoại trú. Thời gian hồi tỉnh và xuất viện trung
bình của nhóm 1 là 6,6 ± 1,8 phút và 29,5 ± 5
phút, tương đương với kết quả ở nhóm 2 là 7,0 ±
2,1 phút và 31,5 ± 4,4 phút, tương đương với
thời gian hồi tỉnh trong nghiên cứu của
Padmanabhan U và cộng sự là 7 phút (6). Tác giả
VanNatta ME và cộng sự ghi nhận thời gian hồi
tỉnh và xuất viện của bệnh nhân nhóm tiêm
propofol ngắt quãng để nội soi đại tràng là 4,8
phút và 18,6 phút, sớm hơn so với chúng tôi vì
tác giả chủ động ngưng propofol khi vừa soi
đến manh tràng (12).
Kết quả từ bảng 4 cho thấy mức độ đau, mức
độ hài lòng cũng như tỉ lệ chấp nhận thủ thuật
lần sau là tương đương giữa nhóm an thần kiểm
soát nồng độ đích và nhóm an thần tiêm ngắt
quãng. Hai nhóm bệnh nhân có sử dụng an thần
đều có mức hài lòng, tỉ lệ chấp nhận thủ thuật
với cùng phương pháp vô cảm cao hơn và mức
độ đau thấp hơn rõ so với nhóm bệnh nhân
không sử dụng an thần. Amer-Cuenca JJ và
cộng sự thấy điểm đau VAS ở nhóm không sử
dụng an thần là 4,9 ± 2,9 (1), Yoruk G và cộng sự
thấy có 12% bệnh nhân soi đại tràng không an
thần không đồng ý soi lại lần sau vì không chịu
đau nổi (14), chứng tỏ bệnh nhân cảm nhận đau
khá nhiều trong thủ thuật nội soi đại tràng. Do
đó, vấn đề sử dụng an thần trong nội soi đại
tràng là thực sự cần thiết nhằm tránh cho bệnh
nhân phải chịu đựng đau, tăng mức độ hài lòng
và khả năng chấp nhận thủ thuật lần sau. Kết
quả từ bảng 4 cũng cho thấy mức độ hài lòng
của bác sĩ nội soi ở 2 nhóm có sử dụng propofol
cao hơn so với nhóm soi không an thần, thể hiện
qua điểm VAS về mức độ hài lòng do bác sĩ nội
soi đánh giá của 2 nhóm có sử dụng propofol
cao hơn so với nhóm còn lại. Điểm VAS do bác
sĩ nội soi nhận định của nhóm 1 và nhóm 2 là
9,0 ± 0,95 và 9,4 ± 0,8 cao hơn so với kết quả của
Stonell CA và cộng sự là 67 ± 30 ở nhóm sử
dụng propofol kiểm soát nồng độ đích do bệnh
nhân điều khiển và 77 ± 24 ở nhóm sử dụng
propofol do người gây mê điều khiển (8) (tác giả
sử dụng thang điểm 100, chúng tôi sử dụng
thang điểm 10, nhưng cách đánh giá tương tự
nhau). Có sự khác biệt về mức độ hài lòng trong
nghiên cứu của chúng tôi so với Stonell CA là
do mức an thần của bệnh nhân trong nghiên
cứu của chúng tôi sâu hơn, tạo thuận lợi cho
tiến trình soi. Tương tự kết quả nghiên cứu của
Stonell CA, điểm VAS do bác sĩ nội soi nhận
định giữa 2 nhóm có sử dụng propofol của
chúng tôi khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Nhịp tim và huyết áp tâm thu tại thời điểm 1
phút (T1) và 5 phút (T5) trong khi nội soi của
nhóm 3 cao hơn so với nhóm 1 và nhóm 2. Theo
quan sát của chúng tôi, thời điểm T1 và T5 là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 310
giai đoạn ống soi bắt đầu được đưa qua hậu
môn - trực tràng, đồng thời việc bơm hơi và ống
soi phải đi qua đoạn đại tràng xích ma gập góc,
di động nên gây đau và cảm giác khó chịu cho
bệnh nhân. Điều này cho thấy vai trò của
propofol trong việc duy trì an thần sâu, giúp
bệnh nhân vượt qua các thời điểm nhạy cảm mà
không làm thay đổi nhịp tim và huyết áp.
Nghiên cứu của chúng tôi không gặp trường
hợp nào có mạch chậm dưới 50 lần/phút. Tohda
G và cs thấy có 4,1% trường hợp mạch chậm
dưới 50 lần/phút khi soi đại tràng với an thần
bằng propofol (10), Ulmer BJ và cộng sự ghi nhận
có 1/ 50 (chiếm 2%) trường hợp mạch chậm ở
nhóm an thần với propofol trong nội soi đại
tràng (11). Theo lý thuyết, propofol gây ức chế
trương lực giao cảm nên gây nên tình trạng
cường phó giao cảm tương đối làm chậm nhịp
tim. Tuy nhiên, tỉ lệ bệnh nhân chậm nhịp tim
trong các nghiên cứu nói trên rất thấp có thể giải
thích là do bệnh nhân được an thần không đúng
mức, và nhịp chậm xảy ra là do động tác thủ
thuật gây ra phản xạ phó giao cảm.
Huyết áp tâm thu của nhóm 2 thấp hơn so
với nhóm 1 tại thời điểm T1. Chúng tôi cũng
ghi nhận tỉ lệ tụt huyết áp tâm thu dưới 20%
huyết áp nền ở nhóm 2 là 60%, cao hơn so với
tỉ lệ ở nhóm 1 là 16,7%. Tỉ lệ tụt huyết áp dưới
30% ở nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 3,3% và
13%, tuy khác biệt không có ý nghĩa thống kê
nhưng cũng gợi ra suy nghĩ về khả năng gây
tụt huyết áp của propofol tùy thuộc vào
phương cách đưa thuốc vào cơ thể. Krugliak P
và cộng sự ghi nhận tụt huyết áp dưới 20%
huyết áp nền chiếm 37% thời gian của thủ
thuật (3). Gasparovic S và cộng sự thống kê
trên 1104 bệnh nhân được sử dụng propofol
trong nội soi tiêu hóa, kết quả huyết áp tâm
thu trung bình từ 149,8 mmHg trước thủ thuật
giảm còn 111,2 mmHg trong quá trình làm thủ
thuật, trong đó có 5 trường hợp huyết áp
giảm dưới 60 mmHg được xử trí truyền 500
ml dung dịch NaCl 0,9% (2). Stonell và cộng sự
theo dõi huyết áp tâm thu mỗi 3 phút và nhận
thấy số lần huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg
trung bình cho mỗi bệnh nhân ở nhóm TCI là
0,8 ± 1,4, với nhóm tiêm propofol ngắt quãng
là 3,0 ± 3,2 (p = 0,007) (9).
Bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
đều có tình trạng sức khỏe ổn định (ASA I – II)
nên việc tụt huyết áp dưới 20% so với huyết áp
nền tuy có ý nghĩa về mặt thống kê nhưng
không có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Chúng tôi
không xử trí gì đặc hiệu mà chỉ điều chỉnh giảm
nồng độ đích ở nhóm 1 và tăng khoảng cách
tiêm thuốc ở nhóm 2. Tuy nhiên, có một số
trường hợp tụt huyết áp dưới 30% so với huyết
áp nền, do đó cần chú ý đối với bệnh nhân lớn
tuổi hoặc bệnh nhân có phân loại ASA ≥ III. Tụt
huyết áp trong khi nội soi đại tràng dưới an
thần với propofol có thể giải thích là do tác
dụng dãn mạch và ức chế tim mức độ nhẹ của
thuốc và tình trạng mất nước, điện giải ở bệnh
nhân đã được chuẩn bị đại tràng trước đó.
Độ bảo hòa oxy mao mạch của 3 nhóm
không khác nhau tại các thời điểm nghiên cứu.
Trong quá trình soi đại tràng, ở nhóm 2 có 4
trường hợp (chiếm 13,3%) SpO2 giảm dưới 90%
được xử trí bằng cách ngữa đầu nâng cằm, tăng
liều oxy lên 4 – 6 lít/ phút, tất cả bệnh nhân này
đều ổn định. Không có trường hợp nào phải
thông khí hỗ trợ (bóp bóng qua mặt nạ hoặc đặt
nội khí quản).
Gasparovic S và cộng sự nghiên cứu 1104
bệnh nhân nội soi tiêu hóa với propofol, có 27
trường hợp SpO2 giảm dưới 90%. Trong đó có 7
bệnh nhân phân loại ASA III với bệnh lý tim
phổi đi kèm. Bệnh nhân giảm SpO2 < 90% đều
thuộc nhóm có chỉ định nội soi đường tiêu hóa
trên, tai biến này chỉ thoáng qua và không cần
phải thông khí hỗ trợ (2). So với kết quả của
Gasparovic S, tỉ lệ giảm SpO2 < 90% trong nhóm
tiêm propofol ngắt quãng của chúng tôi có 4 / 30
trường hợp. Nguyên nhân có thể là do tốc độ và
liều lượng propofol tiêm cho những bệnh nhân
này chưa phù hợp. Khi so sánh tai biến tụt SpO2
< 94% giữa 2 nhóm nội soi đại tràng có an thần
bằng propofol, Stonell CA và cộng sự nhận thấy
số lần SpO2 < 94% trung bình của mỗi bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 311
ở nhóm TCI kết hợp PCS là 0,05 ± 0,2 và của
nhóm tiêm ngắt quãng là 0,2 ± 0,5. Tác giả chọn
giới hạn tụt SpO2 là 94%, cỡ mẫu tương đối nhỏ
(mỗi nhóm nghiên cứu có 20 BN), có lẽ đây là lý
do khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa
thống kê. Các tác giả nước ngoài cũng ghi nhận
tỉ lệ hỗ trợ thông khí khi sử dụng propofol trong
các thủ thuật nội soi tiêu hóa rất thấp. Sieg A và
Vargo JJ nhận thấy tỉ lệ các trường hợp có biến
động về hô hấp cần thông khí hỗ trợ lần lượt là
0,14% và 0,1%. Riêng ở nhóm nội soi đại tràng,
Vargo JJ thấy tỉ lệ phải thông khí bằng mặt nạ
chỉ chiếm 0,01% (7), (13).
Đa số tác giả nhận xét các biến cố về hô hấp
và tuần hoàn là do tốc độ tiêm và liều lượng
propofol chưa phù hợp. Qua đó cho thấy, nếu
phương cách tiêm thuốc cho bệnh nhân hợp lý
sẽ tránh được các tai biến về hô hấp, tuần hoàn.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi tiến hành thủ
thuật trên những bệnh nhân già, yếu, huyết
động không ổn định, và TCI có thể là một lựa
chọn phù hợp.
KẾT LUẬN
Phương pháp an thần bằng propofol kiểm
soát nồng độ đích có thể áp dụng an toàn trong
thủ thuật nội soi đại tràng, đạt được hiệu quả về
sự hài lòng của bệnh nhân và bác sĩ nội soi, sự
thuận lợi trong quá trình thực hiện thủ thuật.
Các chỉ số tuần hoàn và hô hấp của bệnh nhân
được nội soi đại tràng áp dụng phương pháp