Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn của gây tê tủy sống (GTTS) với 11 mg levobupivacain đẳng
trọng kết hợp sufentanil trong phẫu thuật vùng chi dưới.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả dọc. 145 bệnh nhân GTTS với levobupivacain kết hợp sufentanil
trong phẫu thuật chi dưới. Bệnh nhân được xác định: thời gian phong bế cảm giác, thời gian kéo dài phong bế
cảm giác, mức phong bế cảm giác cao nhất, thời gian kéo dài phong bế vận động, mức phong bế vận động. Các tác
dụng phụ như: nhịp tim chậm, tụt huyết áp, giảm Oxy máu, lạnh run, nôn buồn nôn cũng được ghi nhận.
Kết quả: GTTS với 11mg levobupivacain 0,5% đẳng trọng kết hợp 3 mcg sufentanil có thời gian phong
bế cảm giác 5,7 ± 2,2 phút, thời gian kéo dài phong bế cảm giác 250,5 ± 56,3 phút, mức phong bế cảm giác
cao nhất T8(T6–T10), thời gian kéo dài phong bế vận động 135,6 ± 42,8 phút, tỉ lệ tụt huyết áp 11,7%, nôn
buồn nôn 4,8%.
Kết luận: Liều 11 mg levobupivacain 0,5% đẳng trọng kết hợp 3 mcg sufentanil đảm bảo hiệu quả và an
toàn trong GTTS phẫu thuật vùng chi dưới.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả gây tê tủy sống bằng Levobupivacaine kết hợp Sufentanil trong phẫu thuật chi dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 436
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG LEVOBUPIVACAINE
KẾT HỢP SUFENTANIL TRONG PHẪU THUẬT CHI DƯỚI
Giả Văn Hưng*, Nguyễn Ngọc Anh**, Lê Hữu Bình***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn của gây tê tủy sống (GTTS) với 11 mg levobupivacain đẳng
trọng kết hợp sufentanil trong phẫu thuật vùng chi dưới.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả dọc. 145 bệnh nhân GTTS với levobupivacain kết hợp sufentanil
trong phẫu thuật chi dưới. Bệnh nhân được xác định: thời gian phong bế cảm giác, thời gian kéo dài phong bế
cảm giác, mức phong bế cảm giác cao nhất, thời gian kéo dài phong bế vận động, mức phong bế vận động. Các tác
dụng phụ như: nhịp tim chậm, tụt huyết áp, giảm Oxy máu, lạnh run, nôn buồn nôn cũng được ghi nhận.
Kết quả: GTTS với 11mg levobupivacain 0,5% đẳng trọng kết hợp 3 mcg sufentanil có thời gian phong
bế cảm giác 5,7 ± 2,2 phút, thời gian kéo dài phong bế cảm giác 250,5 ± 56,3 phút, mức phong bế cảm giác
cao nhất T8(T6–T10), thời gian kéo dài phong bế vận động 135,6 ± 42,8 phút, tỉ lệ tụt huyết áp 11,7%, nôn
buồn nôn 4,8%.
Kết luận: Liều 11 mg levobupivacain 0,5% đẳng trọng kết hợp 3 mcg sufentanil đảm bảo hiệu quả và an
toàn trong GTTS phẫu thuật vùng chi dưới.
Từ khóa: Gây tê tủy sống, phẫu thuật chi dưới, levobupivacain, sufentanil.
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF SPINAL ANESTHESIA WITH LEVOBUPIVACAINE PLUS SUFENTANIL
FOR LOWER LIMB SURGERY
Gia Van Hung, Nguyen Ngoc Anh, Le Huu Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 436 - 441
Objectives: To evaluate the effect and safety of spinal anesthesia with 11mg 0,5% isobaric levobupivacain
added 3 mcg sufentanil for lower limb surgery.
Methods: In this prostective study. 145 patients undergoing lower limb surgery spinal anesthesia with
levobupivacain added to sufentanil. The onset and duration of sensory block, maximum upper spread of sensory
block; onset intensity and duration of motor block any adverse effects suck as bradycardia, hypotension, hypoxia,
tremor nausea and/ or vomiting were recorded.
Result: spinal anesthesia with 11mg 0.5% isobaric levobupivacain plus 3 mcg sufentanil had onset of
sensory block 5.7 ± 2.2 min, duration of sensory block 250.5 ± 56.3 min, maximum upper spread of sensory block
T8(T6–T10), duration of motor block 135.6 ± 42.8 min, hypotension 11.7%, nausea-vomiting 4.8%.
Conclusion:Dose 11mg 0.5% isobaric levobupivacain added 3 mcg sufentanil for lower limb surgery. It is
safe for patient and anesthesiologits.
Keywords: Spinal anesthesia, lower limb surgery, levobupivacain, sufentanyl.
* Bệnh viện ĐKKV Cần Giuộc ** BV Nhân Dân 115
*** BM GMHS, ĐH Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BSCKII. Giả Văn Hưng, ĐT: 01217620017, Email: bsgiavanhung@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 437
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây tê tủy sống (GTTS) đoạn thắt lưng là
phương pháp gây tê vùng với một lượng nhỏ
thuốc tê vào tủy sống mục đích làm mất cảm
giác vùng từ rốn trở xuống, thuốc tê sẽ được hòa
lẫn vào dịch não tủy (DNT) ngấm trực tiếp vào
các tổ chức thần kinh, cắt đứt tạm thời đường
dẫn truyền hướng tâm, ly tâm và thần kinh thực
vật ở ngang đốt tủy mà nó tác động(4,5).
Ưu điểm GTTS là kĩ thuật đơn giản, giá
thành rẻ, dễ thực hiện. Ngoài ra GTTS ít gây tác
dụng phụ trên hệ hô hấp, bệnh nhân tự thở,
giảm nguy cơ hít sặc hay những biến chứng do
đường thở khó. GTTS còn làm dãn cơ tốt cho các
phẫu thuật vùng bụng dưới và chi dưới. Sớm
phục hồi nhu động ruột, giảm nguy cơ thuyên
tắc tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi(5,8,10).
Sự phối hợp giữa levobupivacain với một
thuốc thuộc nhóm morphin như sufentanil trong
GTTS, giúp rút ngắn thời gian khởi tê, kéo dài
thời gian tê và giảm đau trong và sau phẫu
thuật, ngoài ra còn có tác dụng giảm liều thuốc
tê, hạn chế tác dụng phụ(6,9,10). Ở Việt Nam chưa
có nhiều nghiên cứu phối hợp levobupivacain và
sufentanil trong gây GTTS, nhất là trong phẫu
thuật chi dưới. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả gây tê tủy
sống bằng levobupivacain kết hợp sufentanil trong
phẫu thuật chi dưới”.
Mục tiêu
Đánh giá hiệu quả gây tê tủy sống bằng
levobupivacain kết hợp sufentanil trong phẫu
thuật chi dưới
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả dọc.
Dân số nghiên cứu
Các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật chi
dưới tại Bệnh viện Nhân Dân 115 Tp. Hồ Chí
Minh từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 05 năm
2014.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân mổ chương trình, từ 18 tuổi trở
lên, thuộc nhóm ASA I, II, III, không có chống
chỉ định GTTS, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Nhiễm trùng toàn thân (nhiễm trùng huyết),
có bệnh lí đông máu, dị dạng cột sống, bệnh lý
cột sống, không chọc dò tủy sống được. Tăng áp
lực nội sọ, giảm thể tích tuần hoàn, đau lưng
mãn tính, bệnh lí TK, rối loạn tâm thần.
Qui trình nghiên cứu
Bệnh nhân: Đánh giá trước mổ giống như
gây mê toàn diện. Ghi nhận loại phẫu thuật, thời
gian dự kiến mổ, các bệnh kèm theo, các bất
thường trước mổ, các thuốc đang dùng. Chuẩn
bị đầy đủ phương tiện theo dõi, cấp cứu bệnh
nhân. Đêm trước mổ cho bệnh nhân an thần
uống (seduxen 5 mg × 2 viên). Kí giấy cam kết
thực hiện thủ thuật, hướng dẫn bệnh nhân sử
dụng thang điểm đau VAS.
GTTS ở L3 - L4 hoặc L4 - L5 với
Levobupivacain 0,5% (đẳng trọng) liều 11mg
phối hợp với sufentanil 3 mcg.
Các biến số nghiên cứu: Đặc điểm chung của
mẫu nghiên cứu, vị trí tổn thương. Hiệu quả vô
cảm, các thay đổi mạch, huyết áp, nhịp thở trong
mổ. Hiệu quả giảm đau sau mổ (thang điểm đau
VAS lúc nghỉ ngơi, vận động), thuốc và qui trình
giảm đau. Các đặc điểm liên quan tới tê tủy sống
và tai biến, biến chứng, tác dụng phụ xảy ra sau
khi gây tê, trong lúc mổ, sau mổ tại phòng hồi
sức và hậu phẫu.
Xử lí số liệu
Số liệu được nhập và xử lí bằng phần mềm
SPSS 16.0. Phân tích thống kê bằng phép kiểm
Chi bình phương để phân tích tương quan giữa
các biến định tính, phép kiểm T – test để phân
tích tương quan giữa các biến định lượng, có ý
nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 8/2013 - 5/2014 tại
khoa Phẫu thuật – Gây mê hồi sức Bệnh viện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 438
Nhân Dân 115 chúng tôi tiến hành gây tê tủy
sống cho 145 bệnh nhân phẫu thuật vùng chi
dưới, kết quả thu được như sau:
Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Đặc điểm chung TB ± ĐLC Tối thiểu-tối đa
Tuổi (năm)* 39,6 ± 15,1 18 - 81
Chiều cao (cm) 164 ± 7,3 148 - 179
Cân nặng (kg/m
2
) 60,5 ± 9,8 38 - 92
BMI
ASA**
I
II
III
22,3 ± 2,6
88 (60,7%)
56 (38,6%)
1 (0,7%)
16 - 32
Nam** 94 (64,8%)
Nữ 51 (35,2%)
Thời gian PT(Phút) 1,2 ± 0,2 30 phút–2,3 giờ
(*): TB ± ĐLC, (**) Tần số (phần tram)
Bảng 2. Đặc điểm tổn thương
Vị trí phẫu thuật Số BN Tỉ lệ %
Thay khớp háng 8 5,4
Gãy xương đùi 23 15,4
Đứt dây chằng gối 68 45,6
Gãy xương cẳng chân 24 16,1
Lấy dụng cụ kết hợp xương 13 8,7
Tổn thương khác 8 5,4
Bảng 3. Hiệu quả vô cảm trong mổ
Hiệu quả tê sau 30 phút Số BN Tỉ lệ (%)
Tốt 127 87,6
Khá 17 11,7
Thất bại (chuyển mê) 1 0,7
Bảng 4. Thang điểm đau VAS lúc nghỉ ngơi
Thời điểm TB ± ĐLC Tối thiểu – tối đa
Sau 3 giờ 2,2 ± 0,8 1 – 4
Sau 6 giờ 2,3 ± 0,6 1 – 4
Sau 12 giờ 2 ± 0,6 1 – 3
Sau 18 giờ 1,6 ± 0,5 1 – 3
Sau 24 giờ 1,4 ± 0,4 1 - 3
Bảng 5. Thang điểm đau VAS lúc vận động
Thời điểm TB ± ĐLC Tối thiểu – tối đa
Sau 3 giờ 4,5 ± 1,0 3 – 6
Sau 6 giờ 4,6 ± 0,7 4 - 6
Sau 12 giờ 4,3 ± 0,5 3 – 5
Sau 18 giờ 3,8 ± 0,4 3 – 5
Sau 24 giờ 2,9 ± 0,3 2 - 4
Bảng 6. Tỉ lệ sử dụng thuốc giảm đau
Thuốc sử dụng Số BN Tỉ lệ (%)
Paracetamol 1g (lần 1) 145 100
Paracetamol 1g (lần 2) 145 100
Paracetamol 1g (lần 3) 35 23,4
Thuốc sử dụng Số BN Tỉ lệ (%)
Mobic 15 mg (lần 1) 145 100
Mobic 15 mg (lần 2) 145 100
Bảng 7. Liều thuốc giảm đau sử dụng
Tổng liều thuốc sử dụng Số BN Tỉ lệ (%)
Paracetamol 2g 145 100
Paracetamol 3g 35 24,1
Mobic 15 mg 145 100
Bảng 8. Tác dụng phụ trong và sau mổ
Tai biến – tác dụng phụ Số BN Tỉ lệ (%)
Nhức đầu 9 6,2
Đau lưng 10 6,9
Bí tiểu 9 6,2
Ngứa 8 5,4
Nôn – buồn nôn 7 4,8
Tụt huyết áp 17 11,7
Chạm mạch 4 2,7
Bảng 9. Đặc điểm liên quan tới tê tủy sống
Đặc điểm TB ± ĐLC Tối thiểu – tối đa
Thời gian thực hiện thủ
thuật (phút)
1,5 ± 0,7 1 - 5
Thời gian khởi tê 5,7 ± 2,2 3,5 - 8
Mức phong bế cảm giác
cao nhất
T8(T6–T10)
Thời gian đạt mức phong
bế cảm giác cao nhất
(phút)
18,7 ± 3,1 12 - 20
Thời gian tê D10 (phút) 7,3 ± 3,2 5,5 – 18
Thời gian phong bế cảm
giác (phút)
250,5 ± 56,3 125 - 385
Thời gian mất vận động M3
(phút)
12,5 ± 5,3 6,5 – 18
Thời gian phong bế vận
động (phút)
135,6 ± 42,8 75 - 327
Thời gian có vận động lại
(phút)
129 ± 23 100 - 168
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi là 39,9 ± 15 tuổi, thấp nhất 18 tuổi cao nhất 81
tuổi. Đa số là trong lứa tuổi lao động, phù hợp
với đặc trưng của bệnh lí chấn thương. Cân nặng
và chiều cao, chỉ số BMI trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi lần lượt là 164 ± 7,3 cm và
60,53 ± 9,8 kg, 22,3 ± 2,6 (kg/m2), phân độ ASA
trong nghiên cứu của chúng tôi đa số là ASA I –
II, chỉ một BN ASA III cao tuổi phẫu thuật thay
chỏm xương đùi, có nhiều bệnh lí nội khoa kèm.
So sánh với các tác giả Glaser C và cs , Mehta A
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 439
và cs(4,6), trong phẫu thuật vùng chi dưới, thì
người Việt Nam là thấp và nhẹ cân hơn, đây
cũng là yếu tố thuận lợi trong việc xác định mốc
giải phẫu và thực hiện kĩ thuật gây TTS. Tỉ lệ
nam nhiều hơn nữ tương đồng với nghiên cứu
của các tác giả trong nước phù hợp với đặc trưng
của bệnh lí chấn thương mà nguyên nhân
thường là do tai nạn thể thao, tai nạn giao thông
đa phần do uống rượu bia.
Tổn thương phẫu thuật trong nghiên cứu
của chúng tôi chủ yếu là đứt dây chằng do tai
nạn giao thông hoặc thể thao, bao gồm cả chéo
trước và sau có 68 (45,6%) trường hợp. Kế đến là
gãy thân hai xương cẳng chân và xương đùi lần
lượt là 24 (16,1%) và 23 (15,4%) trường hợp, còn
lại là các phẫu thuật thay khớp háng 8 (5,45%),
còn phương tiện kết hợp xương 13(8,7%). Là các
loại tổn thương thường gặp trong phẫu thuật
vùng chi dưới. Tương tự kết quả các tác giả
trong nước trong GTTS cho phẫu thuật chi dưới.
So sánh tổn thương chi dưới do tai nạn thể thao,
giao thông kết quả chúng tôi cao hơn các tác giả
nước ngoài. Lí giải điều này chúng tôi cho rằng
chế độ bảo hộ lao động và phương tiện giao
thông ở nước ta là khác so với nước ngoài(1,3).
Hiệu quả vô cảm trong mổ
Hiệu quả của TTS rất cao, trong nghiên cứu
này có 127 (87,6%) bệnh nhân đạt mức tê rất tốt,
trong mổ không sử dụng thêm thuốc giảm đau
nào, có 10 (6,7%) trường hợp chúng tôi xếp vào
loại khá. Trong phẫu thuật thì rạch da sử dụng
thêm sufentanil 2-5 mcg kết hợp thêm
midazolam 1 mg tiêm tĩnh mạch, sau đó cuộc
phẫu thuật vẫn diễn ra thuận lợi. Có 01 (0,7%)
trường hợp thất bại vì sau 30 phút cảm giác đau,
vận động vẫn còn chúng tôi tiến hành gây mê
toàn diện qua nội khí quản.
Hiệu quả vô cảm trong mổ của chúng tôi cũng
tương tự các giả trong nước trong tê tủy sống
cho mổ vùng chi dưới. So sánh với kết quả các
tác giả nước ngoài như: Fattorini F và cs, Glaser
C và cs, Mehta A và cs, tỉ lệ thành công của
chúng tôi thấp hơn. Tuy nhiên các tác giả trên sử
dụng liều thuốc tê cao hơn và chỉ nghiên cứu tối
đa là 30 trường hợp cho mỗi nhóm nên cũng
chưa thực sự mang được tính đại diện (3,4,6).
Các chỉ số mạch, huyết áp, nhịp thở trước
và sau 30 phút gây tê thay đổi có ý nghĩa
thống kê với p < 0,001. Sau 30 phút các chỉ số
ổn định dần, thay đổi không quá 20% chỉ số cơ
bản ban đầu của bệnh nhân và không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Theo chúng tôi là
trước gây tê các tổn thương do chấn thương
làm bệnh nhân đau nhiều, kết hợp tâm lí lo
lắng sợ hãi về bệnh tật và cuộc mổ, một số
chấn thương gây mất máu dẫn tới các rối loạn
nước điện giải. Sau gây tê bệnh nhân hết đau,
được sử dụng thuốc an thần, bù nước điện giải
và ổn định về mặt tâm lí, huyết động.
Hiệu quả giảm đau sau mổ
Trong nghiên cứu của chúng tôi điểm đau
VAS lúc nghỉ ngơi sau khi đã sử dụng thuốc
giảm đau sau 24 giờ sau phẫu thuật dao động từ
1,3 – 2,8 điểm. Lúc vận động từ 2,9 – 5 điểm, và
giảm dần theo thời gian. Tác giả Vũ Minh Hùng
và cs(10) trong gây TTS bằng bupivacain (đẳng
trọng) 12 mg, kết hợp fentanyl 20 mcg thì điểm
đau VAS lúc nghỉ ngơi dao động từ 1,2 – 3,5
điểm thì kết quả giảm đau của chúng tôi tốt hơn.
Tác giả Nguyễn Chí Dũng và cs(7) có điểm đau
VAS 24 giờ đầu sau mổ từ 1,5 – 4,2 điểm, cao
hơn nghiên cứu của chúng tôi. Lamai chum sang
và cs(5) gây TTS cho phẫu thuật chi dưới bao
gồm: xương đùi, cẳng chân, khớp gối, khớp bàn
chân bằng bupivacain 0,5% kết hợp fentanyl 25
mcg thì ghi nhận điểm đau VAS trong 12 giờ sau
phẫu thuật từ 2 – 8 điểm cao hơn kết quả của
chúng tôi. Các tác giả trên chỉ sử dụng giảm khi
có điểm đau VAS > 3 điểm, nên cần phải có thời
gian chờ tác dụng của thuốc.
Qui trình giảm đau của chúng tôi theo trình
tự. Khi kết thúc phẫu thuật bệnh nhân chuyển
phòng hồi tỉnh, tiến hành cho paracetamol 1 g
tĩnh mạch cách mỗi 4 – 6 giờ, kết hợp mobic 15
mg tiêm bắp cách mỗi 8 giờ. Thêm paracetamol
1g khi chưa có hiệu quả hoặc bệnh nhân yêu cầu
thêm giảm đau hoặc có VAS > 3. Sau 24 giờ khi
về khoa phòng chúng tôi đề nghị sử dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 440
efferalgan - codein 1g đường uống cho tất các
bệnh nhân cách mỗi 4 – 6 giờ. Với qui trình cho
giảm đau ngay sau khi kết thúc phẫu thuật,
chúng tôi ghi nhận điểm VAS lúc nghỉ ngơi < 3.
Khi vận động co duỗi, thay đổi tư thế điểm đau
VAS > 4 trong các thời điểm từ 3 – 18 giờ và
giảm dần theo thời gian. Chúng tôi áp dụng chế
độ giảm đau đa mô thức với hai loại thuốc giảm
đau. Mục đích nhằm tăng cường hiệu quả giảm
đau cho bệnh nhân cũng như giúp giảm liều và
hạn chế tác dụng phụ của từng loại thuốc.
Một số đặc điểm liên quan tới tê tủy sống
Thời gian khởi tê của chúng tôi là 5,3 ± 2,2
phút, ngắn nhất 3,5 phút, dài nhất 18 phút. Tác
giả Nguyễn Thị Quỳnh Lưu và cs(8) khi gây tê
tủy sống với levobupivacain 0,5% liều 11mg
trong phẫu thuật thay khớp háng có thời gian
khởi tê là 6,3 ± 18,1 phút, Tác giả Lamai
Chumsang và cs(5) tê tủy sống bằng
levobupivacaine cho phẫu thuật nội soi khớp gối
có thời gian khởi tê là 4,3 ± 10,0 tương tự như
nghiên cứu chúng tôi thay đổi không nhiều.
Trong TTS thời gian khởi tê tùy thuộc vào liều
lượng, tỉ trọng thuốc, vị trí cũng như tư thế và
tốc độ bơm thuốc, thể trạng của người Việt Nam
là thấp bé, nhẹ cân so với người nước ngoài hơn
nữa vị trí phẫu thuật trong từng nghiên cứu
cũng khác nhau giải thích cho sự khởi tê của các
nghiên cứu là khác nhau.
Mức tê cao nhất đạt được của chúng tôi là
T6, trong đó mức tê cao nhất đến T10 là chủ yếu.
Điều này chứng tỏ liều thuốc tê levobupivacain
0,5% liều 11 mg phối hợp sufentanil 3 mcg, tê
tủy sống ở L4 – L5 của chúng tôi phù hợp, đảm
bảo đủ vô cảm để phẫu thuật vùng chi dưới bao
gồm cả khớp háng.
Thời gian từ lúc bơm thuốc tê đến lúc đạt
mức vô cảm T10 là 7,3 ± 3,2 phút. Lamai
Chumsang và cs(5) khi sử dụng levobupivacain
đơn thuần 12,5 mg cho phẫu thuật nội soi khớp
gối có thời gian tê T10 là 4,3 ± 10,0 phút cũng
tương tự như kết quả của chúng tôi. Thời gian
phong bế cảm giác của chúng tôi là là 250,5 ±
56,3 phút, vận động là 135,6 ± 42,8 tương tự các
tác giả Onur và cs, Mehta A và cs(6,9), Nguyễn Thị
Quỳnh Lưu và cs(8) khi sử dụng cùng thể tích,
liều lượng cho phẫu thuật chi dưới. Glaser C và
cs(4) khi tiến hành gây tê tủy sống với
levobupivacain hay bupivacain cũng nhận thấy
levobupivacain 0,125% ít làm suy yếu vận động
hơn so với bupivacain 0,125%. Tác giả Erdil F và
cs(2) so sánh mức độ, thời gian liệt vận động cùng
liều lượng trên gây TTS mổ thay khớp háng
người cao tuổi của nhóm levobupivacain là 139,9
phút, thấp hơn so với bupivacain là 155,6 phút.
Levobupivacain có mức phong bế và thời gian
phong bế vận động thấp hơn so với bupivacain
là ưu điểm, giúp sau mổ tập phục hồi chức năng
sớm, tránh nằm lâu, phòng được các biến chứng
do thuyên tắc.
Tác dụng phụ trong và sau mổ: tỉ lệ tụt huyết
áp, mạch chậm, nôn và buồn nôn của nghiên
cứu chúng tôi lần lượt là 11,7%, 1,7%, 4,7%.
Không có trường hợp nào suy hô hấp. So sánh
với các tác giả trong và ngoài nước khi sử dụng
levobupivacain có hoặc không phối hợp với
fentanyl hoặc sufentanil thay đổi không nhiều.
Như vậy tác dụng phụ khi tê tủy sống với
levobupivacain 0,5% liều 11 mg kết hợp
sufentanil 3 mcg không nhiều và dễ xử lí.
KẾT LUẬN
Gây tê tủy sống đoạn thắt lưng L4 - L5 với
levobupivacain 0,5% đẳng trọng liều 11 mg kết
hợp sufentanil 3 mcg đảm bảo vô cảm tốt, ổn
định mạch huyết áp, tác dụng phụ ít và dễ xử lí
cả trong và sau phẫu thuật cho vùng chi dưới.
Giúp sau mổ tập vận động sớm, tránh các tai
biến, biến chứng do nằm lâu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Thỉ (2010), “Khảo sát các gãy xương lớn tại bệnh viện Chợ
Rẫy trong hai năm 2008 – 2009”, Y Học Thực Hành số 8(729), tr:
39 – 40.
2. Erdil F, Bulut S, Demirbilek S, et al (2009), "The effects of
intrathecal Levobupivacain and Bupivacain in the elderly",
Anaesthesia, 64(9), pp. 942 - 946.
3. Fattorini F, Ricci Z, Rocco A, et al (2006), "Levobupivacain
versus racemic Bupivacain for spinal anesthesia in orthopaedic
major surgery", Minerva Anestesiol, 72, pp. 637 - 644.
4. Glaser C, Marhofer P, Zimpfer G, et al (2002), "Levobupivacine
versus racemic Bupivacain for spinal anesthesia", Anesth Analg,
94, pp. 194 - 198.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 441
5. Lamai chumsang (2006), “Levobupivacain and Bupivacain in
spinal anesthesia for transurethral endoscopic suegery”, J Med
assoc 89 (8): 1133 – 9.
6. Mehta A, Gupta V, Wakhloo R, et al (2008), "Comparative
evaluation of intrathecal administration of newer local
anaesthetic agents ropivacaine and Levobupivacain with
Bupivacain in patients undergoing lower limb surgery". The
Internet Journal of Anesthesiology, 17 (1).
7. Nguyễn Chí Dũng (2011), “Đánh giá hiệu quả gây tê tủy sống
bằng Bupivacain phối hợp Sufentanil trong phẫu thuật chi
dưới”, Luận văn chuyên khoa 2, Đại Học Y Dược Tp. HCM.
8. Nguyễn Thị Quỳnh Lưu (2011), “Nghiên cứu hiệu quả của
Levobupivacain trong gây tê tủy sống để phẫu thuật thay khớp
háng”, Luận văn Thạc sĩ Y Học, Trường Đại Học Y Dược Thành
Phố Hồ Chí Minh.
9. Onur O, Sibel AM, Mustafa A, et al (2010), "Comparison of the
effects of intrathecal different dosage of Levobupivacain in
elective day - case arthroscopy of the knee". M E. J. Anesth, 20
(5): pp. 703 - 708.
10. Vũ Minh Hùng (2013), “ Hiệu quả gây tê thần kinh đùi – hông
to có máy kích thích trong phẫu thuật vùng cẳng chân”, Luận án
chuyên khoa 2, Trường Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí
Minh.
Ngày nhận bài báo: 12/11/2014.
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2014.
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015.