Tác dụng của Véc-ni Shellac F trong ngăn chặn sâu răng ở trẻ 12 tuổi tại trường THCS An Lạc, quận Bình Tân Tp.HCM.

Mục tiêu: Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng của véc-ni Shellac F trong ngăn chặn sâu răng. Phương pháp: Thử nghiệm cộng đồng, ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng được thực hiện trên mẫu gồm 207 trẻ 12 tuổi sống tại vùng không bổ sung fluor trong nước trên các đối tượng là học sinh trường THCS An Lạc, quận Bình Tân Tp.HCM. Ba nhóm nghiên cứu được phân ngẫu nhiên gồm nhóm Shellac F, nhóm Duraphat® và nhóm chứng không sử dụng véc-ni. Các nhóm sử dụng véc-ni được áp dụng phác đồ bôi véc-ni ba tháng một lần. Khám đánh giá sâu răng theo tiêu chí ICDAS II được thực hiện bởi 3 người khám đã được chuẩn hóa. Kết quả: Kết quả cho thấy tình trạng sâu răng ở nhóm Shellac F và nhóm Duraphat® thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng ở các thời điểm 12, 18 và 24 tháng, tuy nhiên không có khác biệt có ý nghĩa khi chỉ xét tổn thương thành lỗ. Sau 24 tháng, nhóm Shellac F có tỷ lệ giảm sâu răng là 52% (S1) và 37% (S3), tỷ lệ này là 56% và 12% ở nhóm Duraphat®. Kết luận: Véc-ni Shellac F có hiệu quả trong ngăn chặn sâu răng ở trẻ 12 tuổi và hiệu quả này tương đương véc-ni Duraphat® sau 24 tháng.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng của Véc-ni Shellac F trong ngăn chặn sâu răng ở trẻ 12 tuổi tại trường THCS An Lạc, quận Bình Tân Tp.HCM., để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 150 TÁC DỤNG CỦA VÉC-NI SHELLAC F TRONG NGĂN CHẶN SÂU RĂNG Ở TRẺ 12 TUỔI TẠI TRƯỜNG THCS AN LẠC, QUẬN BÌNH TÂN, TP. HCM Hoàng Đạo Bảo Trâm*, Hoàng Trọng Hùng*, Ngô Uyên Châu*, Nguyễn Thị Thư*, Trần Đức Thành* TÓM TẮT Mục tiêu: Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng của véc-ni Shellac F trong ngăn chặn sâu răng. Phương pháp: Thử nghiệm cộng đồng, ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng được thực hiện trên mẫu gồm 207 trẻ 12 tuổi sống tại vùng không bổ sung fluor trong nước trên các đối tượng là học sinh trường THCS An Lạc, quận Bình Tân Tp.HCM. Ba nhóm nghiên cứu được phân ngẫu nhiên gồm nhóm Shellac F, nhóm Duraphat® và nhóm chứng không sử dụng véc-ni. Các nhóm sử dụng véc-ni được áp dụng phác đồ bôi véc-ni ba tháng một lần. Khám đánh giá sâu răng theo tiêu chí ICDAS II được thực hiện bởi 3 người khám đã được chuẩn hóa. Kết quả: Kết quả cho thấy tình trạng sâu răng ở nhóm Shellac F và nhóm Duraphat® thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng ở các thời điểm 12, 18 và 24 tháng, tuy nhiên không có khác biệt có ý nghĩa khi chỉ xét tổn thương thành lỗ. Sau 24 tháng, nhóm Shellac F có tỷ lệ giảm sâu răng là 52% (S1) và 37% (S3), tỷ lệ này là 56% và 12% ở nhóm Duraphat®. Kết luận: Véc-ni Shellac F có hiệu quả trong ngăn chặn sâu răng ở trẻ 12 tuổi và hiệu quả này tương đương véc-ni Duraphat® sau 24 tháng. Từ khóa: Véc-ni fluor, Shellac F, ngăn chặn sâu răng, ICDAS II. ABSTRACT EFFICIENCY OF SHELLAC F VARNISH IN DENTAL CARIES PREVENTION IN 12 YEARS-OLD CHILDREN AT AN LAC SCHOOL, BINH TAN DISTRICT, HCM CITY Hoang Dao Bao Tram, Hoang Trong Hung, Ngo Uyen Chau,Nguyen Thi Thu, Tran Duc Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 150 - 156 Objectives: The objective of this study was to evaluate the efficiency of Shellac F in dental caries prevention. Methods: A single-blind, randomized controlled trial was conducted at An Lac school, Binh Tan district, HCM city, on 207 children (12 years-old) living in a non-fluoridated area. Shellac F and Duraphat® were applied in the two experimental groups every 3 months and no application of fluoride varnish was done in the control group. Dental caries were evaluated every six months according to the International Caries Detection and Assessment System (ICDAS II) by 3 calibrated examiners. Results: The results showed that caries experiences in Shellac F and Duraphat® groups were significantly lower than that of the control group at 12, 18 and 24 months; however, there was no significant difference in cavitated lesions assessment. After 24 months, the percentage of caries reduction compared to the control group was 52% (S1) and 37% (S3) in the Shellac F group, 56% and 12% respectively in the Duraphat® group. * Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc: TS Hoàng Đạo Bảo Trâm ĐT:090449484, Email: hoangdaobaotram@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 151 Conclusion: The trial demonstrated that Shellac F and Duraphat® were effective in caries prevention in 12 years-old children after 24 months. Key words: Fluoride varnish, Shellac F, caries prevention, ICDAS II. ĐẶT VẤN ĐỀ Sâu răng là một bệnh phổ biến ở hầu hết cộng đồng dân cư trên thế giới. Mặc dù các biện pháp dự phòng và điều trị ở nhiều quốc gia đã được quan tâm và tình trạng bệnh có những cải thiện nhất định, song đây vẫn là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mất răng và ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của hệ thống nhai và tới chất lượng cuộc sống của cá thể và cộng đồng. Các nghiên cứu và các quan niệm mới về bệnh sâu răng đã mở ra những hướng chẩn đoán nguy cơ bệnh, dự phòng, chẩn đoán và điều trị sớm các tổn thương sâu răng, giúp đưa ra các biện pháp dự phòng và điều trị sớm và hiệu quả nhằm hạn chế các tổn thương không hồi phục và các di chứng do bệnh để lại. Tại Việt Nam, các số liệu điều tra dịch tễ học cho thấy tình trạng sâu răng ở trẻ em còn tương đối cao, ngay cả ở vùng thành thị; và tỷ lệ sâu răng được điều trị còn thấp. Theo điều tra quốc gia năm 2000, tình trạng sâu răng sữa ở trẻ 6 - 8 tuổi ở mức cao, với tỷ lệ 85%, chỉ số smtr là 5,4; smtmr là 12,98, phần lớn sâu răng không được điều trị. Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở trẻ em cũng khá cao và gia tăng theo tuổi, ở lứa tuổi 9 - 11 là 54,6% và ở lứa tuổi 15 - 17 là 68,6%. Chỉ số SMTR và SMTMR ở lứa tuổi 9 - 11 tương ứng là 1,15 và 1,74, ở lứa tuổi 15 tương ứng là 2,4 và 4,16. Tỷ lệ không được điều trị cao tương tự ở bộ răng sữa(20). Tại các tỉnh thành phía Nam, theo số liệu điều tra năm 2000, tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở lứa tuổi 12 là 66,37%, lứa tuổi 15 là 83,65%, chỉ số sâu mất trám tương ứng là 1,88 và 2,47(10). Điều tra năm 1999 tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy chỉ số SMTR ở trẻ 8 tuổi vùng nội thành là 0,68 (±1,37) và ở vùng ngoại thành là 1,19 (±1,33). Năm 2003, theo kết quả điều tra về tỷ lệ và mức độ trầm trọng của bệnh sâu răng, của Đào Thị Hồng Quân và cộng sự(3): (1) Ở vùng fluor hóa nước, tỷ lệ sâu răng là 36,4%, SMTR là 1,22 và SiC là 2,39; (2) Ở vùng không fluor hóa nước, tỷ lệ sâu răng là 72,9%, SMTR là 2,7 và SiC là 4,83. Kết quả điều tra cho thấy hiệu quả của các chương trình dự phòng sâu răng đã và đang được triển khai tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc tìm giải pháp hiệu quả và kinh tế hơn nữa, có thể phù hợp với các đối tượng cộng đồng và cá thể khác nhau, đặc biệt là trẻ sống tại vùng không fluor hóa nước và trẻ có nguy cơ sâu răng cao còn là một câu hỏi đặt ra đối với các nhà nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học. Véc-ni fluor được phát triển từ cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970, tiếp theo sau các sản phẩm chứa fluor có tác dụng tại chỗ như gel và dung dịch súc miệng có fluor, nhằm kéo dài thời gian tiếp xúc giữa men răng và fluor. Đến thập niên 1980, véc-ni fluor được sử dụng rộng rãi ở châu Âu trong các chương trình phòng bệnh cho cộng đồng và đã đưa đến kết quả giảm sâu răng có ý nghĩa tại một số nước. Với cơ chế tạo hợp chất không bền chứa fluor và dự trữ trên men răng, véc-ni fluor chỉ cần tồn tại và tiếp xúc sát với bề mặt men răng trong vài giờ, mà không bám dính vĩnh viễn trên mặt răng. Các nghiên cứu in vitro và in vivo đều kết luận rằng so với các tác nhân cung cấp fluor tại chỗ khác, véc-ni fluor có ưu điểm là an toàn và dễ sử dụng. Hơn nữa, việc sử dụng véc-ni fluor có thể được điều chỉnh để phù hợp với từng trường hợp lâm sàng, chẳng hạn như đối với trẻ có nguy cơ sâu răng cao, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Bên cạnh đó, hiệu quả kinh tế cũng là một yếu tố làm cho sử dụng véc-ni fluor có thể trở thành một biện pháp phổ biến trong dự phòng sâu răng. Shellac F là một véc-ni có fluor có thành phần nền nhựa cánh kiến thiên nhiên, với công thức chế tạo cơ bản được đưa ra vào năm 2000, dựa trên những công trình nghiên cứu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 152 và thử nghiệm do Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP HCM thực hiện, với sự hỗ trợ về phần nghiên cứu cơ bản trong chương trình hợp tác nghiên cứu với Khoa Nha - Đại học Adelaide (Nam Úc) và Khoa Hóa - Đại học Bách khoa TP HCM(5). Nhiều nghiên cứu tiếp theo đã được tiến hành nhằm cải tiến các đặc tính và đánh giá tác dụng của vật liệu, ở quy mô phòng thí nghiệm, từng bước tiến tới các thử nghiệm lâm sàng(2,4,6,11,12,13,14,16). Đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh giá tác dụng của véc-ni Shellac F trong dự phòng sâu răng và điều trị sang thương sâu răng mới chớm ở trẻ em 12 tuổi trường THCS An Lạc, Quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đối tượng nghiên cứu Thử nghiệm cộng đồng, phân nhóm ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng trên 207 trẻ 12 tuổi đang học tại trường trung học cơ sở An Lạc, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, thỏa mãn tiêu chí chọn mẫu và tiêu chí loại trừ. Các đối tượng được phân ngẫu nhiên vào 3 nhóm nghiên cứu: (1) sử dụng Shellac F, (2) sử dụng Duraphat®, (3) nhóm chứng. Vật liệu và phương tiện nghiên cứu Shellac F (Trung tâm Khoa học Công nghệ Dược Sài Gòn); Duraphat® (Colgate Oral Pharmaceuticals); Bộ đồ khám với gương khám có đèn và thám trâm đầu tròn; máy thổi hơi; Phiếu đánh giá sâu răng theo tiêu chí ICDAS II. Tiến trình nghiên cứu Tất cả các đối tượng nghiên cứu được hướng dẫn chải răng, cung cấp kem đánh răng và bàn chải 6 tháng/lần, và được mời điều trị các vấn đề răng miệng cơ bản bao gồm lấy vôi răng, trám răng, chữa tủy và nhổ răng. Bôi véc-ni theo hướng dẫn của Tổ chức sức khỏe Thế giới theo phác đồ 3 tháng/lần trong 24 tháng. Khám đánh giá tình trạng sâu răng được thực hiện vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu và mỗi 6 tháng một lần, trong 24 tháng. Học sinh được yêu cầu chải sạch răng trước khi khám. Khám phát hiện và đánh giá mức độ sâu răng trên tất cả các mặt răng theo tiêu chí ICDAS II(8), bao gồm cả tổn thương sâu răng sớm và tổn thương đã thành lỗ, sâu răng nguyên phát và sâu răng thứ phát lân cận miếng trám. Các học sinh được chụp phim cánh cắn ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu, 12 tháng và 24 tháng. Tổn thương sâu răng mặt bên ở răng cối lớn hàm trên và hàm dưới được đánh giá theo tiêu chuẩn của Hintz và cộng sự (1997) bởi một bác sỹ đã được huấn luyện và chuẩn hóa. Kiểm soát sai lệch thông tin Huấn luyện khám sâu răng theo tiêu chí ICDAS II và đánh giá độ tin cậy của ba người khám sâu răng. Chỉ số Kappa chung của ba người khám so với người huấn luyện là 0,84 (0,88 - 0,86 - 0,77). Tỷ lệ kiên định của ba người khám tương ứng là 97%, 98% và 96%. Người khám không biết đối tượng được khám thuộc nhóm thử nghiệm nào. Phương pháp thu thập dữ liệu Tình trạng của tất cả các răng, mặt răng được tổng hợp, phân tích dựa trên hai mức độ: S1: các tổn thương sớm và tổn thương thành lỗ ở men và ngà (mã số 1,2,3,4,5,6 theo ICDAS II); S3: các tổn thương liên quan đến ngà răng (mã số 4,5,6 theo ICDAS II, tương đương mức đánh giá tổn thương sâu có lỗ theo tiêu chí WHO). Các chỉ số ghi nhận tình trạng sâu răng: tỷ lệ phần trăm sâu răng, tỷ lệ phần trăm giảm sâu răng, số trung bình S1MT-R, S1MT-MR, trung bình S3MT-MR, S3MT-R, trung bình tổn thương sâu răng mới ở mức S1 và S3. Phương pháp xử lý số liệu Phân tích thống kê sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0. Thống kê mô tả (tỷ lệ phần trăm sâu răng, số trung bình S1MT-R, S3MT-R, S1MT- MR, S3MT-MR). So sánh tỷ lệ phần trăm sâu răng và chỉ số SMT giữa 3 nhóm bằng kiểm định χ2, kiểm định Kruskal Wallis, kiểm định Mann- Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 153 Whitney. Các phép kiểm được áp dụng với độ tin cậy 95%. Nghiên cứu được sự chấp thuận của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (Chứng nhận số 21/HĐĐĐ ngày 5/10/2010). KẾT QUẢ Nghiên cứu thực hiện trên 207 học sinh (HS) 12 tuổi của trường trung học cơ sở An Lạc gồm 107 học sinh nam (52%) và 100 học sinh nữ (48%), với ba nhóm: sử dụng Shellac F (65 HS), sử dụng Duraphat® (70 HS) và nhóm chứng không sử dụng véc-ni fluor (72 HS). Tình trạng sâu răng của các nhóm thử nghiệm được ghi nhận mỗi 6 tháng một lần, trong 24 tháng theo tỷ lệ sâu răng và chỉ số sâu mất trám răng và mặt răng. Tỷ lệ sâu răng Bảng 1 mô tả tỷ lệ trẻ sâu răng ở các nhóm nghiên cứu tại thời điểm ban đầu và sau 24 tháng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 3 nhóm ở các thời điểm, kể cả khi xét tình trạng sâu răng bao gồm cả các tổn thương sâu răng mới chớm (S1), hoặc chỉ xét các tổn thương thành lỗ (S3) (p>0,05; kiểm định χ2). Khi xét tình trạng sâu răng bao gồm cả các tổn thương sâu răng mới chớm, tỷ lệ sâu răng mới sau 24 tháng ở nhóm sử dụng Shellac F và Durphat® là 70,8% và 68,6%, thấp hơn so với nhóm chứng không sử dụng véc-ni fluor (75,0%), không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05; kiểm định χ2). Khi chỉ xét các tổn thương thành lỗ, tỷ lệ sâu răng mới sau 24 tháng ở nhóm sử dụng Shellac F và Durphat® là 58,5% và 61,4%, thấp hơn so với nhóm chứng không sử dụng véc-ni fluor (72,2%), không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05; kiểm định χ2). Khi so sánh tỷ lệ sâu răng ở ba nhóm, kết quả cho thấy sau 12 tháng, mức độ giảm sâu răng tương ứng ở nhóm Shellac F và Duraphat® là 69% là 62% (ở mức S1) và 29% và 11% (ở mức S3) so với nhóm chứng, ở thời điểm 24 tháng, mức độ giảm sâu răng tương ứng là 52% và 56% (ở mức S1) và 37% và 12% (ở mức S3). Bảng 1: Phân bố tỷ lệ sâu răng của ba nhóm ở thời điểm ban đầu và sau 24 tháng. S1 S3 Nhóm (n) t0 n (%) 24 tháng n (%) t0 n (%) 24 tháng n (%) Shellac F (65) 62 (95,4) 62 (95,4) 36 (55,4) 42 (64,6) Duraphat ® (70) 67 (95,7) 68 (97,1) 37 (52,9) 48 (68,6) Chứng (72) 67 (93,1) 68 (94,1) 47 (65,3) 57 (79,2) Chỉ số sâu mất trám răng (SMT-R) và sâu mất trám mặt răng (SMT-MR) Biểu đồ 1 biểu diễn sự biến thiên chỉ số sâu mất trám mặt răng (S1MT-MR) của ba nhóm thử nghiệm qua các thời điểm đánh giá. Số mặt răng sâu mất trám trung bình ở nhóm sử dụng Shellac F và Duraphat® thấp hơn so với nhóm chứng ở các thời điểm 12 tháng, 18 tháng và 24 tháng, khác biệt có ý nghĩa thống kê ở thời điểm 12 tháng (p<0,01; kiểm định Mann-Whitney). Biểu đồ 1: Diễn biến trung bình S1MT-MR của ba nhóm trong 24 tháng Biểu đồ 2 mô tả số trung bình mặt răng sâu mất trám (S3MT-MR), khi xét ở mức sâu răng thành lỗ của ba nhóm thử nghiệm tại các thời điểm nghiên cứu. Số mặt răng sâu mất trám trung bình ở nhóm sử dụng Shellac F và Duraphat® thấp hơn so với nhóm chứng ở tất cả các thời điểm, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05; kiểm định Kruskal Wallis). Khi xét mức độ gia tăng chỉ số sâu mất trám răng và mặt răng, bao gồm cả các tổn thương mới chớm, kết quả cho thấy cả hai nhóm Shellac Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 154 F và Duraphat® có mức độ gia tăng chỉ số sâu mất trám răng và mặt răng thấp hơn so với nhóm chứng, khác biệt có ý nghĩa ở thời điểm 12 tháng và 24 tháng (p<0,05; kiểm định Mann- Whitney). Không có khác biệt có ý nghĩa về mức độ gia tăng chỉ số sâu mất trám răng và mặt răng khi chỉ xét tổn thương thành lỗ (p>0,05; kiểm định Kruskal Wallis). Biểu đồ 2: Diễn biến trung bình S3MT-MR của ba nhóm trong 24 tháng. Khi xét số cá thể có tối thiểu 3; 6 hay 9 măt răng sâu mới, tỷ lệ học sinh có tối thiểu 3; 6 hay 9 mặt răng sâu mất trám mới ở hai nhóm sử dụng véc-ni thấp hơn nhóm chứng ở tất cả các thời điểm đánh giá từ 12 tháng, khác biệt có ý nghĩa ở thời điểm 12 tháng và 24 tháng (p<0,01; kiểm định χ2) (bảng 2). Bảng 2. Phân bố theo mức độ gia tăng ∆S1MT-MR của ba nhóm ở thời điểm 12 tháng và 24 tháng. ∆S1MT-MR Nhóm (n) 12 tháng n (%) 24 tháng n (%) ≥3 MR Shellac F (65) 22 (33,8) 27 (41,5) Duraphat ® (70) 32 (45,7) 30 (42,9) Chứng (72) 54 (75,0) 43 (59,7) p <0,001 0,056 ≥6 MR Shellac F (65) 16 (24,6) 13 (20,0) Duraphat ® (70) 16 (22,9) 16 (22,9) Chứng (72) 47 (65,3) 30 (41,7) p <0,001 <0,009 ≥9 MR Shellac F (65) 13 (20,0) 9 (13,8) Duraphat ® (70) 12 (17,1) 7 (10,0 Chứng (72) 30 (41,7) 21 (29,2) p 0,001 <0,007 Khi đánh giá tổn thương sâu răng mặt bên trên các răng cối lớn hàm trên và hàm dưới trên phim cánh cắn, không có sự khác biệt về tỷ lệ sâu răng mặt bên giữa các nhóm. Kết quả nghiên cứu sau 24 tháng cho thấy tình trạng sâu răng ở hai nhóm sử dụng véc-ni fluor ít trầm trọng hơn so với nhóm chứng không sử dụng véc-ni, đặc biệt ở mức đánh giá bao gồm cả tổn thương sâu răng đã thành lỗ và các tổn thương sâu răng mới chớm, theo tiêu chí ICDAS II. BÀN LUẬN Nghiên cứu theo dõi tác dụng của véc-ni Shellac F trong ngăn chặn sâu răng ở trẻ 12 tuổi, áp dụng phác đồ bôi véc-ni ba tháng một lần trên hai nhóm thử nghiệm can thiệp, so sánh với nhóm chứng không sử dụng véc-ni, theo dõi trong 24 tháng. Tình trạng sâu răng bao gồm cả các tổn thương sâu răng mới chớm Kết quả đánh giá sâu răng toàn bộ theo tiêu chí ICDAS II sau 24 tháng, tỷ lệ sâu răng tương ứng ở ba nhóm Shellac F, Duraphat® và nhóm chứng là 95,4%, 97,1% và 94,4%, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (bảng 1). Tỷ lệ sâu răng mới của hai nhóm sử dụng véc-ni thấp hơn so với nhóm chứng ở tất cả các thời điểm 12 tháng, 18 tháng và 24 tháng, khác biệt có ý nghĩa ở 12 tháng. So với nhóm chứng, tỷ lệ giảm sâu răng của nhóm Shellac F và nhóm Duraphat® lần lượt là 69% và 62% ở 12 tháng, và 52% và 56% ở 24 tháng. Khi xét chỉ số sâu mất trám răng, cả hai nhóm sử dụng véc-ni đều có số răng sâu mất trám trung bình thấp hơn so với nhóm chứng ở các thời điểm đánh giá từ 12 tháng, khác biệt có ý nghĩa tại thời điểm 12 tháng và 24 tháng. Mức độ gia tăng chỉ số sâu mất trám răng (∆S1MT-R) của hai nhóm Shellac F và Duraphat® đều thấp hơn nhóm chứng từ thời điểm 12 tháng, khác biệt có ý nghĩa ở 12 tháng và 24 tháng. Chỉ số sâu mất trám mặt răng của hai nhóm sử dụng véc-ni cũng thấp hơn so với nhóm chứng, khác biệt có ý nghĩa ở thời điểm 12 tháng (biểu đồ 1). Mức độ gia tăng chỉ số sâu mất trám mặt răng (∆S1MT- MR) của hai nhóm Shellac F và Duraphat® cũng thấp hơn nhóm chứng từ thời điểm 12 tháng, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 155 khác biệt có ý nghĩa ở 12 tháng và 24 tháng. Khi xét số cá thể có tối thiểu 3; 6 hay 9 măt răng sâu mới, tỷ lệ học sinh có tối thiểu 3; 6 hay 9 mặt răng sâu mất trám mới ở hai nhóm sử dụng véc- ni thấp hơn nhóm chứng ở tất cả các thời điểm đánh giá từ 12 tháng, khác biệt có ý nghĩa ở thời điểm 12 tháng và 24 tháng (p<0,01; kiểm định χ2) (bảng 2). Như vậy, kết quả đánh giá tình trạng sâu răng ở mức S1 theo tiêu chí ICDAS II cho thấy cả véc-ni Shellac F và véc-ni Duraphat® đều có hiệu quả ngăn ngừa sâu răng tốt sau 24 tháng. Kết quả nghiên cứu ủng hộ cơ chế tác dụng của véc- ni fluor trong việc ngăn ngừa sự mất khoáng, thúc đẩy quá trình tái khoáng, làm tăng sức đề kháng với acid của mô khoáng hóa của răng, đặc biệt đối với các răng mới mọc và các tổn thương sâu răng mới chớm. Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của Arruda, đánh giá tác dụng của véc-ni Cavity Shield® NaF 5% trên răng vĩnh viễn của 210 trẻ 6 đến 14 tuổi, sống tại vùng có nguồn nước sinh hoạt không bổ sung fluor, có nguy cơ sâu răng cao, áp dụng tiêu chí ICDAS II, tỷ lệ giảm sâu răng sau 24 tháng đạt được ở hai nhóm sử dụng véc-ni trong nghiên cứu này đều ở mức cao hơn so với tỷ lệ 49% (nhóm được bôi véc-ni 2 lần) và 31% (nhóm chỉ bôi véc-ni 1 lần) trong nghiên cứu của Arruda(1). Bên cạnh yếu tố về đặc tính của vật liệu, tần suất sử dụng véc-ni là một yếu tố có ý nghĩa đối với hiệu quả của việc sử dụng các vật liệu fluor tại chỗ vì việc lặp lại bôi véc-ni fluor không những gia tăng lượng fluor lưu lại lâu dài trên bề mặt men răng mà còn gia tăng lượng ion fluor kết hợp trong các cấu trúc tinh thể của men răng(15). Tình trạng sâu răng ở mức tổn thương thành lỗ Kết quả khám lâm sàng ở thời điểm bắt đầu thử nghiệm cho thấy tỷ lệ trung bình trẻ có sâu răng thành lỗ là 55%, không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ trẻ sâu răng giữa ba nhóm (p>0,05). Tỷ lệ này tương tự với kết quả nghiên cứu của Trần Bích Vân và cộng sự năm 2008 là 57,7%(7), và thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Trần Đức Thành và cộng sự năm 2009, thực hiện tại cùng địa điểm nghiên cứu là 79%(19). Sau 24 tháng, tỷ lệ sâu răng ở các nhóm sử dụng Shellac F, Duraphat® và nhóm chứng là
Tài liệu liên quan