Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và sự an toàn của keo fibrin trong phẫu thuật điều trị mộng nguyên phát theo
phương pháp ghép kết mạc tự thân.
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng ngẫu nhiên. Nghiên cứu thực hiện từ tháng 4/2010 đến
tháng 9/2011 tại khoa Giác Mạc-bệnh viện Mắt Tp.HCM, trên 60 mắt của 60 bệnh nhân được chẩn đoán mộng
thịt nguyên phát phân ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm 30 bệnh nhân sử dụng chỉ Vicryl để cố định mảnh kết
mạc ghép như thông thường, nhóm 30 bệnh nhân sử dụng keo fibrin (keo Tisseel) thay thế chỉ. Các triệu chứng
sau mổ gồm chủ quan (cộm xốn, chảy nước mắt, kích thích) và khách quan (xuất huyết dưới kết mạc, viêm) được
đánh giá bằng thang điểm. Tái phát được ghi nhận sau thời gian theo dõi 6 tháng.
Kết quả: Tất cả bệnh nhân đều hoàn tất thời gian theo dõi 6 tháng. Có 1 ca tái phát (3,3%) trong nhóm keo
và 2 ca tái phát (6,7%) trong nhóm chỉ. Các triệu chứng chủ quan đều giảm rõ rệt trong nhóm keo vào ngày thứ
3 và thứ 10 sau mổ (P<0,05). Tình trạng viêm cũng giảm rõ ở nhóm keo vào ngày thứ 30 (P<0,05). Ghi nhận về
tình trạng xuất huyết dưới kết mạc cho thấy không có sự khác biệt ở cả hai nhóm (P=0,223; P=0,773 và P=1 tại
thời điểm ngày thứ 3, thứ 10 và thứ 30 sau mổ). Tất cả mảnh ghép đều dính tốt và không có biến chứng quan
trọng nào trong suốt quá trình theo dõi.
Kết luận: Việc sử dụng keo fibrin trong phẫu thuật mộng nguyên phát theo phương pháp ghép kết mạc tự
thân giúp cải thiện đáng kể cho người bệnh các triệu chứng khó chịu sau mổ, đồng thời làm giảm tình trạng
viêm, một yếu tố được cho là nguyên nhân của sự tái phát. Keo cung cấp độ dính thích hợp giúp giữ tốt mảnh
ghép lên giường củng mạc.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả keo Fibrin trong phẫu thuật điều trị mộng nguyên phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Mắt 129
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KEO FIBRIN TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ
MỘNG NGUYÊN PHÁT
Nguyễn Hoàng Thụy Khanh*, Trần Thị Phương Thu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và sự an toàn của keo fibrin trong phẫu thuật điều trị mộng nguyên phát theo
phương pháp ghép kết mạc tự thân.
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng ngẫu nhiên. Nghiên cứu thực hiện từ tháng 4/2010 đến
tháng 9/2011 tại khoa Giác Mạc-bệnh viện Mắt Tp.HCM, trên 60 mắt của 60 bệnh nhân được chẩn đoán mộng
thịt nguyên phát phân ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm 30 bệnh nhân sử dụng chỉ Vicryl để cố định mảnh kết
mạc ghép như thông thường, nhóm 30 bệnh nhân sử dụng keo fibrin (keo Tisseel) thay thế chỉ. Các triệu chứng
sau mổ gồm chủ quan (cộm xốn, chảy nước mắt, kích thích) và khách quan (xuất huyết dưới kết mạc, viêm) được
đánh giá bằng thang điểm. Tái phát được ghi nhận sau thời gian theo dõi 6 tháng.
Kết quả: Tất cả bệnh nhân đều hoàn tất thời gian theo dõi 6 tháng. Có 1 ca tái phát (3,3%) trong nhóm keo
và 2 ca tái phát (6,7%) trong nhóm chỉ. Các triệu chứng chủ quan đều giảm rõ rệt trong nhóm keo vào ngày thứ
3 và thứ 10 sau mổ (P<0,05). Tình trạng viêm cũng giảm rõ ở nhóm keo vào ngày thứ 30 (P<0,05). Ghi nhận về
tình trạng xuất huyết dưới kết mạc cho thấy không có sự khác biệt ở cả hai nhóm (P=0,223; P=0,773 và P=1 tại
thời điểm ngày thứ 3, thứ 10 và thứ 30 sau mổ). Tất cả mảnh ghép đều dính tốt và không có biến chứng quan
trọng nào trong suốt quá trình theo dõi.
Kết luận: Việc sử dụng keo fibrin trong phẫu thuật mộng nguyên phát theo phương pháp ghép kết mạc tự
thân giúp cải thiện đáng kể cho người bệnh các triệu chứng khó chịu sau mổ, đồng thời làm giảm tình trạng
viêm, một yếu tố được cho là nguyên nhân của sự tái phát. Keo cung cấp độ dính thích hợp giúp giữ tốt mảnh
ghép lên giường củng mạc.
Từ khóa: phẫu thuật mộng ghép kết mạc, keo fibrin, chỉ vicryl.
ABSTRACT
ASSESSMENT OF FIBRIN GLUE IN PTERYGIUM SURGERY
Nguyen Hoang Thuy Khanh,Tran Thi Phuong Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 129 - 135
Purpose: To evaluate the efficacy and safety of fibrin glue in pterygium surgery with conjunctival
autografting.
Methods: Prospective randomised clinical trial was carried out at Department of Cornea, HCMC Eye
Hospital from April-2010 to September-2011. 60 eyes of 60 patients with primary pterygium were randomized to
undergo pterygium surgery with conjunctival autograft transplantation using either fibrin glue (30 eyes) or
sutures (30 eyes). Postoperative patient discomfort (foreign body sensation, epiphora and irritation) and
biomicroscopic findings (subconjunctival haemorrhage, inflammation) were graded. The pterygium recurrence
was monitored throughout 6 months follow-up.
Results: All patients were followed up for 6 months. There were 1 recurrence (3.3%) in the fibrin adhesive
* Bộ môn Mắt, Đại học Y Dược TPHCM.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hoàng Thụy Khanh ĐT: 0908140507 Email: dr.khanhnguyen@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 130
group and 2 recurrences (6.7%) in the suture group. The postoperative patient discomfort was significantly less
in the fibrin adhesive group than the suture group at day 3 and day 10 (P<0.05). When using fibrin glue, the
degree of inflammation was significantly lower than with sutures at day 30 (P<0.05). No significant difference
was found in degree of postoperative subconjunctival haemorrhage between the groups (P=0.223, P=0.773, and
P=1, at day 3, day 10 and day 30, respectively). All conjunctival autografts were secured adequately and no case
of serious complications occurred.
Conclusions: The use of fibrin adhesive in primary pterygium surgery with conjunctival autografts reduces
postoperative patient discomfort and conjunctival inflammation, which is believed to be the risk of pterygium
recurrence. Tisseel fibrin glue provided adequate adhesion of conjunctival grafts to the ocular surface.
Keywords: pterygium surgery with conjunctival autograft, fibrin glue, vicryl.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mộng thịt là bệnh lý ở mắt, gặp ở vùng khe
mi góc trong và ngoài. Đó là khối tăng sinh lành
tính của kết mạc, có xu hướng lan rộng vào giác
mạc gây giảm thị lực. Mộng thịt ngày càng giữ
một vai trò quan trọng bởi nó không chỉ ảnh
hưởng đến thị lực, mà còn trực tiếp ảnh hưởng
đến thẩm mỹ, một vấn đề mà người bệnh ngày
càng ý thức hơn.
Thời gian gần đây có thêm nhiều cải tiến
trong phương pháp điều trị mộng thịt. Trong
đó, can thiệp ngoại khoa vẫn là một điều trị
được chọn lựa. Tác giả Kenyon(8) đã giới thiệu
kỹ thuật sử dụng mảnh ghép kết mạc tự thân
trong phẫu thuật điều trị mộng nguyên phát
tiến triển và tái phát. Mặc dù thời gian phẫu
thuật kéo dài hơn nhưng nó cho thấy tình an
toàn và hiệu quả trong việc làm giảm tỷ lệ tái
phát cũng như tránh được nguy cơ gặp phải các
biến chứng tiềm ẩn khác. Đối với phương pháp
này, mảnh ghép được giữ đúng vị trí nhờ các
loại chỉ không tan hoặc tan. Tuy vậy, việc dùng
chỉ có thể làm thời gian phẫu thuật kéo dài, kèm
theo một số trở ngại như kích ứng sau mổ và các
biến chứng liên quan đến chỉ khâu.
Sự ra đời của keo fibrin, một chế phẩm sinh
học hoạt động tương tự quy trình đông kết
fibrin trong cơ thể, đã mang lại nhiều sự lựa
chọn hơn cho ngành ngoại khoa nói chung và
ngành nhãn khoa nói riêng. Ứng dụng keo
fibrin vào phẫu thuật mộng thịt thay thế chỉ đã
được mô tả lần đầu tiên bởi Cohen và cộng sự(1)
năm 1993. Từ đó một số nghiên cứu được đưa ra
nhằm đánh giá tính hiệu quả và độ an toàn của
keo fibrin trong điều trị mộng thịt. Kết quả ghi
nhận thời gian phẫu thuật được rút ngắn, các
triệu chứng sau mổ giảm đáng kể cũng như tỷ lệ
tái phát được hạ thấp. Hiện nay tại Việt Nam
chưa có tài liệu nào báo cáo về phương pháp
dùng keo fibrin trong phẫu thuật điều trị mộng
thịt nguyên phát. Nhận thấy tính thiết thực của
vấn đề, cùng với nguồn keo fibrin của hãng
Baxter, một hãng uy tín trong lĩnh vực chế tạo
các chế phẩm sinh học, lần đầu tiên có mặt tại
Bệnh viện Mắt TPHCM, chúng tôi tin tưởng và
mạnh dạng nghiên cứu ứng dụng của keo fibrin
trong điều trị mộng thịt nguyên phát.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định hiểu quả và độ an toàn của keo
fibrin dùng trong phẫu thuật ghép kết mạc tự
thân điều trị mộng nguyên phát
Mục tiêu chuyên biệt
- Xác định hiểu quả điều trị của keo fibrin
dùng trong phẫu thuật ghép kết mạc tự thân
điều trị mộng nguyên phát
- Xác định tính an toàn của keo fibrin
- Phân tích yếu tố nguy cơ liên quan đến tái
phát sau mổ
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân đến khám và được chẩn
đoán mộng thịt nguyên phát tại khoa Giác mạc,
BV. Mắt TP. Hồ Chí Minh, từ tháng 4 năm 2010
đến hết tháng 3 năm 2011.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Mắt 131
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Mộng nguyên phát độ 2 và 3 (theo Lucio
Burato).
- Tuổi từ 40 đến 70.
- Chỉ số nhãn áp bình thường và không kèm
các bệnh lý khác ở mắt cũng như toàn thân.
- Không tiền căn dị ứng các thành phần keo
hay tiếp xúc aprotinin qua đường máu trong
vòng 12 tháng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tất cả những bệnh nhân không thỏa mãn các
tiêu chuẩn chọn mẫu ở trên, cũng như không
đồng ý tham gia nghiên cứu đều sẽ không được
đưa vào mẫu nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng.
Các bước tiến hành nghiên cứu
Trước phẫu thuật
Khám lâm sàng được thực hiện với bảng thị
lực Snellen, máy sinh hiển vi, đo nhãn áp kế
Schiozt, miếng nhuộm màu giác mạc và que thử
Schimmer.
Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên
theo từng cụm bằng lệnh của phần mềm R 2.12.2
vào hai lô nghiên cứu. Lô 1 dùng chỉ vicryl 8.0
để đính mảnh ghép khi thực hiện phẫu thuật
mộng ghép kết mạc tự thân, trong khi lô 2 sử
dụng keo fibrin thay thế chỉ.
Quá trình phẫu thuật
Phẫu thuật được thực hiện trên hai lô bởi
hai bác sĩ phẫu thuật với các bước hoàn toàn
như nhau. Sau khi gây tê cạnh cầu và bơm
phồng thân mộng bằng lidocain 2%, đầu
mộng được bóc tách tại vị trí vùng rìa về phía
giác mạc bằng kéo Westcott. Mô xơ mạch
dính lại trên giác mạc sẽ được gọt sạch với
dao 15. Phần thân mộng tiếp tục được bóc
tách và cắt bỏ cùng mô xơ dưới kết mạc, lưu ý
tránh làm tổn thương phần cơ bên dưới. Đốt
cầm máu và adrenaline nhỏ bề mặt là phương
tiện kiểm soát sự chảy máu trên phẫu trường.
Phần củng mạc để trần sau đó được phủ bởi
mảnh kết mạc ghép có cùng kích thước. Mảnh
ghép lấy từ vùng kết mạc thái dương trên và
bóc tách cẩn thận khỏi lớp Tenon bên dưới.
Sau đó nó được đặt lên giác mạc với phần
biểu mô hướng lên trên và phần rìa hướng về
phía rìa.
Đính mảnh ghép bằng chỉ:Mảnh ghép được
lật úp lại cho phần biểu mô tiếp xúc giường
củng mạc, rìa tiếp xúc rìa. Đính 4 góc mảnh
ghép lên củng mạc và kết mạc kế cận bằng chỉ
Vicryl 8.0. Bổ sung thêm các nốt chỉ giữa các góc
để phủ kín củng mạc. Đặt kính tiếp xúc mềm.
Đính mảnh ghép bằng keo Tisseel: Sau khi
chuẩn bị hai thành phần keo theo đúng hướng
dẫn của nhà sản xuất, mỗi thành phần được rút
vào ống xi-lanh 1cc riêng rẽ. Thấm khô mảnh
ghép và giường củng mạc. Cho một lượng vừa
đủ hỗn hợp thromin lên giường củng mạc, và
một lượng tương ứng hỗn hợp fibrinogen lên
mảnh ghép. Sau đó lật úp mảnh ghép để biểu
mô hướng xuống củng mạc, rìa tiếp xúc rìa.
Điều chỉnh mảnh ghép như mong muốn và giữ
nhẹ các mép trong khoảng 3 phút để keo đạt độ
chắc cần thiết. Đặt kính tiếp xúc mềm.
Sau phẫu thuật
Bệnh nhân tái khám vào ngày thứ 3, 10, 30
và tháng thứ 3, thứ 6 sau mổ. Tất cả đều được
dùng thuốc nhỏ kháng sinh trong 3 ngày đầu.
Sau đó thay thế bằng thuốc nhỏ kháng sinh kết
hợp kháng viêm 4 lần/ngày đến ngày thứ 30.
Kính tiếp xúc mềm được lấy ra vào ngày thứ 3.
Trong nhóm chỉ vicryl, các nốt chỉ được cắt vào
ngày thứ 10. Triệu chứng chủ quan sau mổ như
cộm xốn, kích thích và chảy nước mắt, cùng tình
trạng xuất huyết dưới kết mạc đều được đánh
giá vào các ngày thứ 3,10 và 30. Tình trạng viêm
đánh giá vào ngày thứ 30 sau mổ. Tất cả được
tính theo thang điểm ở Bảng 1.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 132
Bảng 1. Thang điểm đánh giá các triệu chứng sau
mổ.
Kết quả sau
phẫu thuật
Thang điểm
Triệu chứng
cộm xốn, kích
thích và chảy
nước mắt
0 Không có triệu chứng
1 Có triệu chứng nhưng không
ảnh hưởng sinh hoạt hằng
ngày
2 Có triệu chứng gây ảnh hưởng
một phần sinh hoạt hằng ngày
3 Có triệu chứng gây ảnh hưởng
hoàn toàn sinh hoạt hằng ngày
Xuất huyết
dưới kết mạc
0 Không xuất huyết
1 ≤25% kích thước mảnh ghép
2 ≤50% kích thước mảnh ghép
3 ≤75% kích thước mảnh ghép
4 Xuất huyết toàn bộ mảnh ghép
Viêm 0 Không có mạch máu dãn
ngoằn ngòeo qua mảnh ghép
1 Có 1 đến 2 mạch máu dãn
ngoằn ngòeo qua mảnh ghép
2 Có 3 mạch máu dãn ngoằn
ngòeo qua mảnh ghép
3 Có trên 3 mạch máu dãn ngoằn
ngòeo qua mảnh ghép
KẾT QUẢ
Tất cả 60 bệnh nhân đều hoàn thành thời
gian theo dõi 6 tháng. Trong số đó có 40 (66,7%)
nữ. Bệnh nhân có độ tuổi từ 40 đến 70 với mức
tuổi trung bình là 51,3 ± 8. Các đặc tính như tuổi,
giới, nghề nghiệp, hình thái mộng, độ mộng đều
không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên
cứu. Kết quả thống kê các triệu chứng sau phẫu
thuật ghi nhận vào mỗi thời điểm nhất định
được tổng kết trong Bảng 2.
Bảng 2. Kết quả phân tích các triệu chứng sau mổ.
Các triệu chứng
sau mổ
Giá trị P tại các thời điểm theo dõi
Ngày 3 Ngày 10 Ngày 30
Cộm xốn 0,009 <0,0001 1
Kích thích 0,003 <0,0001 1
Chảy nước mắt 0,001 0,195 -
Xuất huyết dưới
kết mạc
0,112 0,805 1
Viêm - - 0,02
Giá trị P có ý nghĩa thống kê được in đậm.
Các triệu chứng chủ quan sau mổ như cộm
xốn, kích thích và chảy nước mắt đều giảm rõ
rệt vào ngày thứ 3 và 10 ở nhóm sử dụng keo
Tisseel (P<0,05). Tình trạng viêm cũng giảm
trong nhóm này so với nhóm dùng chỉ vào ngày
thứ 30 sau mổ (P=0,02). Tất cả mảnh ghép trong
hai nhóm đều dính tốt. Không có biến chứng
nhiễm trùng, u hạt, viêm dính mi cầu hay hoại
tử củng mạc ở cả hai nhóm. Có 1 trường hợp
trong nhóm Tisseel, mảnh ghép bị co lại 1mm
phía mũi và sau đó biểu mô hóa bình thường
mà không ghi nhận tái phát qua 6 tháng theo
dõi. Không thấy có sự khác biệt về tình trạng
xuất huyết dưới kết mạc ở hai nhóm vào các
thời điểm đánh giá (P=0,112, P=0,805 và P=1, tại
thời điểm ngày 3, ngày 10 và 30 sau mổ).
Qua 6 tháng theo dõi, có 1 trường hợp tái
phát (3,3%) trong nhóm keo Tisseel và 2 trường
hợp tái phát (6,7%) trong nhóm chỉ. Phân tích
thống kê cho thấy không có sự khác biệt giữa
kết quả thu được từ hai nhóm (P=1). Vào tháng
thứ 3 sau mổ có hai ca tái phát, một ca thuộc
nhóm keo và một ca thuộc nhóm chỉ. Ca còn lại
của nhóm chỉ tái phát vào tháng thứ 6. Các ca tái
phát nêu trên đều có hình thái mộng ban đầu
dạng trung gian và thân dầy, và tình trạng viêm
đánh giá vào tháng thứ 1 sau mổ đều ở mức
trung bình nặng (Hình 1).
0
5
10
15
20
25
30
s
ố
c
a
Tisseel Vicryl
nhóm nghiên cứu
không tái phát
tái phát
Hình 1. Số ca tái phát trong hai nhóm nghiên cứu
sau 6 tháng.
BÀN LUẬN
Sự tái phát của mộng thịt sau phẫu thuật là
một biến chứng thường gặp, gây nhiều phiền
toái không chỉ với người bệnh mà còn là thách
thức lớn đối với các bác sĩ nhãn khoa. Từ năm
1960 đến đầu năm 1980, phương pháp cắt mộng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Mắt 133
để trần củng mạc được thực hiện phổ biến(5), tuy
vậy, đây là phương pháp có tỷ lệ tái phát khá
cao, lên đến 80%(5). Sau cột mốc năm 1985, khi
bài báo cáo của tác giả Kenyon được đăng tải(8),
phương pháp ghép kết mạc tự thân bắt đầu
được tiến hành rộng rãi. Mặc dù, các báo cáo
sau đó trên phương pháp này cho tỷ lệ tái phát
thay đổi từ 2,6% đến 39%(11), nhưng đến hiện
nay, ghép kết mạc tự thân vẫn là phương pháp
an toàn nhất và có tỷ lệ tái phát thấp nhất(5).
Nghiên cứu này đưa ra nhằm đánh giá hiệu
quả keo fibrin trong vai trò thay thế chỉ khi thực
hiện phẫu thuật ghép kết mạc điều trị mộng
nguyên phát. Keo fibirn được sử dụng tại Châu
Âu trong hơn 25 năm qua trên hơn 9,5 triệu ca
phẫu thuật(13). Keo fibrin sử dụng trong nghiên
cứu là bộ Tisseel Kit 1ml của hãng Baxter, trong
đó hai thành phần fibrinogen và thrombin đều
có nguồn gốc từ huyết tương người, đã được bất
hoạt virus qua quy trình xử lý chuyên biệt. Khi
hai thành phần tiếp xúc nhau, dưới tác động của
thrombin, chuỗi fibrinopeptide bị bẻ gãy thành
những đơn phân fibrin. Những đơn phân này
được kết hợp bởi các liên kết chéo để tạo thành
cục đông fibrin bền vững. Thời gian tạo cục
đông nhanh hay chậm tùy thuộc độ tập trung
của thrombin. Trong nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng thrombin 4UI tạo cục đông trong vòng 1
phút để có đủ thời gian cho việc thao tác.
Trong tổng số 60 bệnh nhân, số bệnh nhân
nữ (n=40) nhiều gấp đôi bệnh nhân nam
(n=20). Nhu cầu cũng như ý thức về thẩm mỹ
có phần cao hơn ở nữ giới có thể là nguyên
nhân giải thích cho sự chênh lệch này. Không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới
tính giữa hai nhóm trong nghiên cứu. Bệnh
nhân trong nghiên cứu có độ tuổi từ 40 đến 70
với mức tuổi trung bình 51,3. Có mối tương
quan mạnh mẽ giữa mộng thịt và độ tuổi. Tuy
mức tuổi càng cao thì tỷ lệ bệnh càng gia tăng,
nhưng tần suất bệnh cao nhất vẫn ở trong
khoảng tuổi từ 20 đến 49(4). Về hình thái
mộng, chiếm đa số trong nghiên cứu với
mộng trung gian (48,3%), kế đến là mộng thân
dầy (26,7%) và cuối cùng là mộng teo (25%).
Khi mộng thịt được phẫu thuật bằng các
phương pháp khác nhau không kết hợp điều
trị hóa học (Mitomycin C, 5-FU), phần lớn
trường hợp tái phát sẽ xảy ra vào khoảng từ
2,5 đến 12 tháng sau đó(7). Kết thúc thời gian
theo dõi 6 tháng, chúng tôi chưa nhận thấy có
sự khác biệt về tỷ lệ tái phát giữa nhóm chỉ và
keo. Ghi nhận có 1 ca (3,3%) tái phát trong
nhóm keo Tisseel và 2 ca (6,7%) trong nhóm
chỉ. Kết quả này tương tự kết quả của tác giả
Jiang(6), tuy thời gian theo dõi của hai nghiên
cứu có khác nhau. Với thời gian theo dõi dài
hơn (23 tháng), tác giả Koranyi(10) báo cáo tỷ lệ
tái phát 5,3% trong nhóm keo so với 13,5%
trong nhóm chỉ. Tác giả Farid(2) theo dõi trong
thời gian từ 22 đến 36 tháng cũng cho kết luận
tương tự về tỷ lệ tái phát thấp trong nhóm
keo.
Tỷ lệ tái phát thấp khi sử dụng keo fibrin
được cho là do tình trạng viêm sau mổ đã có
phần giảm đi so với việc dùng chỉ thông
thường. Tác giả Kheirkhah(9) đánh giá vai trò của
viêm kết mạc trong phẫu thuật mộng và ghi
nhận rằng có phản ứng viêm đáng kể trên
những mắt được sử dụng chỉ so với mắt được
dùng keo. Có mối liên quan giữa tình trạng
viêm kéo dài và kết quả phẫu thuật không được
như mong đợi. Với việc sử dụng keo fibrin, thao
tác trên mảnh ghép được thực hiện dễ dàng hơn,
không làm tổn thương thêm đến mảnh ghép
cũng như kết mạc lân cận, và vì thế phản ứng
viêm được giảm nhẹ. Ngoài ra, đối với trường
hợp bệnh nhân hợp tác kém, đảo mắt trong quá
trình mổ, thì việc dùng keo fibrin tỏ ra an toàn
và hiệu quả hơn. Những biến chứng như rách,
thủng mảnh ghép cũng được sửa chữa dễ dàng
khi thao tác với keo fibrin.
Lợi điểm rõ ràng nữa của keo fibrin chính là
khả năng giảm nhẹ các triệu chứng khó chịu cho
bệnh nhân thường thấy khi sử dụng chỉ. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chỉ vicryl 8.0
vì kích thước nhỏ và mềm. Do quá trình biểu
mô hóa kết mạc hoàn tất sau khoảng 7 ngày(3),
và dựa trên thăm khám lâm sàng, các nốt chỉ
chưa tiêu sẽ được cắt vào ngày 10 sau mổ, giúp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 134
giảm phản ứng viêm do chỉ và cải thiện triệu
chứng cho người bệnh. Dù vậy, kết quả vẫn cho
thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm so
sánh vào ngày 3 và 10. Khi các nốt chỉ được cắt,
các triệu chứng cải thiện dần ở nhóm chỉ.
Tuy có 1 trường hợp ở nhóm keo trong
nghiên cứu có tình trạng co rút mảnh ghép,
trường hợp này sau đó đã có sự biểu mô hóa kết
mạc bình thường và không ghi nhận tái phát sau
6 tháng theo dõi. Tác giả Ozdamar(12) cũng ghi
nhận có 1 trường hợp co rút nhẹ mảnh ghép
trong nghiên cứu của mình. Việc tách sạch lớp
Tenon bên dưới mảnh ghép có thể cải thiện
được hiện tượng này.
Keo fibrin mô phỏng bước cuối cùng của
chu trình đông cầm máu tự nhiên, do đó ngoài
tính năng kết dính còn thể hiện được khả năng
cầm máu tốt. Tác giả Ozdamar(12) quan sát thấy
trong quá trình phẫu thuật, giường củng mạc
được cầm máu tốt khi tiếp xúc với keo. Tuy
vậy,ở nghiên cứu của chúng tôi, cả hai nhóm
đều được cầm máu kĩ bằng đốt cầm máu kết
hợp adrenaline nhỏ bề mặt, có lẽ thế chúng tôi
chưa nhận thấy được sự khác biệt về khả năng
cầm máu tốt của keo trong quá trình phẫu thuật.
Không có sự khác biệt về mức độ xuất huyết
dưới kết mạc giữa hai nhóm trong các thời điểm
đánh giá.
Bất lợi chính của keo fibrin chính là giá
thành. Một bộ keo Tisseel 1ml có giá 150$ so với
5$ một tép chỉ vicryl. Trong nghiên cứu này, 1ml
keo được chúng tôi sử dụng trên 4 đến 5 ca,
nghĩa là giá thành phẫu thuật cho 1 ca với keo sẽ
đắt hơn phương pháp thông thường là 20$. So
về những lợi điểm khác mà keo fibrin mang lại
như rút ngắn thời gian phẫu thuật, đồng nghĩa
với tiết kiệm được thời gian cho bệnh nhân-bác
sĩ phẫu thuật và giảm tiêu hao y tế, các triệu
chứng sau mổ được giảm nhẹ, và tỷ lệ tái phát
sau đó có phần khả quan hơn, thì khoảng chi
phí phụ trội thêm đó cũng không phải là vấn đề
thực sự. Bộ keo fibrin 1ml có