Đặt vấn đề: Lupus đỏ hệ thống (SLE: Systemic Lupus Erythematosus) là bệnh mạn tính, tổn thương nhiều
tạng trong cơ thể. Thang điểm SLEDAI và ECLAM giúp đánh giá mức độ hoạt tính của bệnh, góp phần chọn lựa
phương pháp điều trị thích hợp.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu
Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu có 85 bệnh nhân. Thang điểm SLEDAI trung bình 20,9±10; 94,1% ở
mức độ hoạt tính cao và rất cao. SLEDAI ở nhóm viêm thận 22,5±9,5 cao hơn nhóm không viêm thận 14,8±9,7 (p
= 0,03). Thang điểm ECLAM trung bình: 5,6±2,3. Thang điểm ECLAM trung bình ở nhóm viêm thận là
5,9±2,4, ở nhóm không viêm thận là 4,9±1,7 (p=0,11). Sự khác biệt về thang điểm SLEDAI và ECLAM trung
bình ở từng mức độ nặng của tổn thương thận trên giải phẫu bệnh không có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Theo thang điểm SLEDAI và ECLAM, bệnh nhi lupus đỏ hệ thống có mức độ hoạt tính bệnh cao.
Tuy nhiên, thang điểm này không tương ứng với mức độ nặng của tổn thương thận trên giải phẫu bệnh.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mức độ hoạt tính của bệnh Lupus đỏ hệ thống ở trẻ em theo thang điểm SLEDAI và ECLAM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 45
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOẠT TÍNH CỦA BỆNH LUPUS ĐỎ HỆ THỐNG
Ở TRẺ EM THEO THANG ĐIỂM SLEDAI VÀ ECLAM
Nguyễn Thị Ngọc Dung*, Huỳnh Thoại Loan*, Lê Khánh Diệu*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lupus đỏ hệ thống (SLE: Systemic Lupus Erythematosus) là bệnh mạn tính, tổn thương nhiều
tạng trong cơ thể. Thang điểm SLEDAI và ECLAM giúp đánh giá mức độ hoạt tính của bệnh, góp phần chọn lựa
phương pháp điều trị thích hợp.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu
Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu có 85 bệnh nhân. Thang điểm SLEDAI trung bình 20,9±10; 94,1% ở
mức độ hoạt tính cao và rất cao. SLEDAI ở nhóm viêm thận 22,5±9,5 cao hơn nhóm không viêm thận 14,8±9,7 (p
= 0,03). Thang điểm ECLAM trung bình: 5,6±2,3. Thang điểm ECLAM trung bình ở nhóm viêm thận là
5,9±2,4, ở nhóm không viêm thận là 4,9±1,7 (p=0,11). Sự khác biệt về thang điểm SLEDAI và ECLAM trung
bình ở từng mức độ nặng của tổn thương thận trên giải phẫu bệnh không có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Theo thang điểm SLEDAI và ECLAM, bệnh nhi lupus đỏ hệ thống có mức độ hoạt tính bệnh cao.
Tuy nhiên, thang điểm này không tương ứng với mức độ nặng của tổn thương thận trên giải phẫu bệnh.
Từ khóa: lupus đỏ hệ thống, trẻ em, sledal, eclam.
ABSTRACT
THE VALIDITY OF THE ECLAM AND SLAEDAI INDEX FOR THE EVALUATION OF DISEASE
ACTIVITY IN SYSTEMIC LUPUS ERYTHEMATOSUS
Nguyen Thi Ngoc Dung, Huynh Thoai Loan, Le Khanh Dieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 45 - 49
Objective: Systemic lupus erythematosus (SLE: Systemic lupus erythematosus) is a chronic autoimmune
disease, multisystem in the body may be affected. Both the ECLAM and SLEDAI have been validated for the
evaluation of disease activity, the appropriate treatment strategy.
Methods: Prospective descriptive study.
Results: During the period July 2008 - December 2010, 85 patients were diagnosed SLE. The average
SLEDAI scores 20.9 ± 10, 94.1% pateints had high and very high activity. SLEDAI scores in nephritis group:
22.5 ± 9.5 higher than non-nephritis group 14.8 ± 9.7 (p=0.03). The average ECLAM scores: 5.6 ± 2.3. ECLAM
scores in nephritis group: 5.9 ± 2.4, in non-nephritis group: 4.9 ± 1.7 (p=0.11). There was no correlation between
SLEDAI, ECLAM scores and the severity of renal pathology.
Conclusion: According to SLEDAI and ECLAM scores, the disease activity in childhood systemic lupus
erythematosus patients was high. However, those scores did not correlate to the severity of renal pathology.
Key words: systemic lupus erythematosus, children, sledal, eclam.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lupus đỏ hệ thống (SLE: Systemic Lupus
Erythematosus) là bệnh tự miễn, tổn thương
nhiều tạng trong cơ thể, diễn tiến mạn tính với
những đợt bùng phát, biểu hiện từ nhẹ đến rất
nặng và có thể dẫn đến tử vong. Việc đánh giá
* Khoa thận Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Ngọc Dung, ĐT: 0914010914 Email:
ngocdungag78@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 46
toàn diện mức độ nặng của bệnh, phân biệt tổn
thương hoạt tính với tổn thương mạn tính, tình
trạng nhiễm trùng và những bệnh kết hợp có vai
trò rất quan trọng trong việc điều trị và theo dõi
bệnh. Hiện tại có khá nhiều thang điểm đánh giá
mức độ hoạt tính của bệnh SLE như: BILAG,
LAI, SLAM, SLEDAI, ECLAM. Mỗi thang điểm
có những ưu và khuyết điểm khác nhau. Tuy
nhiên cho đến nay chưa có thang điểm nào được
thống nhất sử dụng trên toàn thế giới(3). Trong
số những thang điểm đó, hai thang điểm
SLEDAI (Systemic Lupus Erythematosus
Disease Activity Index) và ECLAM (European
Consensus Lupus Activity Measurement) tương
đối phổ biến trong đánh giá hoạt tính bệnh do
tính đơn giản và hiệu quả đánh giá của nó.
Thang điểm SLEDAI được đưa ra năm 1992
đánh giá 24 triệu chứng của 9 tạng trong cơ thể
nhằm đánh giá mức độ nặng của bệnh. Mức độ
hoạt tính của bệnh thay đổi từ 0 – 105 (SLEDAI =
0: không hoạt tính; 1 – 5: hoạt tính nhẹ; 6 – 10:
hoạt tính trung bình; 11 – 19: hoạt tính cao; ≥ 20
hoạt tính rất cao)(1). Đánh giá bao gồm hỏi bệnh
sử và khám lâm sàng, ghi nhận các triệu chứng
xuất hiện trong vòng 10 ngày.
Thang điểm ECLAM được đưa ra năm 1991
gồm 33 triệu chứng được phân thành 12 nhóm
(10 nhóm triệu chứng lâm sàng của 10 tạng và 2
cận lâm sàng: tốc độ lắng máu, nồng độ bổ thể)
thang điểm từ 0 – 17,5. Đánh giá bao gồm hỏi
bệnh sử và khám lâm sàng, ghi nhận các triệu
chứng xuất hiện trong vòng 1 tháng.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
đánh giá mức độ hoạt tính của bệnh ở trẻ SLE tại
khoa Thận Bệnh viện Nhi Đồng 1 theo thang
điểm SLEDAI và ECLAM.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Chọn bệnh
Tất cả những bệnh nhi được chẩn đoán SLE
lần đầu theo tiêu chuẩn của American
Rheumatism Association năm 1997(4) nhập khoa
Thận Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 07/2008
đến tháng 12/2010.
Loại trừ
Những trường hợp không được thực hiện
đủ các xét nghiệm cần thiết để đánh giá theo
thang điểm SLEDAI và ECLAM.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả tiến cứu
Ở thời điểm chẩn đoán bệnh nhân được ghi
nhận: thời gian từ khi khởi phát bệnh đến thời
điểm chẩn đoán.
Đặc điểm lâm sàng: cân nặng, chiều cao,
huyết áp, hồng ban cánh bướm ở má, hồng
ban lupus dạng đĩa, nhạy cảm ánh sáng, rụng
tóc, loét mũi miệng, viêm khớp, viêm màng
thanh dịch, viêm thận, tổn thương thần kinh,
bất thường huyết học. Cận lâm sàng: công
thức máu, coomb’s test nếu có thiếu máu, ure,
creatinine, albumin máu, ANA, C3, C4, anti-
ds DNA, tổng phân tích nước tiểu, đạm niệu
24 giờ nếu có tiểu đạm, trụ niệu nếu có viêm
thận. Sinh thiết thận: tất cả những bệnh nhân
viêm thận sẽ được sinh thiết thận và phân loại
tổn thương giải phẫu bệnh theo ISN/RPS 2003
(International Society of Nephrology/ Renal
Pathology Society)(8). Tất cả bệnh nhân được
đánh giá theo thang đểm SLEDAI phiên bản
SLEDAI 2000(3) và ECLAM(3).
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu có 85 bệnh nhân
thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh.
Tuổi khởi phát bệnh trung bình 12,3±2,1
(nhỏ nhất 5 tuổi, lớn nhất 15 tuổi), 16 nam -
18,8%, 69 nữ - 81,2%, tỷ lệ nam/nữ: 1/ 4,3.
Thời gian khởi phát bệnh trung bình
11,1±16,4 tuần (từ 1 đến 100 tuần)
Tỷ lệ các triệu chứng lâm sàng và cận lâm
sàng theo tiêu chuẩn của ACR 1997: tổn thương:
thận 78,8%, huyết học 75,3%, hồng ban da
71,8%, viêm khớp 55,3%, nhạy cảm ánh sáng
54,1%, loét miệng 43%, viêm màng thanh dịch
29,5%, hồng ban đĩa 12,9%, tổn thương thần
kinh 8,2%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 47
0
50
100
AN
A
(+)
Vi
êm
m
àn
g t
ha
..
Tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng
Tổn thương thận: có 67 trường hợp viêm
thận (78,8%), trong đó 64 trường hợp được sinh
thiết thận, 3 trường hợp tử vong không thực
hiện được sinh thiết. Số bệnh nhân theo sang
thương giải phẫu bệnh ở nhóm II: 3, nhóm III
(A): 12, nhóm: III (A/C): 12, nhóm IV S (A): 5,
nhóm IV G (A): 8, nhóm IV S (A/C): 12, nhóm IV
G (A/C): 9, nhóm V: 3.
Bất thường huyết học có 64 trường hợp
(75,3%). Trong số tổn thương huyết học: 52
trường hợp (81,2%) thiếu máu tán huyết, 46
trường hợp (71,9%) giảm lymphocyte máu, giảm
bạch cầu máu 22 trường hợp (43,3%), 21 trường
hợp (32,8%) giảm tiểu cầu.
Xét nghiệm miễn dịch học: Có 52 trường
hợp ANA (+) (61,2%), trong đó tỷ lệ ANA(+) ở
nhóm viêm thận là 56,7% và ở nhóm không
viêm thận là 77,8%, khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê với p=0,1. Anti-ds DNA (+) ở 79
trường hợp (92,9%). Trong đó tỷ lệ anti-ds DNA
(+) ở nhóm viêm thận là 95,5% và ở nhóm không
viêm thận là 83,3%. Khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê với p=0,07.
Thang điểm SLEDAI trung bình 20,9 ± 10
(từ 4 đến 57):
Thang
điểm
SLEDAI
Không
hoạt
tính
Hoạt
tính
nhẹ
Hoạt
tính
trung
bình
Hoạt
tính cao
Hoạt
tính rất
cao
p
Số bệnh
nhân
0 (0%) 1
(1,2%)
4
(4,7%)
38
(44,7%)
42
(49,4%)
Tuổi 10 12,5 11,9 12,6 0,59
T.gian
khởi phát
bệnh
3 6,6 9,7 13,1 0,70
C3 (mg/l) 40 103,9 84,4 72,3 0,30
C4 (mg/l) 8 17,6 14,2 16,8 0,61
So sánh thang điểm SLEDAI ở nhóm có và
không có viêm thận: SLEDAI trung bình ở
nhóm viêm thận 22,5±9,5, ở nhóm không viêm
thận 14,8±9,7, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê với p=0,03<0,05. So sánh thang điểm SLEDAI
trung bình ở từng nhóm tổn thương thận theo
phân loại ISN 2003:
Sinh thiết thận SLEDAI BN Độ lệch chuẩn
II 15,33 3 3,215
III 22,19 24 10,274
IV 21,91 34 7,685
V 23,00 3 14,799
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 48
Thang điểm SLEDAI trung bình ở nhóm có
mức tổn thương thận nhóm II là 15,33±3,2 thấp
hơn so với nhóm có tổn thương thận từ nhóm
III đến nhóm V. Tuy nhiên khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê (p=0,48).
Giữa thang điểm SLEDAI và tuổi khởi phát
bệnh, thời gian khởi phát bệnh, nồng độ C3, C4
trong máu không có sự tương quan có ý nghĩa
thống kê.
Thang điểm ECLAM trung bình: 5,6±2,3 (từ
2 đến 11); ở nhóm viêm thận 5,9±2,4, ở nhóm
không viêm thận 4,9±1,7, khác biệt này không có
ý nghĩa thống kê với p=0,11.
Phân tích mối tương quan giữa hai thang
điểm SLEDAI và ECLAM: hệ số tương quan
R=0,6 (Pearson), cho thấy có mối tương quan
thuận cao trong đánh giá mức độ hoạt tính của
bệnh SLE.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thang điểm
SLEDAI trung bình 20,9±10 cao hơn so với
nghiên cứu của tác giả Uziel(7) ở Israeli 17,2 ± 0,9.
Điều này có thể do tỷ lệ tổn thương các cơ quan
ở bệnh nhi SLE ở Việt Nam cao hơn. Tỷ lệ tổn
thương các cơ quan trong nghiên cứu của chúng
tôi: tổn thương thận 78,8%, huyết học 75,3%,
hồng ban da 71,8%, viêm khớp 55,3%, nhạy cảm
ánh sáng 54,1%, loét miệng 43%, viêm màng
thanh dịch 29,5%, hồng ban đĩa 12,9%, tổn
thương thần kinh 8,2%. Trong nghiên cứu của
Uziel: tổn thương huyết học 96%, hồng ban da
50%, cơ xương 46%, tổn thương thận 42%, loét
miệng 21%, viêm màng thanh dịch 16%, tổn
thương thần kinh 7%.
Thang điểm SLEDAI chỉ đánh giá các triệu
chứng trong vòng 10 ngày do đó bị hạn chế
trong các nghiên cứu hồi cứu. Theo Mosca(5),
thang điểm ECLAM có giá trị trong đánh giá hồi
cứu mức độ hoạt tính của bệnh SLE. Trong
nghiên cứu này, mối tương quan thuận giữa hai
thang điểm SLEDAI và ECLAM cao (R=0,6). Do
đó, ECLAM có thể được sử dụng trong các
nghiên cứu hồi cứu nhằm đánh giá hoạt tính
của bệnh SLE.
Trong thực hành lâm sàng thang điểm
SLEDAI ngoài việc đánh giá mức độ hoạt tính
của bệnh còn giúp theo dõi đáp ứng điều trị và
tái phát. Theo nghiên cứu của Gladman(2): bệnh
hồi phục khi SLEDAI = 0, cải thiện khi SLEDAI
giảm >3, hoạt tính của bệnh còn tồn tại khi
SLEDAI dao động ±1 – 3, bệnh tái phát khi
SLEDAI tăng >3 điểm. Thời gian trung bình để
hoàn thành bảng đánh giá <10 phút(6). Có thể sử
dụng bảng câu hỏi dưới dạng giấy hoặc sử
dụng phần mềm vi tính. Tuy nhiên, để hoàn
thành bảng điểm SLEDAI cần có những xét
nghiệm miễn dịch học.
Về phương diện đánh giá tổn thương
thận, theo nghiên cứu của chúng tôi thang
điểm SLEDAI và ECLAM không phản ảnh
được độ nặng của tổn thương thận. Cần có
bảng đánh giá mức độ hoạt tính của từng cơ
quan riêng lẻ như BILAG (British Isles Lupus
Assessment Group) thận.
KẾT LUẬN
Theo thang điểm SLEDAI và ECLAM mức
độ hoạt tính bệnh ở bệnh nhi lupus đỏ hệ thống
cao. Tuy nhiên, thang điểm này không tương
ứng với mức độ nặng của tổn thương thận trên
giải phẫu bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cook RJ, Gladman DD, Pericak D, Urowitz MB (2000).
Prediction of short term motality in systemic lupus
erythematosus with time dependent measures of disease
activity. The journal of Rheumatology, 27 (8): 1892-1895.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 49
2. Gladman DD, Urowitz MB, Kagal A, Hallett D (2000).
Acuurately describing changes in disease activity in systemic
lupus erythematosus. The journal of Rheumatology, 27 (2): 377-
379.
3. Griffiths B (2005). Assessment of patients with systemic lupus
erythematosus and the use of lupus disease activity indices. Best
Practice & Research Clinical Rheumatology; 19:685-708.
4. Hochberg M (1997). Updating the American College of
Rheumatology revised criteria for the classification of systemic
lupus erythematosus. Arthritis Rheum; 40(9): 1725.
5. Mosca M, Bencivelli W, Vitali C, et al (2000). The validity of the
ECLAM index for the retrospective evaluation of disease activity
in systemic lupus erythematosus. Lupus; 9:445-50.
6. Ramsey-Goldman R, Isenberg D A (2003). Systemic Lupus
Erythematosus Measures. Arthristis & Rheumatism; 49: pp
S225-S233.
7. Uziel Y, Gorodnitski N, Mukamel M et al (2007). Outcome of a
national Israeli cohort of pediatric systemic lupus erythematosus.
Lupus, 16: 142-146.
8. Weening J J, D’Agati V D, Schwartz M M et al (2004). The
classification of glomerulonephritis in systemic lupus
erythematosus revisited. Kidney International; 65, pp: 521-530.