Mục đích: Đánh giá hiệu quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản lưng bằng Laser Sphinx. Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011, tại bệnh viện Thủ Đức, tất cả bệnh nhân với chẩn đoán sỏi niệu quản đoạn lưng được tán sỏi nội soi ngược dòng bằng Laser Sphinx. Kết quả: 131 bệnh nhân sỏi niệu quản lưng được điều trị từ tháng 5/2010 đến tháng 5/2011, trong đó 76 bệnh nhân nam, 55 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 42,3 tuổi. Kích thước trung bình của sỏi là 10,9 mm, lớn nhất là 34mm, nhỏ nhất là 4mm. Vị trí của sỏi phân bố như sau L2-3: 27 bệnh nhân (20,6%), L3-4: 78 bệnh nhân (59,5%), L4-5: 26 bệnh nhân (19,8%). 117 bệnh nhân được điều trị sạch sỏi, chiếm tỉ lệ 89,3%, 10 bệnh nhân sỏi di chuyển lên thận chiếm 7,6%, 4 bệnh nhân không tiếp cận được sỏi và không thể đặt JJ được chuyển phương pháp phẫu thuật sang lấy sỏi qua nội soi sau phúc mạc chiếm 3,1%. Trong những bệnh nhân thành công, 92 trường hợp tiểu máu sau tán sỏi (78,6%), thời gian tiểu máu hậu phẫu trung bình là 2,6 ngày, 4 trường hợp nhiễm khuẩn tiểu trên sau tán sỏi (3,4%). Thời gian tán sỏi trung bình là 31,6 phút. Số ngày nằm viện trung bình là 3,13 ngày, thấp nhất là 1 ngày và dài nhất là 13 ngày. Kết luận: Tán sỏi nội soi sỏi niệu quản lưng bằng Laser Sphinx là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của nội soi tán sỏi bằng Laser Sphinx trong điều trị sỏi niệu quản đoạn lưng tại Bệnh viện quận Thủ Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 230
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA NỘI SOI TÁN SỎI BẰNG LASER SPHINX
TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN ĐOẠN LƯNG
TẠI BỆNH VIỆN QUẬN THỦ ĐỨC
Lương Minh Tùng*, Trần Thế Vinh*, Trần Thượng Phong*
TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá hiệu quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản lưng bằng Laser Sphinx.
Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011, tại bệnh viện Thủ Đức, tất cả
bệnh nhân với chẩn đoán sỏi niệu quản đoạn lưng được tán sỏi nội soi ngược dòng bằng Laser Sphinx.
Kết quả: 131 bệnh nhân sỏi niệu quản lưng được điều trị từ tháng 5/2010 đến tháng 5/2011, trong đó 76
bệnh nhân nam, 55 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 42,3 tuổi. Kích thước trung bình của sỏi là 10,9 mm, lớn
nhất là 34mm, nhỏ nhất là 4mm. Vị trí của sỏi phân bố như sau L2-3: 27 bệnh nhân (20,6%), L3-4: 78 bệnh nhân
(59,5%), L4-5: 26 bệnh nhân (19,8%). 117 bệnh nhân được điều trị sạch sỏi, chiếm tỉ lệ 89,3%, 10 bệnh nhân sỏi
di chuyển lên thận chiếm 7,6%, 4 bệnh nhân không tiếp cận được sỏi và không thể đặt JJ được chuyển phương
pháp phẫu thuật sang lấy sỏi qua nội soi sau phúc mạc chiếm 3,1%. Trong những bệnh nhân thành công, 92
trường hợp tiểu máu sau tán sỏi (78,6%), thời gian tiểu máu hậu phẫu trung bình là 2,6 ngày, 4 trường hợp
nhiễm khuẩn tiểu trên sau tán sỏi (3,4%). Thời gian tán sỏi trung bình là 31,6 phút. Số ngày nằm viện trung
bình là 3,13 ngày, thấp nhất là 1 ngày và dài nhất là 13 ngày.
Kết luận: Tán sỏi nội soi sỏi niệu quản lưng bằng Laser Sphinx là một phương pháp điều trị an toàn
và hiệu quả.
Từ khoá: Sỏi niệu quản lưng, nội soi ngược dòng, tán sỏi Laser.
ABSTRACT
RESULT OF ENDOSCOPIC LASER LITHOTRIPSY ON PROXIMAL URETERAL CALCULI OF THU
DUC HOSPITAL
Luong Minh Tung, Tran Thuong Phong, Tran The Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2012: 229 – 233
Objective: We report our experience with the use of Laser Sphinx endoscopic lithotripsy in management of
proximal ureteral calculi. Our study was conducted in Thu Duc hospital.
Methods: From May 2010 to May 2011, 131 patients with proximal ureteral calculi were treated by Sphinx
Laser endoscopic lithotripsy. In which, 76 males and 55 females, the mean age was 42.3 years old.
Results: 117/131 patients having ureteral calculi were fragmented successfully (89.3%). Mean operating
time and mean length of post-op stay was 31.6 minutes and 3.13 days.
Conclusion: Laser ureteroscopic lithotripsy is safe and effective.
Keywords: proximal ureteral calculi, ureteroscopy, Laser ureteroscopic lithotripsy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi niệu quản (SNQ) chiếm khoảng 28‐30%
sỏi tiết niệu, trong đó khoảng ½ là SNQ đoạn
lưng(2,4). Điều trị SNQ đoạn lưng có nhiều
Bệnh viện Thủ Đức
Tác giả liên lạc: BS. Lương Minh Tùng ĐT: 0902802068 Email: lmtung11@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 231
phương pháp: tán sỏi ngoài cơ thể, nội soi tán
sỏi ngược dòng, nội soi sau phúc mạc lấy sỏi,
mổ mở tùy theo từng trường hợp cụ thể và
trang thiết bị hiện có mà chúng ta lựa chọn
phương pháp điều trị thích hợp. Tuy nhiên, xét
về mặt hiệu quả và mức độ xâm lấn, đối với sỏi
niệu quản đoạn lưng, nếu có thể tiếp cận được
sỏi thì tỉ lệ thành công của tán sỏi nội soi cao
hơn so với tán sỏi ngoài cơ thể và ít xâm lấn hơn
so với các phương pháp phẫu thuật khác.
Việc ứng dụng nguồn năng lượng Laser
trong tán sỏi đã được thực hiện từ lâu. Hiện nay,
với công nghệ tiên tiến và hiện đại đã tạo ra các
loại máy tán sỏi Laser có công suất cao nhưng
vẫn đảm bảo tính an toàn. Với nguồn năng
lượng có thể tán vỡ tất cả các loại sỏi đường
niệu như trên thì việc tiếp cận được sỏi đồng
nghĩa với sự thành công của phẫu thuật. Nghiên
cứu này nhằm đánh giá hiệu quả điều trị sỏi
niệu quản đoạn lưng bằng nguồn năng lượng
Laser Sphinx Holmium YAG.
Mục tiêu nghiên cứu
Hiệu quả điều trị sỏi niệu quản đoạn lưng
bằng tán sỏi nội soi Laser.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán sỏi
niệu quản đoạn lưng từ tháng 5/2010 đến tháng
5/2011 tại bệnh viện Thủ Đức.
Tiêu chuẩn loại trừ
Có chống chỉ định của tán sỏi nội soi ngược
dòng như nhiễm khuẩn niệu đang diễn tiến, rối
loạn đông máu
Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán bằng triệu
chứng lâm sàng, siêu âm bụng, chụp KUB, chụp
UIV hoặc CT scan bụng chậu.
Phương tiện
Máy soi niệu quản bán cứng 10.5Fr của hãng
Karl Storz, nguồn sáng, dây dẫn sáng, rọ bắt sỏi,
guide wire, máy tán sỏi Laser Sphinx 2010, ống
thông niệu quản và ống thông JJ 6‐7 Fr.
Thao tác
Sau khi được vô cảm bằng tê tủy sống hoặc
mê nội khí quản, đặt máy soi niệu quản vào
bàng quang, đưa máy soi lên niệu quản theo
guide wire tới tiếp cận sỏi và tán sỏi vỡ vụn
bằng Laser, lấy sạch sỏi vụn bằng rọ bắt sỏi.
Nếu sỏi vỡ văng lên bể thận chúng tôi tiến hành
đưa máy lên bể thận để bắt sỏi bằng rọ và tiếp
tục tán vỡ sỏi nếu được, nếu không thể soi lên
bể thận, chúng tôi đặt thông JJ và tái khám sau 1
tháng, nếu sỏi sót lại > 6mm nằm trong các đài
thận chúng tôi sẽ tán sỏi ngoài cơ thể bổ sung.
Nếu không thể tiếp cận được sỏi chúng tôi sẽ
định vị sỏi dưới C‐arm và thuốc cản quang, nếu
không thể tiếp cận được chúng tôi sẽ chuyển
phẫu thuật nội soi hông lưng để lấy sỏi.
Sau khi tán sỏi, tùy theo tình trạng niêm mạc
của niệu quản, đặt thông niệu quản hoặc đặt
thông JJ, nếu bề mặt niêm mạc niệu quản tốt, có
thể không cần đặt ống dẫn lưu(3).
Sau mổ, bệnh nhân được theo dõi tình trạng
tiểu máu, sốt hậu phẫu, sử dụng kháng sinh,
kháng viêm, giảm đau. Thông niệu quản được
rút sau 2‐4 ngày hậu phẫu.
Đánh giá lại sau 1 tháng bằng siêu âm và
KUB để khảo sát mức độ sạch sỏi và rút thông
JJ.
Tiêu chuẩn đánh giá tán sỏi thành công
Tán sạch sỏi hoặc vụn sỏi văng lên thận <
5mm (khảo sát trên KUB sau 1 tháng tái khám).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một số đặc điểm lâm sàng của dân số
nghiên cứu
Tuổi của bệnh nhân từ 21 đến 82 (trung bình
là 42,3 ± 13,2 tuổi), gồm 76 nam và 55 nữ.
Lý do nhập viện
98,5% đau hông lưng, 0,8% tiểu máu, 0,8%
tiểu gắt buốt.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 232
Tiền căn phẫu thuật tiết niệu
126 ca không có tiền căn phẫu thuật niệu
khoa trước đó, 2 ca nội soi lấy sỏi, 1 ca tiền căn
tán sỏi ngoài cơ thể cùng bên.
Thời gian bắt đầu có triệu chứng đến lúc
nhập viện: từ 1 ngày đến trên 1 năm.
Đặc điểm nước tiểu trước khi tán sỏi (dựa
trên tổng phân tích nước tiểu):
Đặc điểm N = 131 %
Máu (+) 56 42,7
Bạch cầu (+) 7 5,3
Hồng cầu + bạch cầu 13 9,9
Không có 55 42
Kích thước của sỏi (đường kính lớn nhất của
sỏi): 4 mm – 34 mm (trung bình 10,9 mm).
Phân bố vị trí của sỏi
Sỏi niệu quản đoạn lưng Tổng cộng
Vị trí Phải Trái Trái + phải
L2-3 12 13 2 27(20,6%)
L3-4 33 41 4 78(59,5%)
L4-5 14 12 0 26(19,8%)
Tổng cộng 59 66 6 131
Số lượng sỏi niệu quản đoạn lưng trên 1 bệnh
nhân
Số lượng sỏi N=131 %
1 viên 126 96,2
2 viên 5 3,8
Mức độ ứ nước của thận
Chúng tôi chỉ tính đến độ ứ nước của thận
có sỏi niệu quản đoạn lưng: 42,5% thận ứ nước
độ 1, 35,1% thận ứ nước độ 2, 11,9% thận ứ nước
độ 3, 10,5% thận không ứ nước.
Kết quả tán sỏi
Tỷ lệ thành công: trong 131 trường hợp, 117
trường hợp (89,3%) thành công khi nội soi tán
sỏi bằng Laser, 10 trường hợp (7,6%) sỏi văng
lên thận trong lúc tán sỏi cần phải tán sỏi ngoài
cơ thể bổ sung, 4 trường hợp (3,1%) không tiếp
cận được sỏi do niệu quản gập góc không thể
đưa guildwire lên được để làm thẳng niệu quản,
1 trường hợp sỏi ở vị trí L2‐3 và 3 trường hợp
sỏi ở vị trí L3‐4.
Thời gian tán sỏi từ 10 đến 90 phút (trung
bình 31,6 phút)
Tình trạng nước tiểu trong lúc tán: 115
trường hợp (98,3%) nước tiểu trong, 2 trường
hợp (1,7%) nước tiểu đục.
Tình trạng niệu quản sau tán
Tình trạng niệu quản sau tán N=117 %
Chảy máu niêm mạc 68 58,1
Sung huyết niêm mạc 19 16,2
Niêm mạc trơn láng 30 25,6
Đặt JJ sau tán: 111 ca (94,8%), 4 ca đặt thông
niệu quản (3,6%), 2 ca không đặt thông (1,8%).
Biến chứng sau tán sỏi
Tỉ lệ tiểu máu sau tán sỏi: 92 trường hợp
(78,6%), thời gian tiểu máu sau tán sỏi từ 1 đến 6
ngày (trung bình là 2,6 ngày).
Tỉ lệ sốt sau tán sỏi: 4 trường hợp (3,4%),
thời gian sốt sau tán sỏi từ 1 đến 6 ngày (trung
bình là 2 ngày).
Số ngày nằm viện hậu phẫu từ 1 đến 13
ngày (trung bình là 3,13 ngày).
BÀN LUẬN
Sự cải tiến đáng kể trong công nghệ chế tạo
ống kính và máy soi đã cho ra đời những thế hệ
máy soi niệu quản bán cứng có thể giúp soi lên
tới bể thận với độ bền cao hơn và chi phí thấp
hơn so với máy soi mềm. Sự cải thiện này giúp
cho phẫu thuật viên mạnh dạn hơn trong việc
chỉ định điều trị các loại sỏi niệu quản đoạn
lưng với kích thước lớn thay vì nội soi hông
lưng để lấy sỏi như xu thế hiện nay ở các bệnh
viện. Sự hỗ trợ của nguồn năng lượng đủ mạnh
để có thể tán vỡ tất cả các loại sỏi là một điều
kiện cần trong phương pháp này và máy Laser
Sphinx Holmium YAG là nhân tố để đáp ứng
điều kiện cần đó.
Trong số 131 ca được chỉ định, có 4 ca không
thể tiếp cận được sỏi nên không thể tán sỏi, còn
lại 127 ca tiếp cận được sỏi và có thể tán vỡ được
sỏi, 117 ca được tán sạch sỏi hoàn toàn, 10 ca
còn lại phải tán bổ sung ngoài cơ thể sau đó vì
còn mảnh sỏi lớn di chuyển lên thận.
Kích thước sỏi thường là 1 yếu tố trước
đây được sử dụng để chỉ định phương pháp
phẫu thuật mổ mở hoặc nội soi sau phúc mạc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 233
lấy sỏi vì e ngại thời gian phẫu thuật lâu và
khả năng tán sạch sỏi. Tuy nhiên, với nguồn
năng lượng Laser trên thì kích thước sỏi
không còn là một nhân tố quyết định thành
công trong nội soi tán sỏi. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, kích thước sỏi trung bình là
10,9mm, nhỏ nhất là 4 mm và lớn nhất là
34mm với thời gian tán sỏi lâu nhất là 90
phút. Điều này cho thấy tỉ lệ làm sạch sỏi của
nguồn năng lượng Laser Sphinx Holmium
YAG là rất cao ngay cả với những sỏi lớn.
Trong thực tế tại bệnh viện của chúng tôi đã
thực hiện tán sỏi bằng laser cho phần lớn
bệnh nhân có sỏi bàng quang thay vì mổ mở
hoặc bóp sỏi qua nội soi, với tỉ lệ thành công
là 100% và biến chúng sau mổ như tiểu máu,
thủng bàng quang là 0%, sỏi lớn nhất chúng
tôi từng tán qua nội soi có kích thước 5cm với
thời gian tán sỏi là 105 phút.
Độ cứng của sỏi cũng là 1 yếu tố quyết
định thành công của phẫu thuật đối với các
nguồn năng lượng như xung hơi hoặc siêu
âm Tuy nhiên, đối với máy Sphinx, qua thử
nghiệm, nguồn năng lượng này có thể xuyên
phá ngay cả một số mảnh kim loại cho nên
yếu tố này cũng không còn là một rào cản
ngăn chúng ta mạnh dạn hơn với tán sỏi nội
soi. Đây là một điểm mạnh tuy nhiên cũng là
nguyên nhân làm hỏng rọ bắt sỏi nhiều nhất
nên phẫu thuật viên cần thận trọng tránh tán
trực tiếp vào dây rọ để không làm tăng chi
phí điều trị cho bệnh nhân.
Xét về độ an toàn, tuy có sức công phá
lớn, máy Sphinx có nhiều chế độ điều chỉnh
để hạn chế mức độ tổn thương niêm mạc niệu
quản, hoặc khi cần có thể xẻ niệu quản hẹp
ngay tức thời hoặc đốt polyp che phủ bề mặt
viên sỏi.
Trong nghiên cứu, tỉ lệ tiểu máu sau tán
sỏi là 78,6% kéo dài trung bình 2,6 ngày,
không có trường hợp nào phải truyền máu.
Không có trường hợp nào bị đứt niệu quản
cần phải nối lại.
So sánh với các nghiên cứu khác(1,5,,6,7,8)
Đơn vị/Tác giả Thời
gian
Số ca Vị trí sỏi Tỉ lệ thành
công
BV Bình Dân 1998 129 Chậu 76
BV Bưu Điện 1 2004 1519 Chậu 88
Nguyễn Minh Quang 2004 204 Chậu 95
Vũ Lê Chuyên 2006 49 Lưng 85
Nguyễn Thành Đức 2008 198 Chậu 95
Trần Văn Hinh 2008 34 Lưng 85
Vũ Hồng Thịnh 2009 24 Lưng 83
Chúng tôi 2010 131 Lưng 89
Tỉ lệ thành công của chúng tôi cũng tương
tự với các tác giả khác, so với các nghiên cứu
trên sỏi niệu quản chậu thì tỉ lệ thành công thấp
hơn, tuy nhiên so với các nghiên cứu trên sỏi
niệu quản lưng thì tỉ lệ thành công cao hơn.
Tỉ lệ mảnh sỏi lớn văng lên thận khi đã tiếp
cận được sỏi là 8,5%, các trường hợp này
thường do sỏi nằm ở đoạn cao kèm theo bể thận
ứ nước nhiều, khi mảnh sỏi đã rơi vào trong bể
thận hoặc đài dưới của thận thì hầu như không
thể bắt lại được sỏi. Máy nội soi mềm để bắt lại
sỏi là một giải pháp để tán sạch sỏi, tuy nhiên
giá thành cao và độ bền của máy thấp là một rào
cản hiện nay.
Tỉ lệ sốt sau tán sỏi là 3,4%, 4 trường hợp
này đều được cho kháng sinh phổ rộng điều trị
và cấy máu cấy nước tiểu, không có trường hợp
nào shock nhiễm khuẩn huyết, thời gian sốt dài
nhất là 6 ngày.
Số ngày nằm viện trung bình là 3,13 ngày,
tương đồng với các nghiên cứu khác. Chúng tôi
chủ động đặt JJ cho tất cả các trường hợp có trầy
xước niêm mạc niệu quản trong lúc tán 94,8%
nhằm làm giảm số ngày nằm viện. Tuy nhiên,
Bệnh viện Thủ Đức là một bệnh viện quận, ban
đầu chủ yếu điều trị cho bệnh nhân tại địa
phương nên người bệnh không gấp ra viện sớm,
phần lớn bệnh nhân được xuất viện sau khi
nước tiểu trong hoàn toàn nên số ngày hậu
phẫu không có sự rút ngắn đáng kể so với các
nghiên cứu khác.
KẾT LUẬN
Điều trị sỏi niệu quản lưng bằng nội soi tán
sỏi ngược dòng với nguồn năng lượng Laser
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 234
cho tỉ lệ thành công khá cao, tỉ lệ tai biến biến
chứng thấp, số ngày nằm viện thấp.
Laser Sphinx Holmium YAG là nguồn
năng lượng tốt, có thể tán vỡ mọi loại sỏi
không phụ thuộc kích thước và độ cứng, có
khả năng đốt polyp che phủ bề mặt sỏi và
thậm chí xẻ niệu quản hẹp ngay tại chỗ. Đối
với các trường hợp có thể tiếp cận được sỏi,
hầu như có thể tán sạch sỏi. Kết hợp giữa tán
sỏi nội soi bằng Laser và tán sỏi ngoài cơ thể
là một bộ đôi hoàn hảo có thể điều trị sạch sỏi
cho bệnh nhân mà người bệnh không phải
chịu bất cứ một vết mổ nào trên cơ thể, đây có
thể là một phương thức điều trị ít xâm lấn
nhất đang được sử dụng hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn Trung, Lê Ngọc Từ, Nguyễn Bửu Triều (2004). Kết
quả tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng cho 1519 bệnh nhân
tại bệnh viện Bưu Điện Hà Nội. Tạp chí Y học Thực Hành: 601‐
604.
2. Hội tiết niệu ‐ Thận học Việt nam (2003).. Nội soi tiết niệu. Nhà
xuất bản Y học
3. Nabi G, Cook J, N'Dow J, McClinton S (2007). Outcomes of
stenting after uncomplicated ureteroscopy: systematic review
and meta‐analysis. BMJ. 2007 Mar 17;334(7593):572.
4. Stoler ML (2004). Urinary stone disease in Smith’s General
Urology 16th ed, Mc Graw‐ Hill Company: 280.
5. Trần Văn Hinh, Nguyễn Phú Việt, Đỗ Ngọc Thể (2008). Kết quả
bước đầu điều trị sỏi niệu quản đoạn gần bằng tán sỏi nội soi
ngược dòng trên máy Electrokinetic Lithotriptor. Y Học Tp. Hồ
Chí Minh, tập 12, phụ bản số 4: 103‐106.
6. Vũ Hồng Thịnh và cs (2005). Tán sỏi niệu quản dưới qua nội soi
tại bệnh viện Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. Y Học Tp. Hồ
Chí Minh, tập 9, phụ bản số 1: 111‐114.
7. Vũ Lê Chuyên và cs (2006). Nội soi niệu ngược dòng tán sỏi
bằng xung hơi sỏi niệu quản lưng. Tạp chí Y học Việt Nam
tháng 2/2006: 254‐261.
8. Vũ Lê Chuyên, Vũ Văn Ty, Nguyễn Minh Quang, Đỗ Anh Toàn
(2006). Nội soi ngược dòng tán sỏi bằng xung hơi sỏi niệu quản
lưng: kết quả từ 49 trường hợp sỏi niệu quản đoạn lưng được
tán sỏi nội soi ngược dòng tại khoa niệu bệnh viện Bình Dân. Y
học Việt Nam, tập 319: 254‐261.