Mục tiêu: Nốt phổi đơn độc có thể là lành tính hoặc ác tính. Nốt phổi ngoại biên được cắt lấy đi qua những
phẫu thuật ít xâm lấn. Mục tiêu của công trình này nhằm nêu lên đặc điểm lâm sàng và xác định vai trò của PT
nội soi lồng ngực trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý này tại BV Chợ Rẫy và BV. Cấp cứu Trưng Vương, so lại
những xu hướng mới hiện nay của thế giới.
Phương pháp nghiên cứu: •Về mặt mô học, cắt phổi giới hạn với stapler đúng chuẩn: cắt xa khỏi nốt ít nhất
10 mm. •Trong 10 năm (2000-2009), tại 2 trung tâm (BV Chợ Rẫy và BV cấp cứu Trưng Vương), chúng tôi có
92 BN nốt phổi đơn độc (NPĐĐ) đến viện. Nam nhiều gấp đôi nữ. Tuổi trung bình là 55 tuổi (25-79). Đỉnh cao
của từ 36 - 65 tuổi, chiếm tỷ lệ 75%.
Kết quả: 83% bệnh nhân NPĐĐ ác tính đều tình cờ phát hiện. 61% bệnh nhân trên 55 tuối là ác tính. 82%
nốt < 1,5 cm là lành tính. 76% nốt từ 1,5-3 cm là ác tính. Trên 36 nốt ác tính: 64% là ung thư tiểu phế quản-phế
nang, 22% tăng sản tuyến không điển hình và 14% ung thư biểu mô tuyến. 47 BN được tiến hành mổ nội soi
sinh thiết tức thì: 35 BN lành tính cắt phổi giới hạn bằng stapler, 12 BN là ác tính phải mở ngực cắt thùy, không
có trường hợp nào tử vong.
Kết luận: Trong công trình này, tất cả nốt ác tính đều được phát hiện tình cờ qua phim ngực và đều được
mổ. Phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt phổi hình chêm với sử dụng stapler và sinh thiết tức thì đã chứng tỏ tính
an toàn, không có trường hợp nào tử vong. Tất cả bệnh nhân được kết luận ác tính sau khi sinh thiết tức thì đều
được kết hợp mở ngực cắt thùy. Gần đây, dựa trên phân loại mô học của tổ chức Y tế thế giới: với nốt mờ đồng
nhất < 1 cm, dù kết luận là K tiểu phế quản-phế nang (ung thư không xâm lấn) cũng nên cắt phổi hình chêm (cắt
phổi giới hạn).
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của chẩn đoán và điều trị ngoại khoa nốt phổi đơn độc qua phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương trong 10 năm (2000-2009), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 452
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
NỐT PHỔI ĐƠN ĐỘC QUA PHẪU THUẬT NỘI SOI TẠI BV CHỢ RẪY
VÀ BV. CẤP CỨU TRƯNG VƯƠNG TRONG 10 NĂM (2000-2009)
Nguyễn Công Minh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nốt phổi đơn độc có thể là lành tính hoặc ác tính. Nốt phổi ngoại biên được cắt lấy đi qua những
phẫu thuật ít xâm lấn. Mục tiêu của công trình này nhằm nêu lên đặc điểm lâm sàng và xác định vai trò của PT
nội soi lồng ngực trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý này tại BV Chợ Rẫy và BV. Cấp cứu Trưng Vương, so lại
những xu hướng mới hiện nay của thế giới.
Phương pháp nghiên cứu: •Về mặt mô học, cắt phổi giới hạn với stapler đúng chuẩn: cắt xa khỏi nốt ít nhất
10 mm. •Trong 10 năm (2000-2009), tại 2 trung tâm (BV Chợ Rẫy và BV cấp cứu Trưng Vương), chúng tôi có
92 BN nốt phổi đơn độc (NPĐĐ) đến viện. Nam nhiều gấp đôi nữ. Tuổi trung bình là 55 tuổi (25-79). Đỉnh cao
của từ 36 - 65 tuổi, chiếm tỷ lệ 75%.
Kết quả: 83% bệnh nhân NPĐĐ ác tính đều tình cờ phát hiện. 61% bệnh nhân trên 55 tuối là ác tính. 82%
nốt < 1,5 cm là lành tính. 76% nốt từ 1,5-3 cm là ác tính. Trên 36 nốt ác tính: 64% là ung thư tiểu phế quản-phế
nang, 22% tăng sản tuyến không điển hình và 14% ung thư biểu mô tuyến. 47 BN được tiến hành mổ nội soi
sinh thiết tức thì: 35 BN lành tính cắt phổi giới hạn bằng stapler, 12 BN là ác tính phải mở ngực cắt thùy, không
có trường hợp nào tử vong.
Kết luận: Trong công trình này, tất cả nốt ác tính đều được phát hiện tình cờ qua phim ngực và đều được
mổ. Phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt phổi hình chêm với sử dụng stapler và sinh thiết tức thì đã chứng tỏ tính
an toàn, không có trường hợp nào tử vong. Tất cả bệnh nhân được kết luận ác tính sau khi sinh thiết tức thì đều
được kết hợp mở ngực cắt thùy. Gần đây, dựa trên phân loại mô học của tổ chức Y tế thế giới: với nốt mờ đồng
nhất < 1 cm, dù kết luận là K tiểu phế quản-phế nang (ung thư không xâm lấn) cũng nên cắt phổi hình chêm (cắt
phổi giới hạn).
Từ khóa: Nốt phổi đơn độc. Cắt phổi giới hạn = Cắt phổi hình chêm = Cắt phổi không theo mốc giải phẫu.
Cắt phổi theo mốc giải phẫu = Cắt thùy phổi.
ABSTRACT
APPRECIATION THE EFFICIENCY OF THE THORACOSCOPIC SURGERY IN DIAGNOSIS AND
TREATMENT OF THE SOLITARY PULMONARY NODULES AT CHO RAY AND TRUNG VUONG
HOSPITAL DURING 12 YEARS (2000-2009)
Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 452 - 459
Objective: Solitary pulmonary nodule may be benign or malignant conditions. Peripheral pulmonary
nodules are preferably removed by minimal invasive techniques. The purpose of this study was designed the
clinical aspect and confirm the role of VAST in the diagnosis and management of these diseases in our service
at ChoRay and Trung Vuong hospital, to compare with the new trends of the world.
Methods:•Pumonary resection was made using an endostapler with a sufficient macroscopically surgical
margin of at least 10 mm in the collapsed lung. •During 10 years, between 2000 to 2009, at ChoRay and Trung
Vuong hospital, we are 92 hospitalized solitary pulmonary nodule. Male is two times more than female. The mean
* Bệnh viện Cấp Cứu Trưng Vương - TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS TS Nguyễn Công Minh ĐT: 38642750. Email: bvcctv@hcm.fpt.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 453
age was 55 years (range 25-79 years). 36-65 years old patients was predominant (75%).
Results: 83% malignant patients were occasually found on a chest X-ray obtained when goes to the
physician. 61% over 55 years old are malignats. 82% nodule < 1.5 cm were benigns. 76% nodule from 1.5-3 cm
were malignants. On 36 malignant nodules: 64% were bronchoalveolar carcinoma (BAC), 22% were atypical
adenomatous hyperplasia (AAH) and 14% adenocarcinomas. 47 patients were VAST for diagnosed frozen section
technique: 35 benign patients were surgical treatment by limited resection with stapler, 12 were malignant,
thoracotomy for lobectomy is indicated and no mortality.
Conclusion: In our study, all malignant solitary noddules are discoved incidentally and required resectable.
Video-assisted thoracoscopic resection proved safely on wedge resection with stapler and frozen section diagnosis
with no mortality. All patients with malignant disease after frozen section in our services were lobectomy with
associated thoracothomy. Recently, base on the revised of WHO histologic classification: with the pure ground-
glass opacity < 1 cm, though bronchoalveolar carcinoma (was defined as a noninvasive carcinoma), thoracoscopic
wedge resection (limited resection) could be the treatment of choice.
Key words: The solitary pulmonary nodules. Limited resection = Wedge resection = Non anatomic
resection. Anatomic resection = Lobectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên 1 thống kê về nốt đơn độc phổi thì gần
50% là lành tính, 40% là ung thư phổi nguyên
phát và 10% nốt đơn độc do di căn(12,13). Chẩn
đoán được nốt phổi đơn độc là ung thư biểu mô
tuyến phế quản là vấn đề hết sức hữu ích, bởi vì
với những BN được can thiệp sớm này, tỷ lệ
sống trên 5 năm lên đến 70-80%(5,7,10,11). Việt Nam
nằm trong vùng dịch tể của bệnh lao và các bệnh
nhiễm khác vì vậy cần có một chẩn đoán
chính xác và ít xâm lấn nhất: phẫu thuật nội soi
(PTNS) cắt hình chêm gửi sinh thiết tức thì.
Chúng tôi ghi nhận các hình thái lâm sàng của
nốt phổi đơn độc (NPĐĐ), đánh giá vai trò của
phẫu thuật nội soi tại 2 trung tâm (BV Chợ Rẫy
và BV. Cấp cứu Trưng Vương) và qua đó so lại
những quan điểm ngày nay về chỉ định cắt phổi
qua nội soi của thế giới Đó là mục tiêu của
công trình.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
BN đến 2 trung tâm. Tất cả được đánh giá
bằng CT scan.
Định giai đoạn K: Tất cả đều ở giai đoạn khu
trú (G/đ I, II): u hoàn toàn nằm trong phổi, do đó
đều có chỉ định cắt trọn. Không có trường hợp
nào di căn (giai đoạn IV). Điều trị: Trừ những BN
ở giai đoạn đầu, các TH sau này đều được PTNS
cắt phổi hình chêm qua sinh thiết tức thì. Cắt
hình chêm cách nốt ít nhất 10 mm để bảo đảm
tiêu chuẩn đại thể. Chúng tôi không nhuộm
hematoxylin-eosin như một số tác giả để định
ranh giới bệnh lý trong lúc mổ và yêu cầu nhà
GPB đọc cả u lẫn phần rìa của mẩu mô được cắt.
Theo dõi: BN được theo dõi qua chụp CT scan
mỗi 6 tháng.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hàng loạt ca mô tả dọc có đối
chứng.
Tư liệu được xử lý Student test và ngưỡng
giá trị thống kê so sánh khác nhau có ý nghĩa với
P < 0,05.
TƯ LIỆU - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi
Người cao nhất là 79 tuổi và thấp nhất là 25
tuổi. Tuổi trung bình là 55.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 454
TUỔI N= 92 TỶ LỆ
15-25 1 1%
26-35 11 12%
36-45 25 27%
46-55 27 30%
56-65 17 18%
66-75 8 9%
> 75 3 3%
Đỉnh cao của NPĐĐ là 36-65 tuổi, chiếm tỷ
lệ 75%. (P < 0,001)
Yếu tố tuổi và bản chất sang thương
Trong 28 BN > 55 tuổi thì đã có đến 17 BN là
carcinôm ác tính, chiếm tỷ lệ 61%.
Trong 64 BN ≤ 55 tuổi: 18 BAC, 3 Carcinôm
tuyến (2 tiến triển nặng, di căn phổi sau 1 năm
theo dõi không TH nào sống quá 5 năm). Điều
đó chứng tỏ rằng tuổi càng trẻ thì tỷ lệ ác tính
càng cao.
Giới
62 BN nam chiếm tỷ lệ 67%
30 BN nữ, chiếm tỷ lệ 33%
Nam nhiều hơn gấp đôi nữ (P< 0,01).
Cơ hội phát hiện bệnh
Bởi vì hầu hết BN mới bị ho nhẹ, được chụp
phổi, phát hiện NPĐĐ thì vẫn là tình cờ phát
hiện.
Trên npđđ lành tính N= 56 Tỷ lệ
Tình cờ đi khám 7 12,5%
Có biểu hiện ls 49 87,5%
Trên 49 BN này: có đến 7 BN có TC mơ hồ
và đi chụp X quang phát hiện NPĐĐ như: viêm
phế quản, ho khan. 87% các trường hợp lành
tính đều có biểu hiện LS: ho đàm, viêm phế
quản, ho máu mà Lao chiếm đa số.
Trên npđđ ác tính N= 36 Tỷ lệ
Tình cờ đi khám 30 83%
Có biểu hiện ls 6 17%
Khảo sát trên những BN ác tính: 30 BN qua
kiểm tra định kỳ tình cờ phát hiện, chiếm tỷ lệ
83%.
Yếu tố nguy cơ
Khảo sát hút thuốc lá trên 92 BN (cả nam lẫn
nữ) cho thấy:
Nguyên nhân N= 92 TỶ lỆ
Có hút thuốc 22 24%
Không hút thuốc lá 70 76% (P < 0.005)
Thuốc lá không là yếu tố nguy cơ NPĐĐ.
Khảo sát trên các nốt có vôi hóa và không
có vôi hóa
NPĐĐ N= 92 Ác tính Lành tính
Nốt có vôi hóa 52 0 52
Nốt không có vôi hóa 40 36 (90%) 4 (10%)
Tất cả nốt có vôi hóa của chúng tôi đều
lành tính.
Khảo sát trên nốt không có vôi hóa: 90% là
ác tính và 10% lành tính.
Khảo sát bờ rìa của nốt phổi
Bờ rìa của NPĐĐ Ác tính Lành tính
Bờ đều nhẵn 5 32
Bờ đa cung 13 21
Bờ nham nhở 13 3
Bờ có vành tia 5 0
Tổng cộng 36 56
Bờ rìa vành tia có tỷ lệ ác tính cao nhất,
100%. Sau đó mới đến bờ rìa nham nhở, 81%.
Bờ nốt đầu nhẵn và đa cung cho tỷ lệ lành
tính lên đến 55%.
Khảo sát bản chất giải phẫu bệnh và kích
thước của nốt
Kích thước NPĐĐ N= 92 Ác tính (BN) Lành tính (BN)
< 1,5 cm 22 (24%) 4 (18%) 18 (82%)
1,5 cm – 3 cm 70 (76%) 53 (76%) 17 (24%)
76% là những nốt > 1,5 cm. Trong 4/22 nốt <
1,5 cm có tế bào ác tính: 1 K biểu mô tuyến biệt
hóa cao và 3 BAC.
Điều trị phẫu thuật
Trong những năm đầu: chúng tôi có 34
trường hợp NPĐĐ. Tất cả đều phải mở ngực cắt
hình chêm và chờ KQ sinh thiết tức thì. KQ: 13
ác tính và 21 lành tính trong đó 18 TH là u lao.
Những năm sau này, 58 trường hợp NPĐĐ:
- 11 BN đã được sinh thiết xuyên thành
KL là carcinôm tuyến phải mở ngực cắt thùy
(thì đầu).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 455
- 47 BN còn lại được tiến hành mổ nội soi
chẩn đoán và điều trị (12 BN là ác tính phải mở
ngực cắt thùy), 35 BN lành tính trong đó 28 BN
là lao.
Kết quả giải phẫu bệnh
NPĐĐ LÀNH TÍNH N= 56 TỶ LỆ (%)
Lao 42 75%
U mô thừa 11 20%
U sợi 3 5%
Trên 56 TH lành tính có đến 42 TH là lao
(trong đó có đến 30 BN đã có tiền căn điều trị
lao).
NPĐĐ ÁC TÍNH N= 36 Tỷ lệ (%)
K biểu mô tuyến 5 14%
K tiểu phế quản-phế nang
(BAC = Bronchoalveolar Carcinoma)
23 64%
Tăng sản tuyến không điển hình
(AAH = atypical adenomatous
hyperplasia)
8 22%
Biến chứng và tử vong trong và sau mổ
- 21 BN mở ngực nhỏ cắt phổi hình chêm và
36 BN phải mở ngực cắt thùy: không có trường
hợp nào biến chứng và tử vong.
- 35 BN mổ nội soi cắt hình chêm: chỉ có 2
BN có TKMP và ổn định, không can thiệp thêm.
BÀN LUẬN
Định nghĩa
Nốt phổi đơn độc là một tổn thương hình
cầu, nằm gọn trong nhu mô phổi (không liên
quan đến màng phổi, trung thất); Không hạch,
không kèm theo xẹp phổi(14,15,17,18,23).
Mặc dù không có qui ước nào, nhưng đại
đa số các tác giả đều đồng thuận: Gọi là nốt
khi kích thước của khối từ 1,5 cm đến 3 cm.
Khối > 3cm, gọi là “khối u phổi”, đa số thường
là ác tính.
Vấn đề quan trọng là với nốt nào thì phải cắt
bỏ hoặc bảo tồn theo dõi(4, 17).
Tính phổ biến
Trong 10 năm (2000-2009) chúng tôi có 92
BN có NPĐĐ được điều trị tại 2 BV (Chợ Rẫy và
Cấp cứu Trưng Vương). Chúng tôi không kể các
trường hợp nốt đơn độc di căn, bởi vì vấn đề
thuộc phạm vi khác.
Mỗi năm có gần 150000 NPĐĐ mới được
phát hiện(17) mặc dù đa số lành tính nhưng ung
thư biểu mô tuyến ngày càng gia tăng, nhất là
trên BN cao tuổi(5, 14). NPĐĐ là một tình huống
đặc biệt của u phổi, chiếm tỷ lệ 1/500 X quang
phổi tình cờ phát hiện, 33% trong số đó là ác
tính; và có đến 50% trường hợp sẽ là ác tính nếu
BN trên 50 tuổi(10). 76% BN có NPĐĐ của chúng
tôi là không hút thuốc lá. Theo Nakata(15) 79,2%
BN không hút thuốc lá.
Đặc điểm của bệnh nhân
Tuổi giới và tính chất lành ác
Nam gấp đôi nữ. Theo Sortini(19) thì nam
hơn nữ một ít (54% và 46%). Nhưng theo
thống kê của Nakata(15) đa số BN là nữ, chiếm
tỷ lệ 68,8%.
Công trình này, đỉnh cao của NPĐĐ là 36-65
tuổi, chiếm tỷ lệ 75%.
-Trong 28 BN > 55 tuổi thì đã có đến 17 BN là
ác tính, chiếm tỷ lệ 61%.
-Trong 64 BN ≤ 55 tuổi: 18 BAC, 3 Carcinôm
tuyến (2 tiến triển nặng, di căn phổi sau 1 năm
theo dõi không TH nào sống quá 5 năm). Điều
đó chứng tỏ rằng với carcinôm tuyến: tuổi càng
trẻ thì tỷ lệ ác tính càng cao.
•Nói chung tỉ lệ ác tính là 33%, nhưng nếu
tách riêng những bệnh nhân > 50 tuổi thì 50% là
ác tính(8,12,13,18). Theo Nakata(15), tuổi trung bình là
58 (nhỏ nhất là 27, cao nhất là 81 tuổi). Theo
Ost(16) thì Carcinôm tuyến ngày càng gia tăng,
đặc biệt là trên BN cao tuổi.
Cơ hội phát hiện NPĐĐ và sang thương
nguyên phát
Với sang thương nguyên phát của chúng tôi:
87% nốt lành tính đều có biểu hiện LS, mà lao
chiếm đa số. Và 83% nốt ác tính đều tình cờ phát
hiện.
Ung thư tế bào nhỏ hiếm khi biểu hiện dưới
dạng nốt phổi đơn độc(2,3,10). Trong công trình
của Sortini(19) trên NPĐĐ có tiền căn ung thư thì
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 456
60% là K đại trực tràng, 24% K vú và 16% K hắc
bào. Có một điều cần chú ý rằng có đến 40% các
trường hợp có NPĐĐ do di căn trên phim X
quang ngực, khi chụp điện toán cắt lớp phát
hiện thêm nhiều nốt khác nữa. Tỷ lệ NPĐĐ ác
tính trên BN có tiền căn ung thư lên đến 95%(17).
Nguy cơ ác tính tăng dần theo tuổi, thời gian
hút thuốc lá và kích thuớc nốt đơn độc, mặc dù
khả năng ác tính không thể dựa vào đặc một
điểm riêng biệt nào cả.
Theo dõi bệnh nhân và thời gian nhân đôi
thể tích
Về mặt kinh điển, khảo sát trên X quang
ngực, thể tích nốt hình cầu nhân đôi khi tăng
30% thể tích và thời gian nhân đôi được đồng
thuận là 2 năm. Và sau 2 năm, thể tích không
thay đổi có nghĩa là nốt đơn độc lành tính, mặc
dù ung thư biểu mô tiểu PQ-PN (BAC) và
Carcinoid điển hình có vẻ ổn định sau 2 đến vài
năm (thường không tăng thể tích)(17).
Ngày nay quan điểm “nhân đôi này” nên
cẩn thận. Trong 1 công trình trên 156 NPĐĐ
cho thấy 35% nốt không tăng kích thước sau 2
năm nhưng lại là ác tính(17). Lý tưởng vẫn là
theo dõi mỗi 3 tháng trong năm đầu và mỗi 6
tháng trong năm thứ hai với CT scan có độ
phân giải cao, cho dù với nốt < 5 mm(17). Ngày
nay các tác giả sử dụng CT scan có cản quang
và chụp cắt lớp tán xạ positron (PET) đã mang
lại nhiều thuận lợi(6).
Aoki(2) và Cs cho thấy 83% ung thư tiểu PQ-
PN (BAC) được xác định dưới dạng nốt mờ trên
CT scan độ phân giải cao có thời gian nhân đôi
thể tích là > 1 năm.
Ngày nay ở các nước phát triển, các tác giả chủ
trương sử dụng PET CT để đánh giá bản chất. Nếu
KQ âm tính, nốt được theo dõi như trên với CT
scan độ phân giải cao. Nếu PET dương tính, tiến
hành PTNS sinh thiết tức thì và quyết định cắt thùy
nếu là carcinôm phế quản(6,17).
Quan điểm hiện nay
Trong công trình này, chúng tôi vẫn còn tôn
trọng nguyên tắc kinh điển là một khi đã khẳng
định là ác tính thì dù chưa xâm lấn xung quanh
như BAC, chúng tôi vẫn tiến hành cắt thùy.
Gần đây, một số tác giả dựa trên phân loại
mô học của tổ chức Y tế thế giới (WHO)(15):
-Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma)
là thương tổn xâm lấn cấu trúc lân cận.
-Ung thư biểu mô tiểu phế quản phế nang
(BAC) và tăng sản tuyến không điển hình
(AAH) là dạng ung thư ít xâm lấn nên chủ
trương cắt giới hạn đã cho KQ bước đầu
thuyết phục.
Người ta xác định sự xâm lấn mô lân cận với
phẩm nhuộm hematoxylin-eosin trên mẩu cắt
hình chêm qua PTNS(15,17,23).
Vấn đề chẩn đoán
Hình dạng và kích thước nốt liên quan đến
bản chất
-Trước đây, với nốt mờ có kích thước lớn, bờ
đa cung thì nghĩ nhiều đến ác tính(2, 3, 8, 10, 21).
-Ngày nay, dựa trên CT độ phân giải cao,
ung thư tuyến G/đ sớm dưới dạng NPĐĐ có thể
phát hiện dễ dàng. Nhiều công trình NC cho
thấy nốt mờ tồn tại lâu thường là K biểu mô
tuyến biệt hóa cao hoặc K tiểu PQ-PN(14). Các tác
giả chia nốt mờ ra 2 loại: nốt mờ hỗn hợp và nốt
mờ đồng nhất. Nốt mờ đồng nhất: thường là K
tiểu phế quản-phế nang. *Nốt mờ hỗn hợp
thường là K biểu mô tuyến(15, 17).
-Chúng tôi chưa khảo sát được đặc điểm của
nốt mờ đồng nhất và nốt mờ hỗn hợp vì đa số
chúng tôi chỉ sử dụng CT scan thường.
Nốt vôi hóa của chúng tôi đều lành tính.
90% nốt không có vôi hóa là ác tính và 10% lành
tính. *Bờ rìa vành tia có tỷ lệ ác tính cao nhất,
100%, sau mới đến bờ nham nhở, 81%. Bờ nốt
nhẵn và đa cung cho tỷ lệ lành tính lên đến 55%.
*Với nốt > 1,5 cm thì tần suất ác tính lên đến
76%, nốt < 1,5 cm thì tần suất lành tính là 82%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 457
Theo Nakata(15), với 41 nốt mờ đồng nhất < 1
cm (Carcinôm biểu mô tuyến 3 BN, K tiểu PQ-
PN 28 BN; tăng sản tuyến không điển hình 10
BN): không có TH nào di căn màng phổi hay di
căn hạch. 33/41 cắt giới hạn. 8 BN còn lại (3 cắt
phân thùy và 5 cắt thùy).
Với 27 nốt > 1 cm (9 đồng nhất và 18 hổn
hợp): 8 K tuyến biệt hóa cao, 18 BN Carcinôm
tiểu PQ-phế nang, 1 BN tăng sản tuyến không
điển hình(15).
Như vậy, với nốt mờ đồng nhất < 1cm thì
xuất độ carcinoma rất ít, nên tiến hành cắt phổi
giới hạn(15). Với nốt mờ hỗn hợp và nốt > 1 cm
hoặc nhiều nốt (đa ổ), phải hết sức thận trọng, vì
nguy cơ ung thư biểu mô tuyến rất cao.
Khảo sát giải phẫu bệnh: Trên 36 NPĐĐ ác
tính của chúng tôi: 64% là K tiểu PQ-PN, 22% là
tăng sản tuyến không điển hình và 14% là K
biểu mô tuyến. Công trình của Nakata(15): K
tuyến biệt hóa tốt và loại hỗn hợp tiểu PQ-PN
(21,5%); BAC: 57%; AAH: 21,5%.
Vai trò của PET: ●Chúng tôi chỉ có 2 trường
hợp sử dụng PET. Tuy nhiên PET chẩn đoán nốt
đặc đơn độc trong tương lai rất giá trị(9). ●Với
nốt < 1 cm thì giá trị của PET có giới hạn(6,17). Độ
nhạy 96,8% và độ đặc hiệu đến 77,8%. Ngày nay
người ta sử dụng gamma cameras hỗ trợ hoặc
kết hợp với các phương thức khác giúp cho PET
đạt hiệu quả chẩn đoán ác tính cao hơn(9,17).
Vấn đề điều trị
Ưu thế và giá trị của PT cắt phổi giới hạn của
NPĐĐ qua nội soi
12/47 NPĐĐ ở ngoại biên của chúng tôi cắt
qua nội soi với stapler, xác định là ác, đã mở
ngực.
Nakata đã tiến hành hồi cứu điểm, kết hợp
đánh giá KQ GPB và hình ảnh học trên 28 BN
cắt phổi giới hạn và các BN cắt thùy phổi theo
kinh điển trong 5 năm đầu (1997-2000) để tiến
hành tiến cứu cắt giới hạn trên 68 NPĐĐ < 2cm
sau đó. Những NPĐĐ < 2 cm qua khảo sát CT
scan có độ phân giải cao, các tác giả chứng minh
hiệu quả trên phương diện ung thư học và giá
trị của PTNS cắt phổi hình chêm với những chỉ
định đặc biệt của nó(15).
●Trong công trình hồi cứu của Nakata cho
thấy những nốt mờ đồng nhất < 1cm đều không
có tổn thương xâm lấn, trong khi nốt mờ hỗn
hợp cùng kích thước ấy lại nghiêng về ung thư
biểu mô tuyến(15): *Trên 57 nốt mờ đồng nhất < 1
cm thì có đến 93% là Carcinôm tiểu PQ-phế
nang và tăng sản tuyến không điển hình. *Trong
khi 39 nốt mờ đồng nhất hoặc hỗn hợp thì có
đến 38,5% BN là Carcinôm biểu mô tuyến(15).
Nếu sinh thiết lạnh trả lời là K biểu mô tiểu
PQ-PN: có nên cắt phổi giới hạn?
Mặc dù trên kinh điển, một khi xác định là K
phổi thì PT cắt thùy và nạo hạch là thích đáng
nhất, bởi vì nếu cắt giới hạn thì tỷ lệ tái phát tại
chỗ cao. Tuy nhiên với carcinôm tiểu phế quản-
phế nang (Bronchoalveolar carcinoma=BAC)
xuất hiện dưới dạng nốt mờ ngoại biên ngày nay
cắt giới hạn vẫn được chọn lựa(15). Vấn đề là phải
xác định cho được sự không xâm lấn ra nhu mô
xung quanh qua CT scan độ phân giải cao và mô
học với mẩu cắt sau mổ(22,23).
Trên thực tế vùng gọi là chưa xâm lấn chỉ
được xác định trên khảo sát vi thể sau mổ. Hơn
thế nữa, mẩu FNA sẽ không đủ cơ sở để kết
luận như phân loại mô học của WHO, vì vậy chỉ
nên cắt phổi giới hạn cho tất cả các trường hợp
đã chọn lọc trên CT scan(15,22). *Nakata đã tiến
hành sinh thiết các rìa cắt của mẫu mô “cắt giới
hạn chuẩn” cũng được xác định là âm tính(15).
Biến chứng và tử vong trong và sau mổ