Mở đầu: Thận nhân tạo là phương pháp điều trị suy thận mạn giai đọan cuối có hiệu quả. Sử dụng lại quả lọc là một giải pháp đơn giản để làm giảm chi phí trong lọc máu, đánh giá hiệu quả lọc máu ở các lần quả lọc sử dụng lại là vấn đề nghiên cứu được đặt ra. Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả lọc máu khi tái sử dụng quả lọc ở bệnh nhân lọc máu (LM) định kì tại bệnh viện An Sinh từ 31/03 đến 30/07/2010. Phương pháp: Đoàn hệ tiến cứu. Kết quả: Nghiên cứu 61 quả lọc Rexeed 13L được sử dụng trên 61 bệnh nhân LM định kì với 610 cuộc lọc máu (mỗi quả sử dụng 10 lần) tại BV Đa Khoa An Sinh, chúng tôi thấy: tỷ lệ hạ urê (URR) trung bình lần 1 là 75,38 3,03 % và Kt/V 1,41 0,13, đến lần sử dụng thứ 5 thì URR 73,05 2,12 và Kt/V 1,31 0,08, đến lần sử dụng thứ 10 thì URR 71,09 1,74 và Kt/V 1,24 0,06, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P < 0,001. Hiệu quả lọc máu có giảm do tái sử dụng quả lọc nhưng vẫn nằm trong giới hạn cho phép của một cuộc chạy. Kết luận: Quả lọc Rexeed 13L hòan tòan có thể sử dụng 10 lần.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả lọc máu khi tái sử dụng quả lọc ở bệnh nhân lọc máu định kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 212
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ LỌC MÁU KHI TÁI SỬ DỤNG QUẢ LỌC
Ở BỆNH NHÂN LỌC MÁU ĐỊNH KỲ
Nguyễn Đức Lộc*, Trần Thị Bích Hương**
TÓM TẮT
Mở đầu: Thận nhân tạo là phương pháp điều trị suy thận mạn giai đọan cuối có hiệu quả. Sử dụng lại quả
lọc là một giải pháp đơn giản để làm giảm chi phí trong lọc máu, đánh giá hiệu quả lọc máu ở các lần quả lọc sử
dụng lại là vấn đề nghiên cứu được đặt ra.
Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả lọc máu khi tái sử dụng quả lọc ở bệnh nhân lọc máu (LM) định kì tại bệnh
viện An Sinh từ 31/03 đến 30/07/2010.
Phương pháp: Đoàn hệ tiến cứu.
Kết quả: Nghiên cứu 61 quả lọc Rexeed 13L được sử dụng trên 61 bệnh nhân LM định kì với 610 cuộc lọc
máu (mỗi quả sử dụng 10 lần) tại BV Đa Khoa An Sinh, chúng tôi thấy: tỷ lệ hạ urê (URR) trung bình lần 1 là
75,38 3,03 % và Kt/V 1,41 0,13, đến lần sử dụng thứ 5 thì URR 73,05 2,12 và Kt/V 1,31 0,08, đến lần
sử dụng thứ 10 thì URR 71,09 1,74 và Kt/V 1,24 0,06, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P < 0,001. Hiệu quả
lọc máu có giảm do tái sử dụng quả lọc nhưng vẫn nằm trong giới hạn cho phép của một cuộc chạy.
Kết luận: Quả lọc Rexeed 13L hòan tòan có thể sử dụng 10 lần.
Từ khóa: Hiệu quả lọc máu, tái sử dụng quả lọc, lọc máu định kì.
ABSTRACT
STUDY ON EFFECTIVENESS OF LONG-TERM HEMODIALYSIS OF REUSED DIALYZER FOR
PATIENTS WITH CHRONIC RENAL FAILUREAT
Nguyen Duc Loc, Tran Thi Bich Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 212 - 218
Background: An artificial kidney is an effective treatment method for patients with a chronic renal failure.
The cost of can be reduced by taking a simple method, hemodialyser reuse. However, the efficacy of this method
needs to be surveyed.
Objectives: Study on effectiveness of long term hemodialysis of reused dialyzer for patients with chronic
renal failureat.
Method: Cohort prospective study.
Result: Study of 61 dialyzer reuses which are used on 61 patients applied long-term hemodialysis, with total
of 610 times of dialysises (each dialyzer are used 10 times) we revealed that: average URR in the first time is 75.38
3.03 % and Kt/V 1.41 0.13, in the five reuse: URR 73.05 2.12 and Kt/V 1.31 0.08, in the ten reuse: URR
71.09 1.74 and Kt/V 1.24 0.06. The differences is statistically significant p<0,001.The blood coagulation in
dialyzer affected on hemodialysis effectiveneess.
Conclusion: The dialyzer of Rexeed 13L could be used to hemodialysis for 10 times.
Key words: Hemodialysis effectiveness, reused dialyzer, long term hemodialysis.
* Bệnh viện An Sinh ** Bệnh viện Chợ Rẫy , Đại Học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: BS. Nguyễn Đức Lộc. ĐT: 0908282099. Email: ducloc09@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 213
MỞ ĐẦU
Suy thận mạn (STM) là hậu quả khó tránh
khỏi của các bệnh nhân (BN) bị bệnh thận mạn
tính. Hiện nay trên thế giới bệnh nhân suy thận
mạn ngày càng gia tăng. Fish B.T và cộng sự
(2000) thống kê ở Mỹ tỉ lệ suy thận mạn đã tăng
gần 8% trong 1 năm(5). Đặc biệt ở Việt Nam khi
số bệnh nhân suy thận mạn giai đọan cuối được
ghép thận chưa nhiều thì thận nhân tạo là
phương pháp để duy trì cuộc sống cho họ. Lọc
máu ngòai thận, đặc biệt Thận nhân tạo là một
trong những phương pháp điều trị thay thế một
phần chức năng của thận phổ biến nhất. Thận
nhân tạo (TNT) sử dụng kết hợp máy thận nhân
tạo với quả lọc và dịch lọc. Kỹ thuật lọc máu
ngòai thận ngày càng được hòan thiện nhờ
những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ
thuật, do đó những năm gần đây chất lượng
cuộc sống của những bệnh nhân lọc máu chu kỳ
đã được cải thiện đáng kể. Nhất là từ đầu những
năm 1980 khi có sự hiện diện của quả lọc với
chất liệu tổng hợp đã nâng cao hơn nữa hiệu
quả lọc máu(7).Trong lọc máu bằng thận nhân
tạo, việc sử dụng quả lọc 1 lần là điều lý tưởng
nhất nhưng rất khó thực hiện vì lý do kinh tế chi
phí cho phương pháp điều trị này là khá tốn
kém. Chính vì vậy, hầu hết các nước trên thế
giới tái sử dụng quả lọc trong lọc máu chu kỳ.Ở
Mỹ, 3/4 số bệnh nhân lọc máu phải sử dụng lại
quả lọc(21), 100% các trung tâm lọc máu ở Việt
Nam có sử dụng lại quả lọc thận(13). Nghiên cứu
về tái sử dụng quả lọc đã được vài tác giả trong
nước đề cập đến nhưng cỡ mẫu còn ít.Khoa lọc
máu bệnh viện Đa Khoa An Sinh được thành lập
từ 5/2006. Vấn đề tái sử dụng quả lọc đã được
áp dụng, xuất phát từ thực tế đó tôi tiến hành đề
tài này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá hiệu quả lọc máu khi sử dụng lại
quả lọc 10 lần trên bệnh nhân lọc máu định kì.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Đoàn hệ tiến cứu.
Dân số nguồn
Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối đang
lọc máu định kì tại khoa Thận nhân tạo bệnh viện
An Sinh từ tháng 03/2010 đến 07/2010.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân >18 tuổi đang lọc máu định kì tại
bệnh viện An Sinh có chỉ số lọc ổn định trong
vòng 3 tháng, có lưu lượng cầu nối động –tĩnh
mạch >250ml/phút, không rối loạn đông máu,
không có bệnh lý cấp tính kèm theo và lọc máu
đủ 3l lần/tuần.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những bệnh nhân không đáp ứng các tiêu
chuẩn chọn bệnh.
Phương pháp nghiên cứu
Mỗi bệnh nhân sẽ sử dụng màng lọc Low-
flux Rexeed 13l của Asahi tái sử dụng lại 10 lần,
các lần lọc có cùng chung vận tốc máu
250ml/phút, cùng vận tốc dịch lọc 500ml/phút
và cùng thời gian lọc, cùng dịch Bicarbonate.
Trang thiết bị sử dụng trong nghiên cứu
Máy chạy thận nhân tạo Nipro Surdial 55 có
hệ thống điều khiển siêu lọc tự động, dịch lọc
Bicarbonate của hãng Nipro sản xuất theo tiêu
chuẩn GMP,hệ thống xử lý nước RO
OSMONICS E4 tạo ra nước tinh khiết RO theo
đúng tiêu chuẩn AAMI, màng lọc Polysulfon
ASAHI với diện tích màng lọc 1.3m2, hệ số siêu
lọc (Kuf) 11ml/hr/mmHg, dung tích máu mồi là
76ml, hệ số thanh thải urê là 255ml/min, hệ số
thanh thải Creatinne 241ml/min (với Qb:
300ml/phút, Qd: 500 ml/phút, Qf: 0, T: 37 độ C).
Các kỹ thuật được áp dụng trong nghiên
cứu
Kỹ thuật lọc máu: Sử dụng phương pháp lọc
máu thường qui (Hemodialysis).Đặt Kt/V = 1.2
với thời gian 04 giờ/lần lọc và 03 lần/tuần.Lưu
lượng máu (Qb) 250ml/phút, được đặt ra cụ thể
cho từng bệnh nhân để đạt được hiệu quả lọc máu
đặt ra.Lưu lượng dịch (Qd) 500ml/phút.Dịch lọc
Bicarbonate.Thuốc kháng đông heparin liều 120-
150UI /kg, dùng theo phương pháp liên tục.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 214
Kỹ thụât rửa, sử dụng lại quả lọc thận: Rửa
với máy RENATRON có cài đặt chế độ sẵn với
dung dịch tiệt trùng là Renalin.
Kỹ thuật lấy máu xét nghiêm: không truyền
dịch, máu trong cuộc lọc có xét nghiêm.Lấy mẫu
máu trước lọc: lấy 1,5ml máu qua kim chọc
đường động mạch ngay trước khi kết nối với máy
thận. Lấy mẫu máu sau lọc: theo phương pháp
lấy máu dòng chậm (để máy thận nhân tạo ở chế
độ Standby UF = 0, giảm vận tốc máu còn
50ml/phút).
Tính các chỉ số đánh giá hiệu quả lọc máu:
Tỷ lệ hạ urê trước và sau lọc máu: URR (%) =
(Co-Ct)x100/Co.
Kt/V là chỉ số so sánh giữa tổng lượng dịch
lọc sạch urê(Kt) và thể tích phân bố urê trong
cơ thể (V): Kt/V = Ln Co/Ct (Co nồng độ urê
trong máu trước lọc,Ct nồng độ urê trong máu
sau lọc, t thời gian lọc máu được tính bằng giờ,
Ln logarit bậc n).
Xử lý số liệu
Theo thuật tóan thống kê y học, sử dùng
phần mềm SPSS 18.0
KẾT QUẢ
Trong 61 bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu
có 35 nữ (chiếm tỷ lệ 57,4%) và 26 nam (chiếm tỷ
lệ 42,6%). Độ tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu
là: 51,33 21,09.
Bảng 1: Phân bố theo các nguyên nhân gây suy thận.
STT Nguyên nhân (n) (%)
1 Viêm cầu thận mạn 21 34,4
2 Tăng huyết áp 19 31,2
3 Đái tháo đường 13 21,31
4 Hội chứng thận hư 1 1,63
5 Lupus ban đỏ 1 1,63
6 Thận đa nang 1 1,63
7 Chưa rõ nguyên nhân 5 8,2
8 Tổng cộng 61 100
Bảng 2: Nồng độ bun máu trung bình trước và sau
lọc máu.
Lần sử dụng quả lọc Thời gian
BUN máu (mmol/l) Lần 1 Lần 5 Lần 10
Trước lọc máu 65,85
15,44
60,39
17,55
62,94
18,65
Lần sử dụng quả lọc Thời gian
BUN máu (mmol/l) Lần 1 Lần 5 Lần 10
Sau lọc máu 16,14
3,75
16,16
4,63
18,12
0,67
P <0.001 <0.001 <0.001
Bảng 3: Nồng độ Creatinin trung bình trước và sau
lọc máu.
Lần sử dụng quả lọc Thời gian
Creatimin
(mmol/l)
Lần 1 Lần 5 Lần 10
Trước lọc máu 11,64 3,24 11,09 3,15 11,15 3,27
Sau lọc máu 4,48 1,45 4,33 1,34 4,61 2,04
p < 0.001 < 0.001 < 0.001
Bảng 4: Tỷ lệ hạ urê máu trung bình theo lần sử
dụng quả lọc.
Lần sử dụng quả lọc Thời gian
Chỉ số nghiên
cứu
Lần 1 Lần 5 Lần 10
URR (%) 75,38 3,03 73,05 2,12 71,09 1,74
< 0.001 P URR
< 0.001
Bảng 5: Chỉ số Kt/V theo lần sử dụng quả lọc.
Chỉ số nghiên cứu Lần 1 Lần 5 Lần 10
Kt/V thực tế 1,41 0,13 1,31 0,08 1,24 0,06
< 0.001 P Kt/V
< 0.001
Bảng 6: Bảng so sánh K+, Ca++ và RA trước và sau
lọc máu.
Chỉ số
nghiên cứu
K+
(mmol/l)
Ca++
(mmol/l) RA
Trước lọc lần 1 5,23 0,49 1,93 0,75 18,74 1,55
Sau lọc lần 1 3,49 0,3 2,21 0,11 22,7 1,11
Trước lọc lần 5 5,18 0,41 1,99 0,85 19,4 1,5
Sau lọc lần 5 3,47 0,28 2,26 0,12 23,35 1,14
Trước lọc lần 10 5,02 0,38 1,99 0,71 19,69 1,35
Sau lọc lần 10 3,42 0,23 2,28 0,12 23,6 1,23
p <0,001 <0,001 <0,001
BÀN LUẬN
Theo Herbert F.K và CS (1981) gặp 8 loại
nguyên nhân gây suy thận mạn giai đọan cuối
và nguyên nhân hàng đầu là do viêm cầu thận
mạn 65,2%, viêm thận bể thận 11,5%, tăng huyết
áp 9%. Theo Trần Văn Chất và CS (1996) nguyên
nhân hay gặp nhất của STM giai đọan cuối là
bệnh lý cầu thận 71,9%(20). Theo tác giả Ngô
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 215
Quân Vũ và CS (2006) gặp 7 nguyên nhân gây
STM giai đọan cuối trong đó nguyên nhân do
viêm cầu thận mạn là chủ yếu(10). Kết quả nghiên
cứu của tôi cũng tương tự như các tác giả trên
gặp từ 6-8 loại nguyên nhân gây STM (bảng 1).
Trong 61 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của
tôi thì nguyên nhân gặp nhiều nhất là do viêm
cầu thận mạn 34,4%; Tăng huyết áp 31,2%; Đái
tháo đường 21,31%; Hội chứng thận hư 1,63%;
Lupus đỏ hệ thống 1,63%; Thận đa nang 1,63%;
Chưa rõ nguyên nhân 8,2%. Bệnh viêm cầu thận
mạn gặp nhiều ở lứa tuổi lao động(20) nên ảnh
hưởng đến sức lao động của tòan xã hội. Tăng
huyết áp gây tổn thương thận, nhưng bệnh thận
cũng là nguyên nhân gây tăng huyết áp. Ở giai
đọan muộn khi bệnh nhân vừa có tăng huyết áp
vừa có suy thận thì khó phân biệt được tăng
huyết áp là nguyên nhân hay là hậu quả. Vấn đề
phòng ngừa và điều trị tăng huyết áp một cách
hệ thống sẽ làm giảm nhiều tỷ lệ bệnh nhân
STM giai đọan cuối phải điều trị bằng lọc máu
chu kỳ. Trong nghiên cứu này tỷ lệ STM chưa rõ
nguyên nhân 8,2%, có thể người bệnh đến từ
nhiều vùng địa lý khác nhau, có điều kiện kinh
tế khó khăn, mặt khác còn do tình hình dân trí
và không được theo dõi chăm sóc y tế thường
xuyên liên tục.
Kết quả bảng 2 cho thấy nồng độ Bun
trung bình sau lọc máu ở các lần thứ 1, thứ 5,
thứ 10 giảm so với trước lọc máu có ý nghĩa
thống kê với p < 0.001. Nồng độ Bun trung
bình sau lọc máu thấp nhất ở lần thứ 1 (16,14
3,75 mg/dl), tăng cao dần theo lần tái sử
dụng quả lọc, cao nhất ở lần thứ 10 (18,12
0,67 mg/dl), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
vớp p < 0,001.Kết quả bảng 3 cho thấy nồng
độ Creatinin trung bình sau lọc máu ở các lần
thứ 1, thứ 5, thứ 10 giảm so với trước lọc máu
có ý nghĩa thống kê với p < 0.001. Theo
nghiên cứu của Trương Viết Trường và CS
(2008) về việc tái sử dụng quả lọc FB-150E 6
lần cho thấy nồng độ urê trung bình sau lọc
máu thấp nhất ở lần thứ 1, tăng dần theo lần
tái sử dụng quả lọc và cao nhất ở lần thứ 6, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0.01(23). Theo
nghiên cứu của Ngô Quân Vũ và CS (2006) về
việc tái sử dụng lại quả lọc Polysulfone F6-
HPS của Fresenius 6 lần củng cho thấy nồng
độ trung bình sau lọc máu thấp nhất ở lần thứ
1 và tăng dần theo lần tái sử dụng quả lọc và
cao nhất ở lần thứ 6(10). Kết quả nghiên cứu
của tôi tương tự như hai tác giả này nhưng
quả lọc polysulfone Rexeed 13L của Asahi tái
sử dụng lại 10 lần. Như vậy, sử dụng lại quả
lọc là nguyên nhân gây tăng dần nồng độ urê
sau lọc máu. Nói cách khác, có hiện tượng
tích lũy urê trong khi tái sử dụng quả lọc.
Sự phục hồi sức khỏe tối đa cho các bệnh
nhân suy thận mạn giai đọan cuối điều trị lọc
máu chu kỳ được coi là chất lượng lọc máu hay
lọc máu tối ưu. Mục đích của lọc máu tối ưu là
kéo dài tuổi thọ và mang lại chất lượng sống
cho bệnh nhân suy thận mạn giai đọan cuối gần
giống với người bình thường(3,12).Khái niện về
lọc máu tối ưu được hình thành từ những năm
1970, được xây dựng dưa trên các tiêu chuẩn để
đánh giá tòan bộ chất lượng hiệu quả của quá
trình lọc máu. Năm 1983 nghiên cứu National
corperative dialysis study dựa trên độ thanh
thải ure ở trên bệnh nhân cho thấy ure là một
trong những đại diện cho lọc máu tối ưu. Cùng
thời điểm này công nghệ về sản xuất quả lọc đã
được phát triển để đạt hiệu quả thanh thải cho
cả chất có trọng lượng phân tử thấp và cao. Sụ
phối hợp các sự kiện này đã hổ trợ cho lọc máu
chỉ cần thời gian ngắn với mong muốn thải chất
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 216
có trọng lượng phân tử thấp và trung bình. Như
vậy một xu hướng lọc máu ngắn hạn đã ra đời.
Kỹ thuật lọc máu đã có nhiều thay đổi trong
thập kỷ qua, nó được thể hiện qua sự gia tăng
chỉ định kỹ thuật lọc máu hiệu quả cao và lọc
máu với màng lọc có hệ số siêu lọc cao. Càng
ngày người ta quan tâm nhiều hơn đến liều lọc
máu, năm 1997 ở Mỹ đã có 50% bệnh nhân sử
dụng màng lọc có hệ số siêu lọc cao và gần 40%
sử dụng lọc máu hiệu quả cao(6). Ở phương
pháp lọc máu ngắn thời gian lọc máu từ 150-360
phút, vận tốc máu từ 350-500ml/phút (thương ở
vận tốc 400ml/phút). Vận tốc dịch lọc ở mức tối
đa, tăng từ 500-800 ml/phút có thể tăng độ thanh
thải lên 10% với bất cứ vận tốc máu nào(15). Cho
đến nay, để đánh giá hiệu quả lọc máu các nhà
thận học đều dựa vào chỉ số Kt/V và URR(8).
Nguyễn Nguyên Khôi và CS (1999) nhận xét về
mối liên quan giữa Kt/V, URR và diễn biến lâm
sàng nhận thấy: có mối liên quan tỷ lệ thuận
giữa kết quả lâm sàng và tỷ lệ đào thải urê
máu(12). Có nghĩa độ thanh thải urê và Creatinin
càng cao thì tiến triển lâm sàng ngày càng tốt
hơn. Ở bệnh nhân suy thận mạn điều trị bằng
lọc máu chu kỳ sẽ có tỷ lệ tử vong cao khi giá trị
chỉ số Kt/V urê nhỏ hơn 0.8 và tỷ lệ tử vong
giảm dần khi giá trị Kt/V tăng dần từ 0.9 đến
1.5(9). Sự liên quan giữa tỷ lệ tử vong và tỷ lệ
giảm urê máu (URR) cũng được nhiều tác giả đề
cập. khi URR thấp dưới 60% thì tỷ lệ tử vong
cao và khi URR đạt từ 65-70% thì tỷ lệ tử vong
giảm nhiều(9).Tổ chức thận học quốc gia Hoa Kỳ
(NKF-DOQI) trong chương trình hành động vì
chất lượng lọc máu có khuyến cáo: để đạt được
chất lượng của một cuộc lọc máu thì URR phải ≥
65% và Kt/V ≥ 1.2(16). DOQI (1997) trong công bố
phần thực hành lọc máu tối ưu đã đưa ra tiêu
chuẩn lọc máu đầy đủ được chuyển từ chế độ
duy trì sự sống bệnh nhân sang việc đảm bảo
chất lượng cuộc sống bệnh nhân STM giai đọan
cuối lọc máu chu kỳ; và trên cơ sở đó đưa ra tiêu
chuẩn cho một buổi lọc máu có hiệu quả là chỉ
số Kt/V Urê phải > 1.2(16). URR là tỷ lệ hạ urê của
cuộc lọc máu được tính bởi nồng độ urê trước
và sau lọc máu. Khi các thông số: lưu lượng
máu, lưu lượng dịch và thời gian cuộc lọc máu
ổn định thì hiệu quả lọc máu phụ thuộc chủ yếu
vào chất lượng quả lọc khi tái sử dụng. Tỷ lệ hạ
urê trung bình cao nhất ở lần thứ 1 là 75,38
3,03 tỷ lệ này giảm 3,09% ở lần thứ 5 (73,05
2,12) và giảm nhiều nhất là 5,69% ở lần thứ 10
(71,09 1,74) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p < 0.001 (bảng 4). Vậy, tái sử dụng quả lọc
làm giảm hiệu quả lọc urê máu. Ảnh hưởng lên
độ thanh thải các chất có trọng lượng phân tử
lớn hơn như: creatinin, β2 microglobulin... thay
đổi như thế nào, đây là vấn đề cần có một
nghiên cứu tiếp theo.
Theo nghiên cứu Ngô Quân Vũ và CS (2006)
tỷ lệ giảm URR ở lần thứ 6 là 8,91%(10), theo tác
giả Nguyễn Nguyên Khôi và CS thì tỷ lệ giảm
URR ở lần thứ 6 là 5,22%(14). Tỷ lệ giảm URR ở
lần thứ 10 trong nghiên cứu của tôi là 5,69%
thấp hơn trong nghiên cứu của tác giả Ngô
Quân Vũ và gần như tương tự như trong nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Nguyên Khôi. Sự khác
nhau này có thể là do trong nghiên cứu của hai
tác giả trên sử dụng màng lọc có hệ số siêu lọc
thấp hơn và tái chế quả lọc theo phương pháp
thủ công. Tỷ lệ giảm URR ở lần thứ 10 trong
nghiên cứu của tôi cao hơn kết quả nghiên cứu
của Cheung AK và CS (1-2% cho 10 lần tái sử
dụng)(2). Sự khác nhau này có thể do hệ số siêu
lọc của màng lọc sử dụng trong nghiên cứu của
Cheung AK cao hơn so với hệ số siêu lọc của
màng lọc trong nghiên cứu của tôi. Kt/V là chỉ
số so sánh giữa lượng máu (dịch) được làm sạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 217
urê (Kt: đây là giá trị ảo vì không thể nào lọc
sạch hòan tòan lượng urê trong một đơn vị thể
tích) và thể tích urê hòa tan trong cơ thể (V), thể
tích này được tính bằng tòan bộ lượng nước
trong cơ thể. Kết quả bảng 5 cho thấy rằng: chỉ
số Kt/V trung bình khi sử dụng quả lọc lần 1 là
1,41 0,13, chỉ số này giảm dần khi sử dụng lại
quả lọc, tỷ lệ giảm 7.09% ở lần thứ 5 (1,31 0,08)
và giảm nhiều nhất là 12,06% ở lần thứ 10 (1,24
0,06), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <
0.001. Như vậy tái sử dụng quả lọc cũng làm
giảm chỉ số Kt/V. Giá trị URR trung bình ở lần
lọc thứ 10 là 71,09 1,74% và giá trị của Kt/V
trung bình ở lần thứ 10 là 1,24 0,06. Theo tiêu
chuẩn DOQI, hiệu quả ở lần thú 10 vẫn đảm bảo
cho bệnh nhân.
Qua bảng 6 ta thấy nống độ K+ trong máu
sau lọc ở các lần lọc thứ 1, thứ 5, thứ 10 giảm so
với trước lọc nhưng vẫn nằm trong giới hạn
bình thường (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
p<0.001). Thông qua bảng trên nồng độ Ca++ và
RA máu tăng từ giá trị dưới ngưỡng bình
thường lên giới hạn bình thường (sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê p<0.001).Như vậy, tái sử
dụng quả lọc 10 lần vẫn đảm bảo tốt được vấn
đề quân bình điện giải và thăng bằng kiềm toan
bên cạnh đảm bảo hiệu quả lọc máu cho bệnh
nhân để duy trì sự sống.
Như vậy, lọc máu chu kỳ bằng quả lọc
Polysulfone Rexeed 13L của Ashahi với sự tái sử
dụng 10 lần là vẫn đảm bảo hiệu quả lọc máu
cho bệnh nhân để duy trì cuộc sống.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 61 bệnh nhân suy thận mạn
lọc máu định kì về hiệu quả lọc máu có tái sử
dụng 10 lần với màng lọc Rexeed 13l của Ashahi
(hệ số siêu lọc: 11ml/hr/mmHg) tại Bệnh Viện
An Sinh, tôi nhận thấy: Tỷ lệ hạ urê trung bình
cao nhất ở lần thứ 1 là 75,38 3,03 tỷ lệ này ở lần
thứ 5 (73,05 2,12) và giảm nhiều nhất ở lần thứ
10 (71,09 1,74) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p < 0,001.Chỉ số Kt/V trung bình khi sử dụng
quả lọc lần 1 là 1,41 0,13, chỉ số này giảm dần
khi sử dụng lại quả lọc, tỷ lệ giảm ở lần thứ 5
(1,31 0,08) và giảm nhiều nhất là ở lần thứ 10
(1,24 0,06), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,001.
Quả lọc sau 10 lần tái sử dụng thì các chỉ số
Kt/V và URR nằm trong giới hạn khuyến cáo
của NKF-DOQI (Kt/V ≥ 1.2 và URR≥ 64%). Như
vậy,hiệu quả lọc máu của quả lọc sau 10 lần tái
sử dụng vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Anh Tuấn (2002). Nghiên cứu lâm sàng, chức năng phổi và
trạng thái cân bằng acid-base ở bệnh nhân suy thận mạn