Phẫu thuật nhũ tương hoá ngày càng trở nên quen thuộc với các bác sỹ Nhãn
khoa. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, phẫu thuật này hiện
nay không chỉ dừng ở mức độ hiệu quả và thị lực cải thiện, m à còn tiến xa
hơn nữa với tính an toàn ngày càng được nâng cao. Với phẫu thuật dùng kỹ
thuật tiêu chuẩn (US), mặc dù thị lực cải thiện tốt, hiệu quả phẫu thuật cao,
nhưng do thời gian tán nhân kéo dài, năng lượng tán nhân tích luỹ cao nên
số lượng tế bào nội mô bị mất do tác động của phẫu huật vẫn còn là vấn đề
đáng quan tâm. Kỹ thuật Ozil Torsional (OT) được hãng Alcon, Mỹ, giới
thiệu vào đầu năm 2006 trên hệ thống máy phaco Infiniti Vision System với
những đặc điểm như đầu phaco di chuyển theo kiểu lắc sang hai bên với tần
số 32KHz giúp cắtnhân ra những mảnh nhỏ để hút ra ngoài mà không cần
sử dụng năng lượng phaco cao. Ngoài ra, trong kỹ thuật OT, do đầu phaco
không di chuyể theo chiều trước sau nên giảm được sự tạo nhiệt trong quá
trình tán nhân, giúp tránh được một số biến chứng trong lúc mổ như bỏng,
phù vết mổ, tổn hại tế bào nội mô.
11 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá phẫu thuật nhũ tương hoá thể thuỷ tinh dùng kỹ thuật ozil torsional, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH GIÁ PHẪU THUẬT NHŨ TƯƠNG HOÁ THỂ THUỶ TINH
DÙNG KỸ THUẬT OZIL TORSIONAL
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nhũ tương hoá thể thuỷ tinh bằng
kỹ thuật Ozil Torsional.
Phương pháp: Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, có so sánh.
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Mắt TP. HCM từ tháng 5 - 10/2007
với hai lô nghiên cứu, mỗi lô 30 mắt, một lô dùng kỹ thuật chuẩn (US), một lô
dùng kỹ thuật Ozil Torsional (OT). Theo dõi đến 3 tháng sau mổ, bao gồm thị
lực chỉnh kính sau mổ (BCVA), thời gian tán nhân (UST), năng lượng tán nhân
luỹ tiến (CDE), số lượng tế bào nội mô bị mất (ECL), và các biến chứng.
Kết quả: Độ cứng nhân trước mổ đa số là độ III (80% nhóm Torsional và
76,7% nhóm tiêu chuẩn), còn lại là độ II (10% nhóm OT và 10% nhóm US), độ
IV (10% nhóm OT và 13,3% nhóm US), theo phân loại độ cứng nhân của
Lucio Buratto. BCVA (logMar) tại thời điểm 1 tuần là 0,15 ± 0,1 (OT) và 0,2 ±
0,15 (US), 1 tháng là 0,07 ± 0,12 (OT) và 0,11 ± 0,13 (US), 3 tháng là 0,04 ±
0,07 (OT) và 0,07 ± 0,09 (US) với p< 0,05. Thời gian tán nhân trung bình là
18,1 ± 5,3 giây (OT) và 20,23 ± 4,2 giây (US) với p< 0,05, CDE trung bình là
7,03 ± 5,1 (OT) và 9,16 ± 4,6 (US), với p< 0,05. Số lượng tế bào nội mô bị mất
tại thời điểm 1 tháng là 256,4 ± 50,07/mm2 (OT) và 280,8 ± 60,1/mm2 (US) với
p< 0,05. Cả hai nhóm đều không có biến chứng trong và sau mổ.
Kết luận: Kỹ thuật Ozil Torsional tỏ ra hiệu quả và an toàn hơn so với kỹ thuật
chuẩn.
ABSTRACT
EVALUATING OZIL TORSIONAL TECHNIQUE IN
PHACOEMULSIFICATION
Nguyen Quoc Toan, Le Minh Thong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 1 – 4
Purpose: To evaluate the outcomes of Ozil Torsional technique in
phacoemulsification.
Methods: This is a randomized and comparative clinical trial study, which
performed in Ho Chi Minh city Eye Hospital from May - October, 2007. The
study included 2 groups: one group used Ozil Torsional technique (OT) and the
other used conventional ultrasound technique (US), with 30 eyes in each group.
The outcomes was evaluated at 1 week, 1 month and 3 months after surgerry,
including best corrected visual acuity (BCVA), US time (UST), cumulative
dispated energy (CDE), endothelial cell loss (ECL) and intraoperative and
postoperative complications.
Results: Nucleus density grades was almost class III (80% and 76.7% in OT
group and US group respectively), the others were class II (10% in each group),
and class IV (10% and 13.3% in OT group and US group respectively), by
Lucio Buratto’s classification. Mean BCVA postop (logMar) at 1 week was
0.15 ± 0.1 (OT) and 0.2 ± 0.15 (US), 1 month was 0.07 ± 0.12 (OT) and 0.11 ±
0.13 (US), 3 month was 0.04 ± 0.07 (OT) and 0.07 ± 0.09 (US), p< 0.05. Mean
UST was 18.1 ± 5.3 sec (OT) and 20.23 ± 4.2 sec (US), p< 0.05, mean CDE
was 7.03 ± 5.1 (OT) and 9.16 ± 4.6 (US), p< 0.05. Mean ECL at 1 month
postop was 256.4 ± 50.07/mm2 (OT) and 280.8 ± 60.1/mm2 (US), p< 0.05. In
both groups, no complication was seen.
Conclusion: Ozil Torsional technique is more safety and effective than
conventional ultrasound technique.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật nhũ tương hoá ngày càng trở nên quen thuộc với các bác sỹ Nhãn
khoa. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, phẫu thuật này hiện
nay không chỉ dừng ở mức độ hiệu quả và thị lực cải thiện, mà còn tiến xa
hơn nữa với tính an toàn ngày càng được nâng cao. Với phẫu thuật dùng kỹ
thuật tiêu chuẩn (US), mặc dù thị lực cải thiện tốt, hiệu quả phẫu thuật cao,
nhưng do thời gian tán nhân kéo dài, năng lượng tán nhân tích luỹ cao nên
số lượng tế bào nội mô bị mất do tác động của phẫu huật vẫn còn là vấn đề
đáng quan tâm. Kỹ thuật Ozil Torsional (OT) được hãng Alcon, Mỹ, giới
thiệu vào đầu năm 2006 trên hệ thống máy phaco Infiniti Vision System với
những đặc điểm như đầu phaco di chuyển theo kiểu lắc sang hai bên với tần
số 32KHz giúp cắt nhân ra những mảnh nhỏ để hút ra ngoài mà không cần
sử dụng năng lượng phaco cao. Ngoài ra, trong kỹ thuật OT, do đầu phaco
không di chuyể theo chiều trước sau nên giảm được sự tạo nhiệt trong quá
trình tán nhân, giúp tránh được một số biến chứng trong lúc mổ như bỏng,
phù vết mổ, tổn hại tế bào nội mô.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU
Nghiên cứu thực nghiêm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng.
Hai lô nghiên cứu, mỗi lô chọn ngẫu nhiên 30 mắt (30 bệnh nhân) theo cách
đánh số thứ tự từ 1 đến 60, bệnh nhân mang số lẻ được phẫu thuật bằng kỹ
thuật OT, bệnh nhân mang số chẵn được phẫu thuật bằng kỹ thuật chuẩn. Tất
cả các bệnh nhân được phẫu thuật bởi một phẫu thuật viên (tác giả) trên máy
phaco Infiniti Vision System của hãng Alcon, Mỹ với quy trình nghiên cứu như
sau:
Khám tiền phẫu với sinh hiển vi, khám đáy mắt sau khi đồng tử dãn tối đa
do nhỏ tropicamide 1% và phenylephrine 5%, đo nhãn áp, đếm tế bào nội
mô trước mổ. Loại trừ các trường hợp đục thể thuỷ tinh do chấn thương, do
bệnh lý, các trường hợp có đục giác mạc, bệnh lý đáy mắt làm ảnh hưởng
đến thị lực sau mổ.
Phẫu thuật phaco tiêu chuẩn với đường rạch 3,2 mm, bơm Viscoat®, chọc lỗ
phụ, xé bao tròn liên tục 5,5 – 6mm, thuỷ tách nhân, chẻ nhân với kỹ thuật stop
and chop, đặt kính nội nhãn mềm Acrylic của hãng Alcon.
Phẫu thuật phaco với kỹ thuật OT với đường rạch 2,2 mm, bơm Viscoat®, chọc
lỗ phụ, xé bao tròn liên tục 5,5 – 6mm, thuỷ tách nhân, chẻ nhân với kỹ thuật
stop and chop, đặt kính nội nhãn mềm Acrylic của hãng Alcon.
Sau mổ, bệnh nhân được nhỏ collyre Tobradex (ALCON) và Oculotect
(CibaVision) trong 1 tháng (1 giọt x 4 lần/ ngày).
Đánh giá sau mổ bao gồm BCVA tại thời điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng; thời
gian tán nhân, năng lượng tán nhân luỹ tiến, số lượng tế bào nội mô sau mổ (tại
thời điểm 1 tháng). Ghi nhận các biến chứng trong và sau mổ. Các số liệu được
xử lý với phầm mềm thống kê SPSS 11.5.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Nhóm
OT
Nhóm
US
p
Tuổi trung
bình
60,3±14,5 61,2±11,7 0,53
Tỷ lệ nam/nữ 21/9 20/10 0.9
Tỷ lệ độ cứng
nhân
Độ 2 10 10
Độ 3 80 76,7
Độ 4 10 13,3
0,35
Số lượng 2331±211 2342±235 0,8
TBNM trung
bình
Bảng 2. Thị lực logMar trung bình sau mổ tại các thời điểm
Nhóm
OT
Nhóm US p
1 tuần 0,15 ± 0,1
0,20 ±
0,15
0,021
1 tháng
0,07 ±
0,12
0,11 ±
0,13
0,013
3 tháng
0,04 ±
0,07
0,07 ±
0,09
0,001
Nhận xét: Cả hai nhóm đều cho BCVA sau mổ tốt, trong đó nhóm OT cho
BCVA sau mổ tốt hơn nhóm US với p< 0,05.
Bảng 3. Tỷ lệ các mức thị lực sau mổ (BCVA)
≤ 1/10 ≥ 5/10 ≥ 8/10
Nhóm
OT
Nhóm
US
Nhóm
OT
Nhóm
US
Nhóm
OT
Nhóm
US
1
tuần
0 0 83,3 80 33,3 23,3
p 1 0,73 0,04
1
tháng
0 0 90 86,7 43,3 36,7
p 1 0,5 0,032
3
tháng
0 0 93,3 90 46,7 40
p 1 0,53 0,02
Nhận xét: Cả hai nhóm đều cho tỷ lệ thị lực ≥ 5/10 khá cao, trong đó ≥ 8/10 ở
nhóm OT cao hơn nhóm US (p< 0,05).
Bảng 4. Thời gian tán nhân trung bình (US time) và năng lượng tán nhân luỹ
tiến trung bình (CDE)
Nhóm OT Nhóm US p
US time
(sec)
18,1 ± 5,3
20,23 ±
4,2
0,021
CDE 7,03 ± 5,1 9,16 ± 4,6 0,043
Nhận xét: nhóm OT có US time và CDE nhỏ hơn so với nhóm US (p< 0,05).
Bảng 5. Tế bào nội mô trung bình trước và sau mổ 1 tháng
Nhóm OT Nhóm US p
Số lượng
trước mổ
2391 ±
211
2342 ±
235
0,8
Số lượng
sau mổ
2161 ±
239
2042 ±
219
0,63
Số lượng
mất
256,4 ±
50,07
280,8 ±
60,1
0,031
Tỷ lệ mất
(%)
10 12
Nhận xét: Nhóm OT có số lượng tế bào nội mô mất trung bình ít hơn so với
nhóm US (p< 0,05). Tỷ lệ mất tế bào nội mô trung bình từ 10 - 12%.
Biến chứng trong và sau mổ
- Không ghi nhận các biến chứng trong mổ như rách bao sau, bỏng vết mổ,...
- Không ghi nhận các biến chứng sau mổ ở thời điểm 3 tháng như nhiễm
khuẩn, bong võng mạc, xuất huyết dịch kính, viêm màng bồ đào,...
BÀN LUẬN
Năng lượng sinh ra trong quá trình tán nhân là một nhân tố gây tổn thương giác
mạc, năng lượng này do tần số dao động và chiều dài quãng đường mà đầu
phaco tip di chuyển tạo ra. Với kỹ thuật phaco chuẩn, khi tán nhân, đầu phaco
tip sẽ di chuyển theo chiều trước sau với tần số cao 40Khz, tạo ra lực tác động
vào nhân để phá vỡ nhân (tác động jackhammer) đồng thời tạo ra nhiệt năng.
Ngoài ra, khi di chuyển theo chiều trước sau như vậy, tác động tán nhân tốt
trong nửa chu kỳ đầu khi mảnh nhân được hút vào và không hiệu quả trong nửa
chu kỳ sau khi mảnh nhân bị đẩy ra xa khỏi đầu phaco tip. Ngược lại, với kỹ
thuật OT, đầu phaco tip di chuyển theo kiểu lắc sang hai bên với tần số 32Khz,
tạo ra tác động cắt xén nhân ở cả hai nửa chu kỳ, đồng thời không đẩy nhân ra
xa. Do không có chuyển động trước sau, nên không có tác động phá nhân kiểu
jackkhammer như kỹ thuật US, đồng thời cũng không sinh ra nhiệt năng. Như
vậy, tác động tán nhân của kỹ thuật OT hiệu quả hơn so với kỹ thuật US. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, UST và CED cua nhóm OT thấp hơn nhóm US (p<
0,05). Ngoài ra, chúng tôi không ghi nhận biến chứng bỏng vết mổ trong lúc
phẫu thuật.
Bên cạnh đó, do trong kỹ thuật US, các mảnh nhân bị đẩy ra, bị dòng nước
vào cuốn và xoáy nên có thể va đập vào nội mô, làm tổn hại nội mô. Trong
khi với kỹ thuật OT, mảnh nhân không bị đẩy ra xa mà được hút ngay vào
nòng phaco tip và đẩy ra ngoài, không tạo những tác động xấu lên tế bào nội
mô. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ECL của nhóm OT cũng thấp hơn so
với nhóm US (p< 0,05). Tuy nhiên, cả hai nhóm đều có tỷ lệ ECL trong
khoảng 10-12%, số lượng tế bào nội mô còn lại đều trên 2500 tế bào/ mm2.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BCVA ≥ 5/10 của hai nhóm khác biệt
không có ý nghĩa thống kê tại các thời điểm sau mổ. Tuy nhiên, tỷ lệ BCVA ≥
8/10 của nhóm OT luôn cao hơn nhóm US tại các thời điểm sau mổ (p< 0,05),
điều này là hệ quả của cơ chế hoạt động hiệu quả của kỹ thuật OT so với kỹ
thuật US.
Chúng tôi không ghi nhận biến chứng trong và sau mổ ở cả hai nhóm.
KẾT LUẬN
Trong giới hạn của nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy cả hai kỹ thuật đều tỏ
ra an toàn, trong đó kỹ thuật OT tỏ ra hiệu quả hơn so ới kỹ thuật US.