Đặt vấn đề: Trong các trường hợp phẫu thuật điều trị vô sinh nam, đa số các bệnh nhân có tâm lý ngượng
ngùng, phần lớn yêu cầu được gây mê. Phương pháp vô cảm thông dụng hiện nay là gây tê tủy sống, có nhiều
bất lợi về mặt tâm lý người bệnh khi nằm trên bàn mổ để phẫu thuật trên vùng nhạy cảm.
Với những ưu điểm về ổn định huyết động khi đặt và rút MNTQ, giảm được những biến chứng sau mổ
cũng như đặt MNTQ không cần dãn cơ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng mặt nạ thanh quản trong điều
trị vô sinh nam bệnh nhân phẫu thuật vùng bìu.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả thông khí, tính ổn định huyết động và sự hài lòng của bệnh nhân gây mê toàn
diện sử dụng mặt nạ thanh quản so với phương pháp gây tê tủy sống trong gây mê phẫu thuật vô sinh nam.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, so sánh - kiểm chứng lâm sàng. 72 bệnh nhân bị vô sinh nam có ASA
1, 2, 3 được mổ chương trình để điều trị tình trạng vô sinh nam, chia thành hai nhóm: gây mê toàn diện sử dụng
mặt nạ thanh quản (MNTQ) và gây tê tủy sống một cách ngẫu nhiên, chọn cỡ MNTQ số 3 hoặc 4; gây tê tủy
sống với Bupivacaine heavy 0,5% 10 - 12 mg. Thu thập các số liệu: mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp
tâm trương (HATTr), áp lực đường thở, SpO2 và ETCO2, biến chứng trong và sau gây mê, gây tê.
Kết quả: Các thông số về thông khí và huyết động trong gây mê giữa MNTQ và gây tê tủy sống: SpO2
99,06 ± 0,71 % và 99,02 ± 0,39 %, (riêng nhóm MNTQ: ETCO2 35,45 ± 1,52 mmHg, áp lực đường thở 15,53 ±
2,13 cmH2O); mạch và huyết áp ổn định trong cả 2 nhóm.
Kết luận: Gây mê toàn diện với mặt nạ thanh quản, gây tê tủy sống với Bupivacaine; cả hai phương pháp
vô cảm đều hiệu quả và an toàn trong gây mê - phẫu thuật điều trị vô sinh nam, gây mê toàn diện ít ảnh hưởng
huyết động, giảm được sự lo âu sợ hãi khi phẫu thuật và đa số bệnh nhân rất hài lòng với phương pháp vô cảm
này, gây tê tủy sống thích hợp cho những trường hợp cần sự tỉnh táo trong khi phẫu thuật.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả, sự hài lòng của gây tê tủy sống và gây mê toàn diện sử dụng mặt nạ thanh quản trong phẫu thuật vô sinh nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 383
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ, SỰ HÀI LÒNG CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG
VÀ GÂY MÊ TOÀN DIỆN SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN
TRONG PHẪU THUẬT VÔ SINH NAM
Trần Đỗ Anh Vũ*, Trần Thị Ngọc Phượng**, Nguyễn Thị Túy Phượng*, Nguyễn Văn Chinh*,
Nguyễn Văn Chừng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong các trường hợp phẫu thuật điều trị vô sinh nam, đa số các bệnh nhân có tâm lý ngượng
ngùng, phần lớn yêu cầu được gây mê. Phương pháp vô cảm thông dụng hiện nay là gây tê tủy sống, có nhiều
bất lợi về mặt tâm lý người bệnh khi nằm trên bàn mổ để phẫu thuật trên vùng nhạy cảm.
Với những ưu điểm về ổn định huyết động khi đặt và rút MNTQ, giảm được những biến chứng sau mổ
cũng như đặt MNTQ không cần dãn cơ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng mặt nạ thanh quản trong điều
trị vô sinh nam bệnh nhân phẫu thuật vùng bìu.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả thông khí, tính ổn định huyết động và sự hài lòng của bệnh nhân gây mê toàn
diện sử dụng mặt nạ thanh quản so với phương pháp gây tê tủy sống trong gây mê phẫu thuật vô sinh nam.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, so sánh - kiểm chứng lâm sàng. 72 bệnh nhân bị vô sinh nam có ASA
1, 2, 3 được mổ chương trình để điều trị tình trạng vô sinh nam, chia thành hai nhóm: gây mê toàn diện sử dụng
mặt nạ thanh quản (MNTQ) và gây tê tủy sống một cách ngẫu nhiên, chọn cỡ MNTQ số 3 hoặc 4; gây tê tủy
sống với Bupivacaine heavy 0,5% 10 - 12 mg. Thu thập các số liệu: mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp
tâm trương (HATTr), áp lực đường thở, SpO2 và ETCO2, biến chứng trong và sau gây mê, gây tê.
Kết quả: Các thông số về thông khí và huyết động trong gây mê giữa MNTQ và gây tê tủy sống: SpO2
99,06 ± 0,71 % và 99,02 ± 0,39 %, (riêng nhóm MNTQ: ETCO2 35,45 ± 1,52 mmHg, áp lực đường thở 15,53 ±
2,13 cmH2O); mạch và huyết áp ổn định trong cả 2 nhóm.
Kết luận: Gây mê toàn diện với mặt nạ thanh quản, gây tê tủy sống với Bupivacaine; cả hai phương pháp
vô cảm đều hiệu quả và an toàn trong gây mê - phẫu thuật điều trị vô sinh nam, gây mê toàn diện ít ảnh hưởng
huyết động, giảm được sự lo âu sợ hãi khi phẫu thuật và đa số bệnh nhân rất hài lòng với phương pháp vô cảm
này, gây tê tủy sống thích hợp cho những trường hợp cần sự tỉnh táo trong khi phẫu thuật.
Từ khóa: mặt nạ thanh quản, gây tê tủy sống, phẫu thuật vô sinh nam.
ABSTRACT
THE EFFECT, SATISFACTION OF SPINAL ANESTHESIA AND GENERAL ANESTHESIA WITH
LARYNGEAL MASK AIRWAY FOR SURGERY OF MALE INFERTILITY
Tran Do Anh Vu, Tran Thi Ngoc Phuong, Nguyen Thi Tuy Phuong, Nguyen Van Chinh,
Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 383 - 390
Background: In the case of surgical treatment of male infertility, the majority of patients with psychological
embarrassment, most require general anesthesia. Method of anesthesia is now commonly used spinal anesthesia,
there are many disadvantages in terms of psychological patient lying on the operating table for surgery on
* Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Bình Dân, Tp. HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Đỗ Anh Vũ ĐT: 0903 181 976 Email: trandoanhvu@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 384
sensitive areas. With the advantages of hemodynamic stability when placing and withdrawal LMA, reduce
postoperative complications as well as put LMA without muscle relaxants, we undertook research laryngeal mask
use in the treatment of male infertility patients surgery of the scrotum.
Objective: The purpose of our study to determine the effect of ventilation and the hemodynamic stability
when using laryngeal mask airway versus spinal anesthesia for surgery of male infertility.
Methods: Prospective - comparative clinical study. 72 patients, ASA physical status 1, 2 or 3, scheduled to
undergo for surgery of male infertility, were enrolled. They were randomly divided into two groups: LMA
(general anesthesia with laryngeal mask airway (LMA), used size No3 or No4) and spinal anesthesia (spinal
anesthesia used Bupivacaine heavy 0.5% 10 – 12 mg). Data collection comprised of pulses, systolic blood
pressure, diastolic blood pressure, airway pressure, SpO2 and ETCO2, complications of the anesthesia.
Results: The parameters about ventilation and hemodynamic responses during anaesthesia between LMA
and spinal anesthesia included SpO2 were 99.06 ± 0.71% and 99.02 ± 0.39%, (group LMA: ETCO2 were 35.45 ±
1.52 mmHg, airway pressure were 15.53 ± 2.13 cmH2O); pulses and blood pressure were stabilised between the
two groups.
Conclusion: The laryngeal mask airway is effective and safe for surgery of male infertility.
Keywords: laryngeal mask airway, spinal anesthesia, surgery of male infertility.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các trường hợp phẫu thuật điều trị vô
sinh nam, đa số các bệnh nhân có tâm lý ngượng
ngùng, phần lớn yêu cầu được gây mê. Phương
pháp vô cảm thông dụng hiện nay là gây tê tủy
sống, có nhiều bất lợi về mặt tâm lý người bệnh
khi nằm trên bàn mổ để phẫu thuật trên vùng
nhạy cảm.
Sử dụng mặt nạ thanh quản (MNTQ, LMA)
thay ống nội khí quản (NKQ) để gây mê là một
giải pháp giúp chúng tôi tránh được nhiều tai
biến do đặt ống NKQ khi phải tiến hành gây mê
cho bệnh nhân.
Trong các trường hợp gây mê phẫu thuật
ngắn, nhiều khảo sát thừa nhận MNTQ có nhiều
ưu điểm hơn so với NKQ(7,8,10,13).
Sử dụng MNTQ trong gây mê giúp giảm
được nhu cầu thuốc mê, ít tác dụng phụ hơn
ống NKQ trong giai đoạn tỉnh mê, giảm nhu
cầu sử dụng giảm đau sau mổ, bệnh nhân hồi
phục sớm hơn.
Với những ưu điểm về ổn định huyết động khi
đặt và rút MNTQ, giảm được những biến chứng
sau mổ cũng như đặt MNTQ không cần dãn cơ,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng mặt nạ
thanh quản trong điều trị vô sinh nam bệnh nhân
phẫu thuật vùng bìu.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tính an toàn của MNTQ trong gây
mê - phẫu thuật điều trị vô sinh nam.
Xác định tính hiệu quả của MNTQ trong
thông khí qua: áp lực thông khí, SpO2, ETCO2.
Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân
trong gây mê – phẫu thuật điều trị vô sinh nam.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả các bệnh nhân vô sinh nam được mổ
chương trình để điều trị những bất thường về
bệnh lý học gây ra vô sinh ở nam giới.
Bệnh nhân có phân loại ASA 1, 2, 3.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý sử dụng mặt nạ
thanh quản; gây tê dưới màng nhện.
Bệnh nhân có chống chỉ định sử dụng mặt nạ
thanh quản; gây tê dưới màng nhện.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, so sánh,
kiểm chứng.
Cỡ mẫu: 72 bệnh nhân chia thành hai nhóm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 385
Nhóm I: 36 bệnh nhân được gây mê toàn diện
với mặt nạ thanh quản cổ điển hoặc Proseal.
Nhóm II: 36 bệnh nhân được gây tê tủy sống
với thuốc tê Bupivacaine Heavy.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu: thu thập số
liệu tại khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức bệnh
viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh từ tháng 01/2009
đến tháng 7/2011.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị, thuốc gây
mê hồi sức trước cuộc mổ như một cuộc gây mê,
gây tê tủy sống thường quy, và MNTQ cổ điển
hoặc MNTQ Proseal số 3, 4.
Tiền mê: Midazolam 2 mg + Fentanyl 1- 2
mcg/kg tiêm tĩnh mạch.
Chia thành hai nhóm:
Nhóm gây mê toàn diện với MNTQ
Khởi mê: Propofol 1,5-2,5 mg/kg, cho nhóm
gây mê với MNTQ.
Tiến hành đặt mặt nạ thanh quản.
Duy trì mê: oxy và Isofurane (hoặc
Sevoflurane), Fentanyl và dãn cơ nếu cần.
Nhóm gây tê tủy sống với thuốc tê
Bupivacaine tăng trọng
Gây tê tủy sống với vị thế người bệnh nằm
nghiêng, kim chọc dò số 25G (hoặc 27G), thuốc
Bupivacaine heavy 0,5% 10 – 12 mg.
Thu thập các thông số: mạch, huyết áp trước
và sau khi đặt cũng như lúc rút mặt nạ thanh
quản hoặc gây tê tủy sống; SpO2, ETCO2, thời
gian đặt và rút MNTQ, thời gian thực hiện gây tê
tủy sống (tính từ lúc bắt đầu chọc dò tủy sống),
thể tích bơm bóng hơi mặt nạ thanh quản, thời
gian phẫu thuật, các tai biến, biến chứng trong và
sau phẫu thuật 24 giờ.
Xử lý thống kê: sử dụng phần mềm SPSS 18.0
for Windows.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu 72 bệnh nhân được phẫu thuật
điều trị vô sinh nam dưới gây mê toàn diện với
MNTQ và gây tê tủy sống (GTTS) từ tháng
01/2009 đến tháng 7/2011 tại khoa Gây mê Hồi
sức bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh
đã thu được kết quả sau:
Đặc điểm chung bệnh nhân
Bảng 1: Tuổi, chiều cao, cân nặng và BMI của 2
nhóm
MNTQ (n=36)
(TB ± ĐLC)
TTS (n=36)
(TB ± ĐLC)
P
Tuổi (năm) 34,18 ± 7,78
(24 – 54)
31,96 ± 5,28
(24 – 44)
NS
Chiều cao (cm) 163,14 ± 5,06 162,60 ± 6,27 NS
Cân nặng (kg) 56,17 ± 8,96 57,42 ± 9,36 NS
BMI (kg/m
2
) 21,55 ± 3,21 21,92 ± 3,18 NS
NS: không có ý nghĩa thống kê
Bảng 2: ASA và Mallampati
Nhóm ASA (%) Mallampati (%)
1 2 I II III
MNTQ 27 (75,0) 9 (25,0) 18 (50,0) 15 (41,6) 3 (8,4)
TTS 20 (55,56) 16 (44,44) 20 (55,56) 14 (38,89) 2 (5,55)
Thuốc dùng trong gây mê – phẫu thuật
Tất cả các bệnh nhân đều được tiền mê với
Midazolam 2mg, Fentanyl 100 mcg.
Propofol trong nhóm gây mê toàn diện với
MNTQ: 2,05 ± 0,30 mg/kg. Không có trường hợp
nào sử dụng dãn cơ trong phẫu thuật.
Nhóm gây tê tủy sống sử dụng Bupivacaine
heavy 0,5%: 11,02 ± 0,51 mg.
Bảng 3: thời gian vô cảm và phẫu thuật
MNTQ (n=36) TTS (n=36) P
TGGM (phút) 54,99 ± 16,45 55,04 ± 17,42 NS
TGPT (phút) 45,58 ± 16,42 45,98 ± 16,72 NS
Bảng 4: Thời gian thực hiện đặt MNTQ, gây tê tủy
sống
MNTQ (n=36) TTS (n=36)
TG thực hiện (giây) 46,58 ± 12,25 98,35 ± 10,93
P < 0,05
Trong nhóm MNTQ, có 2/36 trường hợp phải
đặt lại do chọn sai cỡ MNTQ.
Có 2/36 trường hợp thất bại hoàn toàn trong
nhóm gây tê tủy sống phải chuyển phương pháp
vô cảm sang gây mê toàn diện với MNTQ.
4/36 trường hợp thất bại một phần do bệnh
nhân cảm thấy lo sợ trong quá trình phẫu thuật,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 386
không hợp tác được với cuộc mổ mặc dù vẫn đủ
mức giảm đau phẫu thuật, chúng tôi phải hỗ trợ
thêm thuốc an thần và gây mê tĩnh mạch nhẹ với
propofol cho bệnh nhân.
Các chỉ số theo dõi về hô hấp
Áp lực thông khí của nhóm MNTQ: 15,53 ±
2,13 cmH2O
Bảng 5: So sánh SpO2 và ETCO2 giữa 2 nhóm
MNTQ (n=36) TTS (n=36) P
SpO2 (%) 99,06 ± 0,71 99,02 ± 0,39 NS
ETCO2(mmHg) 35,45 ± 1,52 (28 – 44)
Các chỉ số theo dõi về tuần hoàn
Bảng 6: So sánh HATT và HATTr giữa hai nhóm
MNTQ (n=36)
(mmHg)
GTTS (n=36)
(mmHg)
P
HATT trước đặt MNTQ
(hoặc TTS) 1 phút
115,44 ±
20,65
117,55 ±
27,64
NS
HATT sau đặt (TTS) 1
phút
119,86 ±
21,29
115,79 ±
25,3
NS
HATT sau đặt (TTS) 5
phút
116,98 ±
23,48
112,8 ±
22,02
NS
HATT sau đặt (TTS) 15
phút
120,54 ±
19,58
105 ± 12,52 < 0,05
HATT trước rút 1 phút 134,88 ±
25,19
HATT sau rút 1 phút 133,23 ±
23,56
HATT sau rút 15 phút 130,22 ±
23,45
HATTr trước đặt (TTS) 1
phút
58,08 ± 14,71 57,00 ±
16,54
NS
HATTr sau đặt (TTS) 1
phút
60,02 ± 13,72 58,00 ±
15,23
NS
HATTr sau đặt (TTS) 5
phút
56,47 ± 14,25 54,00 ±
14,44
NS
HATTr sau đặt (TTS) 15
phút
60,47 ± 14,55 50,00 ±
15,33
< 0,05
HATTr trước rút 1 phút 69,73 ± 15,26
HATTr sau rút 1 phút 68,05 ± 14,36
HATTr sau rút 15 phút 65,92 ± 14,67
Những thay đổi về huyết áp giữa các thời
điểm là không đáng kể.
Các tai biến và biến chứng
Bảng 7: Tai biến, biến chứng của 2 nhóm
Các tai biến, biến chứng MNTQ (n=36) TTS (n=36)
Co thắt thanh quản 0 (0%)
Tổn thương niêm mạc dính
máu MNTQ
2 (5,55%)
Các tai biến, biến chứng MNTQ (n=36) TTS (n=36)
Ho 4 (11,1%)
Đau họng 5 (13,8%)
Khàn tiếng 0 (0%)
Nôn và buồn nôn 3 (8,33%)
Trào ngược, hít sặc 0 (0%)
Kích thích vùng vẫy lúc rút 2 (5,55%)
Đau lưng 9 (25,0%)
Nhức đầu 5 (13,8%)
Bí tiểu 8 (22,2%)
Thời gian hậu phẫu: trong cả 2 nhóm, diễn
tiến sau mổ đều ổn định. Những trường hợp đau
lưng và nhức đầu chỉ ở mức độ nhẹ. Tất cả các
bệnh nhân đều được cho xuất viện ở ngày hậu
phẫu thứ nhất.
Khảo sát mức độ hài lòng của bệnh nhân
Bảng 8: Đánh giá mức độ hài lòng của 2 nhóm
Mức độ hài lòng MNTQ
(n=36)
TTS
(n=36)
Không hài lòng 1 (2,7%) 4 (11,1%)
Hài lòng 16 (44,4%) 26 (72,2%)
Rất hài lòng 19 (52,9%) 6 (16,7%)
Đa số bệnh nhân ở nhóm gây mê toàn diện sử
dụng MNTQ ở mức độ rất hài lòng và hài lòng,
mức độ không hài lòng chiếm tỉ lệ rất thấp 1/36
trường hợp.
Nhóm gây tê tủy sống ở mức độ hài lòng là
chủ yếu.
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của bệnh nhân
Tuổi trung bình nhóm MNTQ: 34,18 ± 7,78
tuổi, nhóm gây tê tủy sống: 31,96 ± 5,28 tuổi.
Chiều cao trung bình nhóm MNTQ: 163,14 ±
5,06 cm, nhóm gây tê tủy sống: 162,60 ± 6,27. Cân
nặng trung bình nhóm MNTQ: 56,17 ± 8,96 kg,
nhóm gây tê tủy sống: 57,42 ± 9,36 kg.
BMI có liên quan đến việc lựa chọn cỡ
MNTQ, cũng như đánh giá mức độ khó khăn khi
thực hiện gây tê tủy sống, trong nghiên cứu của
chúng tôi BMI nhóm MNTQ là 21,55 ± 3,21
kg/m2, nhóm gây tê tủy sống là 21,92 ± 3,18
kg/m2, tương đồng giữa 2 nhóm và đều nằm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 387
trong giới hạn bình thường.
Sử dụng thuốc gây mê
Việc kết hợp thuốc tiền mê Midazolam, thuốc
giảm đau Fentanyl và đặc biệt là thuốc mê tĩnh
mạch Propofol giúp cho việc đặt MNTQ được dễ
dàng. Propofol có khả năng làm dãn cơ hàm và
ức chế các phản xạ vùng hầu họng do đó có thể
đặt MNTQ mà không cần dùng đến thuốc dãn
cơ. Phẫu thuật vùng bẹn, bìu trong điều trị vô
sinh nam cũng không đòi hỏi nhiều dãn cơ
quanh vùng mổ, nên trong nhóm nghiên cứu
MNTQ chúng tôi cũng không cần sử dụng dãn
cơ trong trường hợp nào.
Thời gian đặt MNTQ và gây tê tủy sống
Thời gian đặt MNTQ trong nghiên cứu 46,58
± 12,25 giây, điều này phù hợp với nghiên cứu
của Keller C, Malby(7,8). So với nhóm gây tê tủy
sống thì thời gian thực hiện đặt MNTQ nhanh
hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Do đặc điểm
dễ thực hiện, thao tác nhanh, MNTQ cũng là ưu
tiên hàng đầu của chúng tôi trong lúc phải
chuyển phương pháp vô cảm khi thất bại với gây
tê tủy sống. Thời gian đặt và thời gian rút của
MNTQ tương đối nhanh rất có ý nghĩa đối với
bệnh nhân tăng huyết áp hoặc có bệnh tim mạch
như nhồi máu cơ tim cũ, thiểu năng vành vì thời
gian đặt và rút nhanh kèm theo kỹ thuật đặt ít
xâm lấn nên ít gây rối loạn huyết động và ít gây
tăng nhu cầu oxy cho cơ tim do đó giảm được
những biến chứng tim mạch chu phẫu.
Kỹ thuật đặt mặt nạ thanh quản
Chọn kích cỡ mặt nạ thanh quản
Chọn kích cỡ mặt nạ thanh quản một vấn
đề quan trọng vì cỡ mặt nạ thanh quản đúng sẽ
dễ đặt, độ kín mặt nạ tốt, ít chèn ép lên mao
mạch vùng hầu họng, giảm biến chứng sau mổ
và thông khí với mặt nạ thanh quản an toàn,
hiệu quả(1,2,3).
Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi kết hợp
giữa giới, cân nặng và đánh giá cấu trúc vùng
hầu họng để chọn mặt nạ thanh quản phù hợp, đa
số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
dùng MNTQ số 4, chỉ có 5/36 trường hợp dùng
MNTQ số 3. Tất cả các bệnh nhân trong nhóm
đặt MNTQ đều được sử dụng MNTQ cổ điển.
Tỷ lệ đặt thành công MNTQ: tùy thuộc vào
các yếu tố:
Cấu trúc giải phẫu vùng hầu họng bình
thường.
Chọn cỡ MNTQ phù hợp
Kỹ thuật đặt thành thạo và chọn thời điểm mê
thích hợp.
Trong nghiên cứu ở nhóm đặt MNTQ, chỉ có
2/36 trường hợp chúng tôi phải đặt lại do chọn
sai cỡ MNTQ, tỷ lệ thành công chung là 100%.
Nghiên cứu sử dụng MNTQ trong phẫu thuật
trong ngày của Đỗ Thanh Huy và Nguyễn Văn
Chừng(4,10) có tỷ lệ thành công chung là 100%.
Thông khí: Thông khí được đánh giá là
hiệu quả sau khi đặt mặt nạ thanh quản: SpO2
≥ 95%, áp lực thông khí ≤ 35 cmH2O, ETCO2
duy trì 35 - 45 mmHg, lồng ngực dãn nở cân
xứng, không nghe rò khí qua miệng, không
bơm hơi vào dạ dày.
Áp lực thông khí: Trong nghiên cứu của
chúng tôi áp lực thông khí của nhóm đặt
MNTQ 15,53 ± 2,13 cmH2O, tương tự nghiên
cứu của Brimacombe và Maltby(7,9) (18 ± 5
cmH2O và 20 ± 5 cmH2O).
SpO2 (độ bão hòa oxy qua mạch nảy):
Nghiên cứu của chúng tôi, SpO2 của nhóm
MNTQ: 99,06 ± 0,71%, so với nhóm TTS: 99,02 ±
0,39 %, SpO2 luôn luôn dao động từ 98% - 100%.
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê; kết quả
của chúng tôi tương đương với nghiên cứu của
Roger Maltby và cs(8); Ocker H(11).
ETCO2: Biến đổi ETCO2 trong nghiên cứu
của chúng tôi nằm trong giới hạn cho phép 35,45
± 1,52 mmHg (28 – 44 mmHg).
Điều này cho thấy cả 2 phương pháp vô cảm
đều đảm bảo an toàn thông khí cho bệnh nhân.
Huyết động: Trong cả 2 nhóm, những thay
đổi về huyết động học trong tất cả các giai đoạn
của quá trình phẫu thuật và sau phẫu thuật hầu
như không đáng kể. Trong khoảng 15 phút đầu
sau khi gây tê, HA có giảm hơn ở nhóm GTTS,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 388
có ý nghĩa về mặt thống kê so với nhóm MNTQ,
tuy nhiên mức giảm HA này chưa có ý nghĩa về
mặt lâm sàng. Theo y văn ảnh hưởng lên huyết
động của mặt nạ thanh quản không đáng kể và
thay đổi ít hơn đặt NKQ(9,14); đặc biệt là khi so
sánh với gây tê tủy sống. Wolfgang Oczenski(12)
nhận thấy ảnh hưởng lên huyết động của nhóm
NKQ ở giai đoạn trước và sau đặt cao gấp 2 lần
nhóm đặt mặt nạ thanh quản. Montarazi(9) thấy
HA, mạch của nhóm MNTQ ở giai đoạn trước và
sau đặt 1 phút và 5 phút không có khác biệt. Sự
tăng huyết áp nhiều ở nhóm đặt NKQ được cho
là khi kích thích đường hô hấp trên trong quá
trình đặt NKQ gây nên đáp ứng của hệ thần kinh
giao cảm – tuyến thượng thận thông qua các ổ
thụ cảm thể ở vùng thanh quản, khí quản gây ra
tăng huyết áp, tăng mạch, tăng nồng độ
catecholamine huyết thanh. Khi phân tích đáp
ứng của huyết động trong từng thời kỳ đặt,
Singh(15) thấy lúc đưa đèn soi thanh quản vào thì
tác động lên HA nhiều hơn lúc đưa ống NKQ
vào. Đó cũng là những lý do chúng tôi chọn lựa
MNTQ thay vì sử dụng NKQ khi chọn phương
pháp vô cảm là gây mê toàn diện cho phẫu thuật
điều trị vô sinh nam.
Tai biến, biến chứng
Biến chứng trào ngược và hít sặc dịch vị
Biến chứng trào ngược và hít sặc là một biến
chứng rất quan trọng, có thể đe dọa tính mạng
người bệnh, biến chứng này có thể xảy ra khi
thông khí với mặt nạ thanh quản. Tuy nhiên
theo các nghiên cứu trước đây thì tỷ lệ này thấp(5).
Có nhiều yếu tố gây ra như: chọn bệnh nhân
không tuân thủ chỉ định và chống chỉ định của
MNTQ, tư thế bệnh nhân trong phẫu thuật: nằm
đầu thấp, nằm nghiêng, nằm sấp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có
trường hợp nào trào ngược và hít sặc, vì tất cả các
bệnh nhân đều được phẫu thuật chương trình, và
không có các yếu tố nguy cơ trào ngược khác.
Co thắt thanh quản, tổn thương niêm mạc dính
máu MNTQ
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không gặp
trường hợp nào bị co thắt thanh quản khi đặt
MNTQ. Maltby, Neilson(7) gặp ở nhóm MNTQ
cổ điển là 1/49 (2,04%). Maltby(8) gặp trong nhóm
MNTQ - Proseal là 2/50 (4%).
Trong nhóm MNTQ có 2/36 (5,55%) trường
hợp tổn thương niêm mạc hầu họng, gây chảy
máu dính MNTQ. 2 trường hợp này xảy ra trên
bệnh nhân đặt mặt nạ thanh quản lại lần thứ 2.
Tuy nhiên sự tổn thương này không ảnh hưởng
đến quá trình thông khí và tổn thương này chỉ
gây chảy máu ít, tự cầm, không cần phải xử trí.
Trong nghiên cứu của Brimacombe và Kihara(6)
tỷ lệ tổn thương niêm mạc từ 3 - 28% (trung bình
là 10,2%). Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu
của chúng tôi.
Kích thích vùng vẫy lúc rút
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
kích thích vùng vẫy lúc rút mặt nạ thanh quản
chiếm tỷ lệ 2/