Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến chẩn đoán giai đoạn lâm sàng ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 08/2008 – 02/2009

Mở đầu: Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung cũng là một trong hai loại ung thư phụ khoa thường gặp, nhất là tại Miền Nam. Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của kiến thức‐thái độ‐hành vi và kinh tế xã hội đến giai đoạn lâm sàng của ung thư cổ tử cung lúc chẩn đoán. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 402 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2008 đến tháng 2/2009. Kết quả: trong 402 bệnh nhân ung thư cổ tử cung được chẩn đoán với các giai đoạn từ IB1, IB2, IIA, IIB, IIIA, IIIB, IVA, và IVB. Phân tích đơn biến được dùng để khảo sát mối tương quan giữa kiến thức, thái độ, quan niệm sai lầm, niềm tin, hành vi và các yếu tố kinh tế xã hội với giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán. Yếu tố kinh tế‐ xã hội tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thường được chẩn đoán ở những giai đoạn trễ (p =0,695835). Yếu tố kiến thức tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có ít hiểu biết về bệnh ung thư cổ tử cung thường được chẩn đoán ở những giai đoạn trễ (p = 0,689833). Yếu tố thái độ tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có thái độ không đúng đối với bệnh ung thư cổ tử cung thường được chẩn đoán ở những giai đoạn trễ (p = 0,751824). Yếu tố hành vi tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có hành vi không phù hợp về bệnh ung thư cổ tử cung thường được chẩn đoán ở những giai đoạn trễ (p = 0,876225). Hồi qui đa biến được sử dụng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu nhằm xác định có mối tương quan giữa yếu tố kinh tế xã hội‐kiến thức‐thái độ‐hành vi với giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán. Kết luận: Yếu tố kinh tế‐xã hội, kiến thức, thái độ, hành vi là những biến số độc lập ảnh hưởng đến giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán của bệnh ung thư cổ tử cung

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến chẩn đoán giai đoạn lâm sàng ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 08/2008 – 02/2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 48 KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẨN ĐOÁN GIAI ĐOẠN  LÂM SÀNG UNG THƯ CỔ TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU  THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ 08/2008 – 02/2009  Lưu Minh Văn*  TÓM TẮT  Mở đầu: Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung cũng là một trong hai loại ung thư phụ khoa thường gặp, nhất  là tại Miền Nam.  Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của kiến thức‐thái độ‐hành vi và kinh tế xã hội đến giai đoạn lâm sàng của  ung thư cổ tử cung lúc chẩn đoán.  Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 402 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư cổ tử cung tại  Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2008 đến tháng 2/2009.  Kết quả: trong 402 bệnh nhân ung thư cổ tử cung được chẩn đoán với các giai đoạn từ IB1, IB2, IIA, IIB,  IIIA, IIIB, IVA, và IVB. Phân tích đơn biến được dùng để khảo sát mối tương quan giữa kiến thức, thái độ, quan  niệm sai lầm, niềm tin, hành vi và các yếu tố kinh tế xã hội với giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán. Yếu tố kinh tế‐ xã hội tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có hoàn cảnh kinh tế khó  khăn thường được chẩn đoán ở những giai đoạn trễ (p =0,695835). Yếu tố kiến thức tương quan có ý nghĩa  thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có ít hiểu biết về bệnh ung thư cổ tử cung thường được  chẩn đoán ở những giai đoạn trễ (p = 0,689833). Yếu tố thái độ tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn:  Bệnh nhân ung thư cổ tử cung có thái độ không đúng đối với bệnh ung thư cổ tử cung thường được chẩn đoán ở  những giai đoạn trễ (p = 0,751824). Yếu tố hành vi tương quan có ý nghĩa thống kê với giai đoạn: Bệnh nhân  ung thư cổ tử cung có hành vi không phù hợp về bệnh ung thư cổ tử cung thường được chẩn đoán ở những giai  đoạn trễ (p = 0,876225). Hồi qui đa biến được sử dụng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu nhằm xác định có mối  tương quan giữa yếu tố kinh tế xã hội‐kiến thức‐thái độ‐hành vi với giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán.  Kết  luận: Yếu tố kinh tế‐xã hội, kiến thức, thái độ, hành vi là những biến số độc lập ảnh hưởng đến giai  đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán của bệnh ung thư cổ tử cung.  Từ khóa: Kiến thức, thái độ, hành vi, ung thư cổ tử cung.  ABSTRACT  EVALUATING THE INFLUENCES OF KNOWLEDGE – ATTITUDE – BEHAVIOR AND  SOCIOECONOMIC FACTORS IN DIAGNOSIS STAGES OF CERVICAL CANCER  Luu Minh Van* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 48 ‐ 54  Background: In Vietnam, cervical cancer is also one of the two most common cancer in Vietnamese women,  especially in South of Vietnam.   Objective:  to  evaluate  the  influences  of  knowledge  –  attitude  –  behavior  and  socioeconomic  factors  in  diagnosis stages of cervical cancer.  Design: a cross‐section study analysis of 402 patients as having cervical cancer at HO Chi Minh Cancer  Hospital from 8/2008 – 2/2009.  *: Bệnh viện Từ Dũ  Tác giả liên lạc: BS Lưu Minh Văn   ĐT: 0909586684   email: bsluuminhvan@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 49  Results: Of  the 402 patients presented with FIGO  stage  IB1,  IB2,  IIA,  IIB,  IIIA,  IIIB,  IVA,  and  IVB.  Univariable  analysis  has  been  used  to  identify  the  statistic  relationship  between  knowledge,  attitudes,  misconceptions,  beliefs,  behaviors,  and  socioeconomic  factors  and  diagnosis  stages  of  cervical  cancer.  The  following  socioeconomic  factor was  significantly  related  to  the  stage:  cervical  cancer  patients who  have  low  economic status usually get advanced stages (p = 0.695835). The following knowledge was significantly related to  the stage: cervical cancer patients who have low level of knowledge about cervical cancer get advanced stages. (p =  0.689833). The following attitude was significantly related to the advanced stage: cervical cancer patients who  have  negative  attitudes  to  cervical  cancer  get  advanced  stages.  (p  =  0.751824).  The  following  behavior was  significantly related to the advanced stage: cervical cancer patients who have wrong behaviors to cervical cancer  get advanced stages  (ρ = 0.876225). Multivariable  logistic regression was used  to control confounders and  to  reveal whether  there  is  a  real  correlation between  socioeconomic  factor  ‐  knowledge  ‐  attitude – behavior  and  diagnosis stages.  Conclusions:  Socioeconomic  factor,  Knowledge,  Attitude,  Behavior  are  the  independent  variables  influencing on clinical stage at diagnosis.  Keywords: Knowledge, Attitude, Behavior, cervical cancer  ĐẶT VẤN ĐỀ  Tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí  Minh, mỗi năm có khoảng 3000 ca ung thư cổ tử  cung mới được nhập viện điều trị, trong đó gần  50% bệnh nhân  được  chẩn  đoán  ở những  giai  đoạn tiến xa. Có rất nhiều lý do khiến bệnh nhân  đến với thầy thuốc chuyên khoa trễ như: tâm lý  hay  e ngại  của phụ nữ,  điều  kiện  kinh  tế  khó  khăn, sự cách trở về giao thông, thiếu hiểu biết  về  căn  bệnh,  điều  trị  không  đúng  cách,  xem  thường các biểu hiện ban đầu của bệnh Từ đó  bỏ qua thời gian quý báu ban đầu để có thể chẩn  đoán  sớm. Mặt  khác,  người  dân  chưa  có  thói  quen khám  sức khỏe  định kỳ để  tầm  soát ung  thư cổ tử cung.   Việc phát hiện ung thư cổ tử cung ở những  giai đoạn sớm có ý nghĩa sống còn đối với người  bệnh, tạo điều kiện để việc điều trị được thuận  lợi và cho kết quả tốt. Từ các  lý do  trên, chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu  đề  tài  “Khảo  sát  các  yếu tố ảnh hưởng đến chẩn đoán giai đoạn lâm  sàng  ung  thư  cổ  tử  cung”  tại  Bệnh  viện Ung  Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 08 năm  2008 đến tháng 02 năm 2009.   Mục tiêu nghiên cứu  1.  Khảo sát mối tương quan giữa các yếu tố  nhận thức như: kiến thức về bệnh, trình độ văn  hóa, hành vi xử trí ban đầu của bệnh nhân, thái  độ, quan niệm sai lầm trong dân gian về ung thư  cổ tử cung với giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán  của bệnh nhân ung thư cổ tử cung.  2.  Khảo sát mối tương quan giữa các yếu tố  kinh  tế xã hội như: hoàn cảnh kinh  tế, sự cách  trở về  địa dư với giai  đoạn  lâm  sàng  lúc  chẩn  đoán của bệnh nhân ung thư cổ tử cung.  3.  Khảo sát mối tương quan giữa mạng lưới  y tế cơ sở như: xử lý ban đầu của nhân viên y tế,  việc phổ  cập kiến  thức về bệnh ung  thư  cổ  tử  cung với giai đoạn lâm sàng  lúc chẩn đoán của  bệnh nhân ung thư cổ tử cung.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu cắt ngang mô tả.  Dân số điều tra nghiên cứu  Dân số đích  Tất  cả  bệnh nhân ung  thư  cổ  tử  cung  đến  khám và điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Thành  phố Hồ Chí Minh.  Dân số nghiên cứu  Tất  cả  bệnh nhân ung  thư  cổ  tử  cung  đến  khám và điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Thành  phố  Hồ  Chí  Minh  trong  thời  gian  từ  tháng  08/2008 đến tháng 02/2009.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 50 Cỡ mẫu – xác định cỡ mẫu  Công thức:  2 2 ) 2 1( .. d qpZ n α−=   369 05,0 6,04,096,1 2 2 =××=n    Chúng tôi tính được cỡ mẫu tối thiểu là 369  trường hợp.  Trên thực tế dự kiến cỡ mẫu thu nhận được  trong  thời gian  từ 08/2008  đến 02/2009 khoảng  400 trường hợp.  KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN  Qua phỏng vấn và thăm khám trực tiếp 402  trường  hợp  ung  thư  cổ  tử  cung  nhập  viện  và  điều  trị  tại Bệnh viện Ung Bướu  thành phố Hồ  Chí  Minh  từ  tháng  8/2008  đến  tháng  2/2009,  chúng tôi ghi nhận như sau:   Đặc điểm nhóm nghiên cứu  Giai đoạn lâm sàng  Trong 402 trường hợp UTCTC của loạt khảo  sát,  thường  gặp  nhất  là  giai  đoạn  IIB  28,11%  (113/402), kế đến  là giai đoạn IIIB 27,36% (110).  Giai đoạn IB và IIA lần lượt chiếm các tỷ lệ tiếp  theo,  không  ghi  nhận  được  trường  hợp  nào  ở  giai đoạn IA và giai đoạn 0.   Bảng 1: Giai đoạn lâm sàng  Giai đoạn lâm sàng Số ca Tỷ lệ % IA 0 0,00 IB1 76 18,91 IB2 23 5,72 IIA 45 11,19 IIA STT≥4cm 22 5,47 IIB 113 28,11 IIIA 1 0,25 IIIB 110 27,36 IVA 3 0,75 IVB 9 2,24 TC 402 100,00 Đặc điểm kinh tế – xã hội  Sự phân bố theo lứa tuổi: Tuổi nhỏ nhất gặp  trong  loạt  nghiên  cứu  này  là  27  tuổi,  tuổi  lớn  nhất  là 90,  tuổi  trung bình  là 53. Đỉnh  tuổi gặp  nhiều nhất  là  50‐59,  137/402,  tỷ  lệ  34,07%. Lứa  tuổi gặp nhiều nhất là 40 đến 59.  0,25 11,19 26,12 34,08 18,41 8,46 1,24 0,25 0 5 10 15 20 25 30 35 Ty û le ä p ha àn tr aêm 20-29 30-39 40-49 50-59 60-69 70-79 80-89 ≥90 Löùa tuoåi PHAÂN BOÁ THEO TUOÅI Biểu đồ 1: Phân bố theo lứa tuổi  Địa chỉ cư trú  Số  bệnh nhân  có  địa  chỉ  tại  thành phố Hồ  Chí Minh là 85/402 trường hợp, tỷ lệ 21,14%; còn  lại  là bệnh nhân từ các tỉnh khu vực phía Nam  317/402, tỷ lệ 78,86%.   Trình độ học vấn  Mù  chữ  chiếm  72/402  trường  hợp,  tỷ  lệ  17,91%; cấp I chiếm tỷ lệ cao nhất 191/402, tỷ lệ  47,51%;  cấp  II  90/402,  22,39%;  cấp  III  41/402,  10,20%;  trình độ đại học chiếm  tỷ  lệ khiêm  tốn  8/402, 1,99%.   Nghề nghiệp  Chiếm số đông trong nghề nghiệp là nội trợ  171/402, tỷ lệ 42,54%; kế đến là nông dân 95/402,  23,63%; buôn bán nhỏ 74/402, 18,41%; công nhân  viên 31/402, 7,71%.   Hoàn cảnh kinh tế  Số bệnh nhân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn  chiếm  tỷ  lệ  rất  cao  302/402,  75,12%;  còn  lại  100/402 có kinh tế tạm ổn, tỷ lệ 24,87%.  Qua phân tích tương quan cho thấy có tương  quan thuận rất chặt chẽ giữa hoàn cảnh kinh tế  của bệnh nhân với GĐLS lúc chẩn đoán với p =  0,685273. Hầu hết bệnh nhân có hoàn cảnh kinh  tế khó khăn đều được chẩn đoán ở những giai  đoạn lâm sàng đã tiến xa.  Bảng 2: Hoàn cảnh KINH tế  Đặc điểm Hoàn cảnh kinh tế GĐ sớm GĐ muộn Tổng cộng Số ca Số ca Số ca % Khó khăn 104 198 302 75,12 Không khó khăn 62 38 100 24,87 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 51 Đặc điểm Hoàn cảnh kinh tế GĐ sớm GĐ muộn Tổng cộng Số ca Số ca Số ca % Tổng cộng 166 236 402 100,00 Kiến thức  Hiểu biết về bệnh UTCTC  ‐  37,31%  ( 150/402  ) bệnh nhân không biết  về bệnh UTCTC.  ‐  Việc thiếu kiến thức về bệnh lý giải lý do  bệnh nhân thường đến ở những giai đoạn trễ.  Bệnh UTCTC có  lây không? Gần 90% bệnh  nhân được hỏi cho biết  theo họ UTCTC không  lây nhiễm, bệnh là do tự có và do số mạng. Điều  này  cũng  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  việc  phòng  tránh UTCTC.  Hiểu biết về Paps test: 76,62% (308/402) bệnh  nhân hoàn toàn không biết về Paps test hay phết  tế bào cổ tử cung – âm đạo.  Paps test có chẩn đoán sớm UTCTC?  ‐  Số bệnh nhân không biết Pap  test có  thể  chẩn đoán sớm UTCTC là 78,61% (316/402 ) .  ‐  Điều này lý giải vì sao bệnh nhân thường  đến bệnh viện vào những giai đoạn trễ.  XHÂĐ bất thường là triệu chứng báo động:  Xuất  huyết  âm  đạo  bất  thường  là  một  triệu  chứng  báo  động  của  UTCTC.  Số  bệnh  nhân  không biết triệu chứng nầy là 39,80% ( 160/402).  Chương  trình  tầm  soát UTCTC  ở  nước  ta:  Qua  khảo  sát  cho  thấy  96%  bệnh  nhân  không  biết gì về chương trình tầm soát UTCTC nói lên  việc  chẩn  đoán  sớm  gặp  nhiều  khó  khăn.  Và  bệnh nhân sẽ đến ở những giai đoạn trễ hơn.  Kiến thức về HPV: Gần 90% bệnh nhân hoàn  toàn chưa nghe nói gì về HPV.  Thái độ – niềm tin  UTCTC  là  bệnh  nan  y?  94,02%  (378/402)  bệnh nhân không cho UTCTC là bệnh nan y và  tin tưởng là có thể chữa khỏi bệnh.  Niềm tin vào phẫu thuật: Chỉ có 6/402 bệnh  nhân,  tỷ  lệ 1,49% bệnh nhân  cho  là mổ  sẽ  làm  cho bệnh nặng hơn.   UTCTC là do bị yếm bùa:  ‐  Đa số bệnh nhân 395/402 (98,26%) không  cho là UTCTC là do bị thư hoặc ếm bùa gây ra.  ‐  Niềm tin này giúp bệnh nhân tìm đến các  phương pháp điều trị đúng qui cách hơn.  UTCTC là do trời kêu ai nấy dạ? Đa số bệnh  nhân đều cho rằng UTCTC là do trời kêu ai nấy  dạ 342/402 (85,07%).  Thuốc  Nam,  Bắc,  Đông  y  chữa  được  UTCTC?  Số  bệnh  nhân  cho  rằng  thuốc Nam,  thuốc  Bắc  không  thể  chữa  khỏi  UTCTC  là  312/402 BN, tỷ lệ 77,61%.  Phát hiện sớm UTCTC có thể chữa khỏi? Đa  số bệnh nhân đều đồng tình là phát hiện sớm có  thể  chữa  khỏi  UTCTC,  chiếm  389  BN,  tỷ  lệ  96,77%.   Nên  giấu  mọi  người  khi  bệnh?  Phần  lớn  bệnh nhân đều cho rằng khi có bệnh không nên  giấu mọi người xung quanh, chiếm 359/402 BN  tỷ lệ 89,30%.  Với dấu hiệu đó, chị nghĩ bệnh gì? Với các  dấu hiệu  lâm  sàng như  thế, 75,87% bệnh nhân  (305/402) cho rằng mình bị rối loạn kinh nguyệt,  19,15%  BN  (77/402)  nghĩ  là  viêm  nhiễm  sinh  dục;  chỉ  có  1,24%  (5/402)  sợ  rằng  mình  bị  UTCTC. Đây là thái độ quyết định có mối tương  quan  thuận  với  giai  đoạn  lâm  sàng  lúc  chẩn  đoán.  Bảng 3: Nghĩ đến UTCTC?  Đặc điểm Nghĩ đến GĐ sớm GĐ muộn Tổng cộng Số ca Số ca Số ca % Viêm SD 42 36 77 19,15 RLKN 111 194 305 75,87 Có kinh 4 1 5 1,24 Ung thư 2 3 5 1,24 Khác 7 3 10 2,48 Tổng cộng 166 236 402 100,00 Theo  dõi  thông  tin  về  bệnh?  Có  234  BN  (58,21%)  bệnh  nhân  cho  biết  thỉnh  thoảng  có  theo dõi  thông  tin về  bệnh phụ nữ  thông  qua  báo đài.  Hành vi khi  có dấu hiệu bất  thường  đầu  tiên  Với  dấu  hiệu  đó  chị  có  cho  ai  biết?  100%  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 52 bệnh  nhân  khi  phát  hiện mình  có  những  dấu  hiệu bất thường đều cho người thân mình biết.  Bệnh nhân  làm gì với dấu hiệu đó? 38,30%  bệnh nhân đi khám bác sỹ khi có dấu hiệu bất  thường đầu  tiên. 31,59% không  làm gì cho đến  khi bệnh trở nặng; 22,88% tự mua thuốc điều trị;  7,21% uống thuốc Nam thuốc Bắc.  Nơi  đến  khám  bệnh  đầu  tiên?  247/402  BN  (61,44%) chọn bệnh viện thành phố là nơi khám  bệnh đầu  tiên; 30,84% đến khám  tại các bác sỹ  tư.  Thời gian phát hiện? Số bệnh nhân đi khám  bệnh ngay  khi  có  triệu  chứng  bất  thường  đầu  tiên rất  thấp, 1,99%. Đa số các  trường hợp đều  khám bệnh sau 3 tháng kể từ khi có dấu hiệu bất  thường: trên 60% các trường hợp.  Qua phân tích tương quan cho thấy có tương  quan thuận rất chặt chẽ giữa thời gian phát hiện  của bệnh nhân với GĐLS lúc chẩn đoán. Hầu hết  bệnh  nhân  đến  bệnh  viện  trễ  đều  được  chẩn  đoán ở những giai đoạn lâm sàng đã tiến xa.  Khám  phụ  khoa  định  kỳ:  Số  bệnh  nhân  không khám phụ khoa định kỳ rất cao 306/402,  tỷ lệ 76,12%.  Lý  do  không  đi  khám  ngay:  Lý  do  khiến  bệnh  nhân  không  đi  khám  ngay  vì  đa  số  các  trường hợp bệnh nhân đều nghĩ là bình thường  345/402 BN, 85,61%.  Phân tích tương quan  Qua phân tích tương quan giữa các yếu tố  khảo sát được với giai đoạn lâm sàng lúc chẩn  đoán ở phần kết quả, chúng tôi nhận thấy như  sau:  Có  sự  tương  quan  thuận  rất  chặt  chẽ  giữa  yếu tố kinh tế‐ xã hội với giai đoạn lâm sàng lúc  chẩn đoán, bệnh nhân có hoàn cảnh kinh tế càng  khó khăn thì bệnh ở giai đoạn càng  trễ và có ý  nghĩa thống kê, với p=0,695835.   Có  sự  tương quan  thuận và  chặt giữa kiến  thức về bệnh ung  thư cổ  tử cung với giai đoạn  lâm sàng lúc chẩn đoán là có ý nghĩa thống kê,  với giá trị của p = 0,689833. Sự thiếu kiến thức về  bệnh  cũng như  các biện pháp phòng  tránh  đã  làm cho giai đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán đa số  là tiến xa.  Sự  tương quan giữa  thái độ của bệnh nhân  và  giai  đoạn  lâm  sàng  lúc  chẩn  đoán  là  có  ý  nghĩa  thống  kê,  với p=0,751824. Khi  đón  nhận  những dấu hiệu lâm sàng đầu tiên, hầu hết các  bệnh  nhân  đều  cho  là  những  xáo  trộn  không  nghiêm  trọng,  từ  đó  đã  bỏ  qua  thời  điểm  vô  cùng quý giá để được chẩn đoán sớm và điều trị  có hiệu quả. Thậm chí khi biết mình có bệnh, đa  số bệnh nhân lại cho rằng trời kêu ai nấy dạ và  chấp nhận bệnh như một số phận đã an bài.  Sự tương quan giữa hành vi của bệnh nhân  với giai đoạn  lâm sàng  lúc chẩn đoán  là  tương  quan rất chặt chẽ va rất có ý nghĩa thống kê, với  p=0,876225.  Khi  phát  hiện  các  dấu  hiệu  bất  thường, chính hành vi xem thường triệu chứng  cho  là bình  thường, cũng như  trì hoãn đến các  cơ  sở y  tế đã  làm  cho bệnh ngày  càng  chuyển  biến nặng hơn cho tới lúc nhập viện.  Tương quan giữa các yếu tố kinh tế xã hội  –  kiến  thức  –  thái  độ  –  hành  vi  với  giai  đoạn lâm sàng qua phân tích đa biến  Yếu tố Hàm Correl Hàm Pearson KT-XH 0,685935 0,685273 Kiến thức 0,689833 0,689231 Thái độ 0,751824 0,751471 Hành vi 0,876225 0,876253 Qua phân  tích đa biến với hàm PEARSON,  một lần nữa đã khẳng định các yếu tố kinh tế –  xã hội, kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân  có tương quan thuận chặt chẽ với giai đoạn lâm  sàng lúc chẩn đoán.  KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ  Qua nghiên cứu 402 trường hợp ung thư cổ  tử cung nhập Bệnh viện Ung Bướu Thành phố  Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm 2008 đến tháng 2  năm 2009,  chúng  tôi  rút  ra một  số kết  luận và  kiến nghị như sau:  Đặc điểm nhóm nghiên cứu  Đa số bệnh nhân đến với giai đoạn lâm sàng  trễ (58,7%), chủ yếu là giai đoạn IIB (28,11%) và  giai đoạn IIIB (27,36%).  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 53 Đặc điểm kinh tế – xã hội  Đỉnh  tuổi  thường  gặp  là  50  –  59  (34,07%),  tuổi nhỏ nhất là 27 và tuổi lớn nhất là 90, trung  bình  là  53.  Đa  số  bệnh  nhân  đều  ở  các  tỉnh  (78,86%);  trình độ văn hóa  rất  thấp mù chữ và  cấp 1 là 62%; vối nghề nghiệp chủ yếu là nội trợ  (42,54%). Hoàn cảnh kinh tế đa số bệnh nhân rất  khó khăn (75,12%) và có quan hệ tương quan với  giai  đoạn  lâm  sàng  lúc  chẩn  đoán  với  p  =  0,695835.  Kiến thức – thái độ – niềm tin  Số bệnh nhân hoàn toàn không biết Paps test  là một phương pháp dùng  để  chẩn  đoán  sớm  UTCTC rất cao (76,62%); khoảng 40% bệnh nhân  không  xem  xuất  huyết  âm  đạo  bất  thường  là  triệu chứng báo động và 96% bệnh nhân không  biết có chương trình tầm soát ung thư cổ tử cung  ở nước ta; 90% bệnh nhân chưa bao giờ nghe nói  về HPV. Có sự  tương quan  thuận và chặt giữa  kiến  thức về bệnh ung  thư cổ  tử cung với giai  đoạn lâm sàng lúc chẩn đoán là có ý nghĩa thống  kê, với giá trị của p = 0,689833.  Đa số bệnh nhân đều cho rằng UTCTC là do  trời kêu ai nấy dạ 342/402 (85,07%). Với các dấu  hiệu  lâm  sàng như xuất huyết âm  đạo, 75,87%  bệnh nhân  (305/402)  cho  rằng mình bị  rối  loạn  kinh  nguyệt;  55%  bệnh  nhân  xử  trí  ban  đầu  không thích hợp; trên 60% trường hợp phát hiện  bệnh sau 3 tháng có triệu chứng. Sự tương quan  giữa  thái  độ  của  bệnh  nhân  và  giai  đoạn  lâm  sàng lúc chẩn đoán là có ý nghĩa thống kê, với p  = 0,751824.  Tỷ lệ bệnh nhân không khám phụ khoa định  kỳ là 76,12%; 85,61% bệnh nhân không đi khám  ngay  khi  có  triệu  chứng  báo  động.  Sự  tương  quan giữa hành vi của bệnh nhân với giai đoạn  lâm sàng  lúc chẩn đoán  là  tương quan rất chặt  chẽ và rất có ý nghĩa thống kê, với p = 0,876225.  Qua nghiên cứu và phân tích số liệu, có mối  tương quan giữa hoàn cảnh kinh  tế, kiến  thức,  thái  độ, niềm  tin  của bệnh nhân với giai  đoạn  lâm sàng lúc chẩn đoán.   KIẾN NGHỊ  Qua nghiên cứu các số liệu về ung thư cổ tử  cung, để giảm tần suất và tử suất của bệnh trong  tương  lai,  cũng như giúp người dân phát hiện  sớm về  căn bệnh này,  chúng  tôi xin  có một  số  kiến nghị như sau:  Đối với nhóm phụ nữ có hoàn cảnh kinh tế  khó khăn, cộng đồng xã hội cần có sự quan tâm  giúp  đỡ  để  chị  em  có  điều  kiện  chăm  sóc  sức  khỏe của mình, nhất là sức khỏe sinh sản.   Phổ  biến  rộng  rãi  các  kiến  thức  về  cách  phòng chống ung thư cổ tử cung.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Ayhan  A, Al  RA, Baykal  C, Demirtas  E, Yüce  K, Ayhan  A.  (2004). “A comparision of FIGO stage IB adenocarcinoma and  squamous  cell  carcin
Tài liệu liên quan