Mở đầu: Gây tê ngoài màng cứng cho phép kiểm soát đau liên tục và có ưu điểm hơn giảm đau bằng
morphine tĩnh mạch. Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứng
liên tục với chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có nhóm đối chứng. 65 bệnh nhân (BN) có
ASA I, II và III với độ tuổi 18 – 65 được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm E (34 BN) được gây tê ngoài
màng cứng, tiêm 50 μg fentanyl và 5 ml bupivacaine 0,5% trước lúc rạch da, sau đó truyền liên tục bupivacaine
đơn thuần 0,125%, điều chỉnh tốc độ truyền sau mổ để kiểm soát được đau. Nhóm M (31 BN) giảm đau sau mổ
bằng chuẩn độ morphine tĩnh mạch 2 – 3 mg. Theo dõi đau bằng VAS lúc nghĩ và lúc ho, tác dụng phụ, liều
thuốc fentanyl trong mổ và morphine sau mổ trong 24 giờ sau mổ.
Kết quả: Điểm đau (VAS) trung bình thấp hơn có ý nghĩa với nhóm E ở mọi thời điểm. Tổng liều fentanyl
sử dụng trong mổ 201,5 μg ở nhóm E và 303,2 μg ở nhóm M (p < 0,001). Tổng liều morphine sau mổ 0,97 mg ở
nhóm E và 31,5 mg ở nhóm M (p < 0,001). Tỉ lệ buồn nôn và nôn sau mổ 24% ở nhóm E và 32% ở nhóm M (p >
0,05), ngứa 12% và 10% tướng ứng với nhóm E và nhóm M (p > 0,05).
Kết luận: Giảm đau ngoài màng cứng với bupivacaine 0,125% có chất lượng giảm đau tốt hơn giảm đau
bằng chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của gây tê ngoài màng cứng để giảm đau trong phẫu thuật đường tiêu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 419
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG
ĐỂ GIẢM ĐAU TRONG PHẪU THUẬT ĐƯỜNG TIÊU HÓA
Bùi Ngọc Đức*, Nguyễn Thị Thanh**, Nguyễn Thị Phương Dung**, Phan Tôn Ngọc Vũ***
TÓM TẮT
Mở đầu: Gây tê ngoài màng cứng cho phép kiểm soát đau liên tục và có ưu điểm hơn giảm đau bằng
morphine tĩnh mạch. Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứng
liên tục với chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có nhóm đối chứng. 65 bệnh nhân (BN) có
ASA I, II và III với độ tuổi 18 – 65 được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm E (34 BN) được gây tê ngoài
màng cứng, tiêm 50 μg fentanyl và 5 ml bupivacaine 0,5% trước lúc rạch da, sau đó truyền liên tục bupivacaine
đơn thuần 0,125%, điều chỉnh tốc độ truyền sau mổ để kiểm soát được đau. Nhóm M (31 BN) giảm đau sau mổ
bằng chuẩn độ morphine tĩnh mạch 2 – 3 mg. Theo dõi đau bằng VAS lúc nghĩ và lúc ho, tác dụng phụ, liều
thuốc fentanyl trong mổ và morphine sau mổ trong 24 giờ sau mổ.
Kết quả: Điểm đau (VAS) trung bình thấp hơn có ý nghĩa với nhóm E ở mọi thời điểm. Tổng liều fentanyl
sử dụng trong mổ 201,5 μg ở nhóm E và 303,2 μg ở nhóm M (p < 0,001). Tổng liều morphine sau mổ 0,97 mg ở
nhóm E và 31,5 mg ở nhóm M (p
0,05), ngứa 12% và 10% tướng ứng với nhóm E và nhóm M (p > 0,05).
Kết luận: Giảm đau ngoài màng cứng với bupivacaine 0,125% có chất lượng giảm đau tốt hơn giảm đau
bằng chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.
Từ khóa: Gây tê ngoài màng cứng, phẫu thuật đường tiêu hóa, bupivacaine 0,125%, morphine tĩnh mạch.
ABTRACT
EPIDURAL ANALGESIA IN MAJOR ABDOMINAL SURGERY
Bui Ngoc Duc, Nguyen Thi Thanh , Nguyen Thi Phuong Dung,Phan Ton Ngoc Vu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 419 - 423
Background: Perioperative epidural analgesia provides continuous pain control and may have advantages
over intravenous morphine administration. This study compared the quality of pain relief between perioperative
continuous epidural infusion and intravenous morphine titration in patient undergoing major abdominal
surgery.
Patients and Methods: 65 patients with ASA class I, II and III aged between 18 - 65 years voluntarily
participated in this randomized control trial. The patients were randomly divided into two groups: Group E (35
patients) received epidural analgesia with 50 μg fentanyl and 5 ml bupivacaine 0.5% before incision, following
continuous infused with bupivacaine 0,125% alone, the infusion rate was titrated for analgesia. Group M
received 2 – 3 mg intravenous morphine titration in postoperation. Visual analogue scales (VAS) at rest and on
coughing, side effects, doses of opioids were recorded for 24 hr after surgery.
Results: Mean pain scores were significantly lower in the epidural group at most time points. The mean
intraoperative dose of fentanyl was 201.5 μg in the group E, and 303.2 μg in the group M (p <0.001). The mean
postoperative dose of morphine was 0.97 mg in the group E, and 31.5 mg in the group M (p <0.001). The
* Bệnh viện Đa khoa Đắc Lắc **Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
*** Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSCK2: Bùi Ngọc Đức ĐT: 0914.072762 Email: buingocduc2g@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 420
frequency of postoperative nausea and vomiting was 24% and 32% of E and M groups, respectively (p > 0,05).
There was 12% in the group E and 10% in the group M of pruritus (p > 0.05).
Conclusions: Epidural analgesia with bupivacaine 0.125% delivers better analgesia compared with
intravenous morphine titration in patients undergoing major abdominal surgery.
Key word: Epidural analgesia, major abdominal surgery, bupivacaine 0.125%, intravenous morphine
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảm đau ngoài màng cứng (NMC) là một
kỹ thuật tốt để điều trị đau sau mổ trong nhiều
thập niên qua. Giảm đau NMC được xem là tiêu
chuẩn vàng trong điều trị đau cấp tính sau các
phẫu thuật lớn[2,5].
Những lợi ích của gây tê NMC được xác
định khi sử dụng cho BN phẫu thuật bụng. Sau
nhiều loại phẫu thuật vùng bụng khác nhau,
hiệu quả giảm đau tốt hơn nhưng tỉ lệ ngứa thì
nhiều hơn ở nhóm NMC hơn PCA với nhóm
morphine(8,9).
Có thể sử dụng thuốc tê đơn thuần để truyền
liên tục vào khoang NMC, nhưng hiệu quả
không bằng phối hợp thuốc tê với opioid.
Truyền thuốc tê đơn thuần vào khoang NMC có
thể đem lại hiệu quả giảm đau sau mổ và đồng
thời tránh được tác dụng phụ của opioid.
Phương pháp kiểm soát đau qua đường NMC
đã chứng tỏ là phương pháp giảm đau hiệu quả
giúp bệnh nhân mau hồi phục, giảm bớt lượng
thuốc sử dụng, giảm thời gian chăm sóc của điều
dưỡng nhất là sau các phẩu thuật lớn(3,7).
Trong nhiều năm qua, phẫu thuật ổ bụng,
phẫu thuật chi dưới, đã áp dụng phương pháp
gây tê NMC, bệnh nhân ít phải chịu đau, đỡ mất
sức, cuộc mổ trở nên nhẹ nhàng hơn, nhanh hơn.
Để đạt chất lượng vô cảm và kiểm soát đau tốt
sau phẫu thuật chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này nhằm đánh giá hiệu quả của GTNMC để
giảm đau trong phẫu thuật đường tiêu hóa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiện lâm sàng, ngẫu nhiên có nhóm
chứng.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật như cắt
thùy gan, dạ dày, đại tràng, đầu tụy, đuôi tụy,
mổ mở hoặc nội soi có ASA I, II, III, tuổi 18 – 65
và đồng ý tham gia nghiên cứu. Trong thời gian
từ 08 - 2013 đến 05 - 2014 tại Bệnh viện Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền sử dị ứng thuốc tê hoặc
thuốc nhóm á phiện, rối loạn đông máu, nghiện
thuốc morphine, nhiễm trùng nặng, rối loạn
nặng nước và điện giải, suy gan hoặc suy thận
giai đoạn cuối, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
nặng và phụ nữ có thai.
Các bước tiến hành
Nhóm E (n=34): Gây tê ngoài màng cứng
(NMC)
Tiền mê với Midazolam 0.02 mg/kg tiêm
chậm đường tĩnh mạch. Đặt catheter NMC
trước khi gây mê toàn thân. Tiến hành chích
liều thử 3 ml Lidocaine 2% có Adrenaline
1/200.000 (5 μg/ml) qua catheter khoang NMC.
Tiêm liều bolus thuốc tê: 5 ml bupivacaine
0,5% (chia 2 lần: 2 ml và 3 ml cách nhau 5
phút) + fentanyl 50 μg qua catheter. Sau khi
khởi mê gắn đầu catheter với bơm tiêm điện
chứa dung dịch bupivacain 0,125%, bắt đầu
truyền kể từ 1 giờ sau khi tiêm liều bolus
thuốc tê, tốc độ truyền 5 ml/giờ, duy trì liều
này đến khi bệnh nhân tỉnh. Sau mổ điều
chỉnh tốc độ truyền để kiểm soát được đau
VAS ≤ 3.
Nhóm M (n=31): Sử dụng morphine tĩnh
mạch sau mổ.
Nhóm đối chứng, bệnh nhân được gây mê,
sau mổ được cho thuốc giảm đau toàn thân.
Bệnh nhân được cho thuốc giảm đau 1 g
paracetamol (Perfalgan) truyền tĩnh mạch 30
phút trước khi đóng da và cho thêm mỗi 8 giờ
sau mổ. Nếu vẫn còn đau, VAS > 3 sẽ lần lượt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 421
cho thêm thuốc giảm đau theo trình tự: ketorolac
30 mg tiêm tĩnh mạch, chuẩn độ morphine tiêm
tĩnh mạch 2 mg nếu cân nặng bệnh nhân < 60 kg
hoặc 3 mg nếu cân nặng > 60 kg, khoảng cách
mỗi lần tiêm 5 phút cho đến khi VAS ≤ 3.
Bệnh nhân ở hai nhóm được khởi mê với
propofol 1% (Diprivan) 2 mg/kg, fentanyl 2
μg/kg, rocuronium (Esmeron) 0,6 mg/kg. Đặt
ống nội khí quản và thở máy. Duy trì mê trong
mổ với Sevoflurane, fentanyl, rocuronium.
Theo dõi bệnh nhân tại phòng hồi sức. Đánh giá
điểm đau bằng thang chia độ đau VAS vào các
thời điểm: 1, 2, 4, 6, 12, 24 giờ sau mổ.
Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê Stata 12.0. Biến
định tính trình bày giá trị trung bình ± độ lệch
chuẩn. Biến định tính trình bày tần số và phần
trăm. Nếu các biến số là biến định lượng sẽ được
kiểm định bằng t test. Nếu các biến số là biến
định tính sẽ được kiểm định bằng test chi bình
phương χ2 hoặc Fisher’s exact test. Các phép
kiểm có giá trị p < 0,05 được xem là khác biệt có
ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Bảng 1. So sánh liều fentanyl, dịch truyền và thuốc
dãn cơ
Biến số
Nhóm E
(n=34)
Nhóm M
(n=31)
p
Fentanyl (mcg) 201,5±55,7 303,2±67,0 <0,001
Rocuronium(mg) 44,6±4,7 50,6±5,9 <0,001
Dịch truyền(ml) 1744,1±360,3 1619,4±468,1 0,241
Bảng 2. So sánh thời gian gây mê, phẫu thuật và rút
nội khí quản
Biến số
Nhóm E
(n=34)
Nhóm M
(n=31)
p
Thời gian GM(phút) 212,9±68,3 187,7±68,6 0,143
Thời gian PT (phút) 182,6±67,3 157,4±66,8 0,140
Thời gian rút NKQ (phút) 17,8±2,6 20±2,7 0,0002
Bảng 3.Tiêu thụ morphine sau mổ
Biến số
Nhóm E
(n=34)
Nhóm M
(n=31)
p
Morphine (mg) 0,9±1,8 31,5±6,4 0,000
Số bệnh nhân n (%) 9(26) 31(100) 0,000
Biểu đồ 1. So sánh VAS khi nghỉ sau phẫu thuật
Biểu đồ 2. So sánh VAS khi vận động sau phẫu thuật
BÀN LUẬN
Hiệu quả giảm đau trong mổ
Chúng tôi thực hiện gây tê NMC với mốc
chọc gây tê cao nhất là T6-7, thấp nhất là L2-3.
Gây tê đoạn ngực chiếm 76%, trong đó đoạn
ngực được gây tê nhiều nhất là T9-10 chiếm 29%.
Một số phẫu thuật như phẫu thuật Miles, cắt
đoạn trực tràng chúng tôi chọn gây tê đoạn thắt
lưng và mốc thường được chọn là L1-2. Gây tê
NMC giảm đau cho phẫu thuật thực quản, túi
mật, gan, dạ dày, Whiple nên chọn mốc gây tê
T6-8, còn đối với các phẫu thuật cắt đoạn đại
tràng, tử cung nên chọn mốc T8-11(6)
Agarwal và cộng sự(1) tiêm 10 ml
bupivacaine 0,1% vào khoang NMC 20 phút
trước lúc khởi mê, sau đó duy trì truyền liên tục
6 ml/giờ trong phẫu thuật Whiple. Kết quả
nghiên cứu cho thấy giảm có ý nghĩa thống kê
như cầu thuốc propofol dùng để khởi mê và duy
trì mê dưới theo dõi BIS, giảm lượng fentanyl và
thuốc dãn cơ trong mổ.
Phan Tôn Ngọc Vũ(4) tiêm 8-10 ml lidocaine
1% sau đó duy trì truyền liên tục vào khoang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 422
NMC với hỗnhợp thuốc bupivacaine 0,1% +
fentanyl 2 mcg / ml, trong phẫu thuật nội soi cắt
đoạn đại – trực tràng. Kết quả nghiên cứu thể
hiện giảm có ý nghĩa thống kê như cầu thuốc
giảm đau fentanyl và thuốc dãn cơ ở nhóm gây
tê NMC so với nhóm gây mê đơn thuần.
Chúng tôi tiêm 5 ml bupivacaine 0,5%, chia
làm 2 lần cách nhau 5 phút và 50 mcg fentanyl
liều duy nhất vào khoang NMC. Sau đó duy trì
truyền liên tục bupivacaine 0,125% với tốc độ 6
ml/giờ. Nhu cầu fentanyl trong mổ 201,5 mcg ở
nhóm E và 303,2 mcg ở nhóm M , sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê ( p < 0,001). Thuốc fentanyl ở
nhóm E sử dụng chủ yếu để khởi mê, một số
bệnh nhân khi mổ có sự tăng nhịp tim và huyết
áp nên tiêm thêm fentanyl, đa số trong các
trường hợp này chỉ thêm 1 liều là đủ.
Hiệu quả giảm đau sau mổ
Chúng tôi sử dụng paracetamol 1g truyền
tĩnh mạch mỗi 8 giờ và ketorolac 30 mg tĩnh
mạch mỗi 8 giờ ở cả hai nhóm nghiên cứu.
Bệnh nhân nhóm E được truyền
bupivacaine nồng độ giảm đau sau mổ là
0,125%, tốc độ 5 ml/giờ và điều chỉnh tốc độ để
đạt hiệu quả giảm đau. Lượng thuốc
bupivacaine trung bình sử dụng trong 24 giờ
là 235,1 mg, như vậy chúng tôi truyền khoảng
9,7 mg bupivacaine trong 1 giờ.
Bệnh nhân nhóm M được chuẩn độ
morphine khi bệnh nhân tỉnh táo và được đánh
giá mức độ đau theo thang điểm VAS. Nếu bệnh
nhân có cân nặng < 60 kg sẽ tiêm morphine tĩnh
mạch liều 2 mg, > 60 kg tiêm 3 mg và khoảng
cách mỗi lần tiêm là 5 phút cho đến khi VAS ≤ 3.
Ở nhóm E, nếu bệnh nhân còn đau sẽ tăng thêm
liều truyền bupivacaine 2 ml / giờ, đồng thời
chuẩn độ morphine như nhóm M. Chúng tôi chỉ
đánh giá số lượng morphine tiêu thụ trong 24
giờ sau mổ.
VAS trung bình lúc nghỉ ở nhóm E < 3 ở mọi
thời điểm sau mổ và điểm VAS tại T0 là 2,8. Đối
với nhóm M có VAS < 3 từ T4 trở về sau và VAS
tại T0 là 5,8. Điểm VAS trung bình giữa hai
nhóm khác nhau có ý nghĩa tại mọi thời điểm
sau mổ ( p < 0,001). Tương tự, khi bệnh nhân vận
động, tại T0 có 100% bệnh nhân nhóm M có VAS
>3 so với 35% ở nhóm E (p < 0,001). Tại T24 có
90% ở nhóm M và 100% bệnh nhân nhóm E có
VAS < 3, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê. Điểm VAS trung bình tại T0 là
6,6 so với 3,7 tương ứng với nhóm M và nhóm E.
Kiểm soát được đau khi vận động (VAS < 3) tại
T2 đối với nhóm E, trong khi đó nhóm M tại T24.
Như vậy, kiểm soát đau sau mổ các bệnh đường
tiêu hóa ở nhóm gây tê NMC tốt hơn nhóm giảm
đau chuẩn độ morphine tĩnh mạch và điều này
thể hiện rõ hơn khi bệnh nhân vận động.
Nhu cầu morphine tĩnh mạch ở nhóm E rất
thấp 0,9 mg so với 31,5 mg ở nhóm M ( p <
0,001). Gồm 9 bệnh nhân ở nhóm E phải sử dụng
thêm morphine tĩnh mạch trong giờ đầu tiên ở
phòng hồi tĩnh, đó là những phẫu thuật mở như
cắt gan, dạ dày và Whiple. Những bệnh nhân
này vừa tăng liều bupivacaine truyền NMC và
chuẩn độ morphine, liều dùng thấp từ 2 đến 6
mg. Nghiên cứu của Phan Tôn Ngọc Vũ(4) nhu
cầu morphine sau mổ là không có ở nhóm gây tê
NMC, có lẽ là do nghiên cứu trên một loại phẫu
thuật cắt đoạn đại-trực tràng nội soi, trong khi
đó nghiên cứu của chúng tôi gồm phẫu thuật
mở và nội soi và loại phẫu thuật đa dạng như cắt
dạ dày, cắt thùy gan, Whiple, cắt đại tràng...
Tác dụng không mong muốn
Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ BN - NSM
là 24% ở nhóm E và 32% ở nhóm M , khác biệt
không có ý nghĩa thống kê, tất cả trường hợp
buồn nôn-nôn, chúng tôi đều dùng chống nôn
với ondesetron (8mg). Tỉ lệ ngứa 12% ở nhóm E
và 10% ở nhóm M, khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Tỉ lệ BN-NSM ở nhóm M cao hơn
nhóm E có lẽ là do bệnh nhân nhóm M sử dụng
morphine tĩnh mạch nhiều hơn. Tỉ lệ ngứa ở
nhóm E cao hơn nhưng không cóý nghĩa, bởi vì
chúng tôi chỉ tiêm 50 mcg fentanyl liều duy nhất
vào khoang NMC, sau đó duy trì bupivacaine
đơn thuần. Không có bệnh nhân nào trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 423
nghiên cứu của chúng tôi có SpO2 < 90% và tần
số thở < 10 lần/phút.
KẾT LUẬN
Phối hợp gây tê NMC trong mổ làm giảm
nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau, dãn cơ. Giảm
đau NMC với truyền liên tục bupivacaine
0,125% có chất lượng giảm đau sau mổ tốt hơn
sử dụng morphine tĩnh mạch trong các phẫu
thuật đường tiêu hóa. Tỉ lệ buồn nôn - nôn sau
mổ của nhóm có gây tê NMC thấp hơn nhóm
gây mê toàn thân, tỉ lệ ngứa ở nhóm gây tê NMC
cao hơn ở nhóm gây mê toàn thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agarwal A, Pandey R, Dhiraaj S, et al (2004), The effect of
epidural bupivacaine on induction and maintenance doses of
propofol (evaluated by bispectral index) and maintenance doses
of fentanyl and vecuronium.Anesth Analg, 99 (6), 1684-8.
2. Duncan F (2011), Prospective observational study of
postoperative epidural analgesia for major abdominal surgery.J
Clin Nurs, 20 (13-14), 1870-9.
3. Nguyễn Văn Chừng (2011), “ Gây tê ngoài màng cứng”. Sách
Gây Mê Hồi Sức Cơ Bản, Đại học Y Dược TP. HCM, Nhà xuất
bản Y học chi nhánh TP.HCM, tr. 153-164.
4. Phan Tôn Ngọc Vũ, Nguyễn Văn Chừng, Trần Thiện Trung
(2012), "Hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứng phối
hợp với gây mê nội khí quản trong phẫu thuật nội soi ổ bụng",Y
học TP. Hồ Chí Minh, 15 (1), 368-373.
5. Rawal N (2012), Epidural technique for postoperative pain: gold
standard no more? Reg Anesth Pain Med, 37 (3), 310-7.
6. Robert HW, Christopher WL(2007), Acute Postoperative Pain, in
Miller’s Anesthesia, Ronald D. Miller, Editor, Churchill
livingstone: USA. p. 2724-2729.
7. Wheatley RG, Schug SA, Watson D (2001), Safety and efficacy of
postoperative epidural analgesia.Br J Anaesth, 87 (1), 47-61
8. Wind J, Polle SW, et al (2006), Systematic review of enhanced
recovery programmes in colonic surgery.Br J Surg, 93 (7), 800-9.
9. Wu CL, Hurley RW, Anderson GF, et al (2004), Effect of
postoperative epidural analgesia on morbidity and mortality
following surgery in medicare patients.Reg Anesth Pain Med, 29
(6), 525-33; discussion 515-9.
Ngày nhận bài báo: 12/11/2014.
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2014.
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015.