Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khóan. Trong 7 năm qua, thị trường chứng khóan Việt Nam đã dần khẳng định trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế nước ta. Hiện nay, khi Việt Nam thực hiện hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng lại mở ra những vận hội lớn cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, tăng đầu tư, tăng chu chuyển vốn, từ đó có điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển.
43 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu 4
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 5
1 Chứng khoán 5
1.1 Khái niệm chứng khoán 5
1.2 Phân loại chứng khoán 5
1.2.1 Cổ phiếu 5
1.2.2 Trái phiếu 6
1.2.3 Chứng chỉ quỹ 7
1.2.4 Chứng khoán phái sinh 8
2 Thị trường chứng khoán 9
2.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 9
2.2 Bản chất, chức năng, nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11
2.2.1 Bản chất của thị trường chứng khoán 11
2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán 12
2.2.3 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị truờng chứng khoán.. 14
2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán 16
2.4 Phân loại thị trường chứng khoán… 17
2.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 19
2.5.1 Nhà phát hành 19
2.5.2 Nhà đầu tư… 20
2.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 20
2.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán .21
2.6 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 22
2.6.1 Khái niệm điều hành và giám sát thị trường 22
2.6.2 Sự cần thiết phải điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 23
2.6.3 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán 23
II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam 25
1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 25
2 Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 26
3 Thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 28
3.1 Những thuận lợi 28
3.2 Những khó khăn 30
4 Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 32
4.1 Một số mặt tích cực 32
4.2 Một số mặt hạn chế 35
III. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 38
1 Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 38
1.1 Mục tiêu phát triển 38
1.2 Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán 38
2 Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường chứng khoán. 39
Kết luận 42
Tài liệu tham khảo 43
Lời mở đầu
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khóan. Trong 7 năm qua, thị trường chứng khóan Việt Nam đã dần khẳng định trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế nước ta. Hiện nay, khi Việt Nam thực hiện hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng lại mở ra những vận hội lớn cho tăng trưởng xuất nhập khẩu, tăng đầu tư, tăng chu chuyển vốn, từ đó có điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Trong phạm vi bài viết này, em xin đề cập đến một phạm vi nhỏ của thị trường chứng khoán trong thời kì nước ta gia nhập vào nền kinh tế thế giới, đó là vấn đề “Một số giải pháp hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam”.
Nội dung bài viết này bao gồm:
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán
II. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
III. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Kết luận:
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Khoa học quản lý, đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo TS.Bùi Đức Thọ đã chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiên đề tài.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng và kinh nghiệm có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và phê bình của các thầy cô.
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1. Chứng khoán
1.1 Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành, đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập, khi cần người sở hữu có thể bán nó để thu tiền về. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.
Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có thể mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán theo các mức giá khác nhau tùy thuộc vào cung và cầu trên thị trường.
1.2 Phân loại chứng khoán
Theo sự phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng. Căn cứ vào tính chất, chứng khoán thường được phân chia thành 4 loại chính là cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các công cụ phái sinh.
1.2.1 Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Lịch sử ra đời cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành công ty cổ phần. Hay nói cách khác, cổ phiếu chính là sản phẩm riêng có của công ty cổ phần. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Như vậy cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty tương ứng với số lượng cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ. Do đó, cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn. Cổ phiếu có những đặc điểm sau:
- Là giấy chứng nhận góp vốn vào một công ty cổ phần.
- Không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của tổ chức phát hành nó.
- Được quyền nhận cổ tức hàng năm, có thể biến động hay cố định tuỳ theo từng loại cổ phiếu của tổ chức phát hành.
- Người mua cổ phiếu chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp của mình và được quyền biểu quyết các vấn đề có liên quan.
- Được quyền chuyển nhượng nếu là cổ phiếu vô danh.
- Được chia phần tài sản còn lại theo quy định của pháp luật nếu công ty giải thể.
1.2.2 Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành( người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán( người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả số tiền vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Bản chất của trái phiếu là một công cụ nợ, được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu trái phiếu đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Việc phát hành công cụ này là tổ chức phát hành đứng ra vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người sở hữu trái phiếu sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của tổ chức phát hành và trong mọi trường hợp, tổ chức phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho người sở hữu trái phiếu theo các cam kết đã được xác định trong trái phiếu. Trái phiếu thường có thời hạn xác định.
Thông thường trái phiếu có những đặc điểm chung sau:
+ Không làm thay đổi quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp, tức là không ảnh hưởng đến quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp, do đó được coi là biện pháp an toàn về mặt sở hữu để huy động vốn.
+ Chi phí vốn của phát hành trái phiếu bao gồm lợi tức trái phiếu phải trả cho người mua và các chi phí phát hành được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó có lợi cho doanh nghiệp về phương diện thuế thu nhập doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp có thể chủ động phát hành trái phiếu theo nhu cầu vốn thực tế và điều chỉnh kì hạn huy động tương ứng hoặc ngắn hơn so với thời gian hoàn vốn của dự án. Tuỳ thuộc vào quyết định của từng doanh nghiệp và đặc điểm của từng dự án đầu tư mà lựa chọn trái phiếu phát hành theo lãi suất cố định hay thả nổi theo lãi suất thị trường.
+ Nghĩa vụ trả nợ (bao gồm gốc và lãi) đối với người sở hữu trái phiếu không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh cuả tổ chức phát hành trái phiếu.
1.2.3 Chứng chỉ quỹ
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ phiếu của một công ty: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các nhà đầu tư vì quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán và các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hang ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành lập quỹ thì các công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Tuy nhiên những điểm khác nhau giữa cổ phiếu và chứng chỉ quỹ như sau:
- Thứ nhất: cổ phiếu là phương tiện huy động vốn của một công ty kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là “kinh doanh chứng khoán”.
- Thứ hai: nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay quản lý công ty thì nhà đầu tư sở hữu chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi quyền hành đều do công ty quản lý quỹ quy định.
- Thứ ba: được quản lý bởi một đội ngũ quản lý quỹ chuyên nghiệp đứng ra “ kinh doanh chứng khoán” nên độ an toàn và lợi nhuận kỳ vọng cao hơn khi đầu tư vào cổ phiếu mà không cần phải suy tính đầu tư vào chứng khoán nào.
1.2.4 Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn.
2. Thị trường chứng khoán
2.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
- Thị trường chứng khoán trước công ty cổ phần
Vào khoảng thế kỷ XV, XVI với sự xuất hiện của ngành hang hải, thương mại thế giới bước vào một kỷ nguyên phát triển dữ dội. Frankfurt ở Đức và Amstecdam ở Hà Lan, là hai thương cảng lớn nhất thời kỳ bấy giờ. Tại đây, người ta tụ tập nhau lại để buôn bán các chứng từ văn tự nợ (debenture). Các chứng từ ghi nợ là những giấy tờ được coi là những giấy tờ có giá trị như tiền vậy. Các chứng từ nợ gồm 2 loại: các kỳ phiếu (bills) và các hối phiếu (bill of exchange). Các kỳ phiếu là các giấy nợ có kỳ hạn thanh toán mà con nợ phải trả cho chủ nợ một số tiền nhất định. Các hối phiếu là một lệnh trả mà con nợ yêu cầu một người thứ 3 nào đó trả hộ mình một món nợ cho chủ nợ (có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn). Khi muốn chuyển nhượng các văn tự nợ thì người đó phải trả một khoản lãi suất nhất định cho người mua do phải chờ đến kì hạn thanh toán. Hoạt động này gọi là sự chiết khấu (discounting).
Cùng với sự phát triển của thương mại là sự nảy sinh các sáng kiến vay vốn trả lãi cho công chúng của Chính phủ nhằm huy động vốn xây dựng các công trình lớn như cơ sở hạ tầng, giao thong vận tải… Để có tài chính, Chính phủ đã huy động vốn từ dân bằng cách phát hành trái phiếu vay nợ (bond) ra công chúng. Người mua trái phiếu sẽ được hưởng lãi suất đã được ấn định và được hưởng lãi cho đến kỳ hạn thanh toán. Biện pháp này đã được các địa phương áp dụng. Tuy nhiên, cũng có người cần tiền mặt và họ phải bán, chuyển nhượng lại. Các hoạt động chuyển nhượng giấy tờ có giá trị vậy gọi là các hoạt động mua bán chứng khoán, nơi diễn ra các hoạt động này gọi là sở giao dịch chứng khoán, lĩnh vực xảy ra các hoạt động này gọi là thị trường chứng khoán. Những chứng khoán đầu tiên là những thương phiếu ( kỳ phiếu và hối phiếu) và các trái phiếu ( Chính phủ, Trung ương và địa phương).
- Thị trường chứng khoán sau công ty cổ phần.
+ Công ty cổ phần:
Vào thế kỷ XIX, nhiều ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những ngành công nghiệp truyền thống thì xuất hiện nhiều ngành mới (như đường sắt…) đòi hỏi vốn nhiều, và để có thể mở được doanh nghiệp, không một người chủ nào có thể tự đảm bảo được đủ số vốn ban đầu để mở mang doanh nghiệp. Trong khi đó, triển vọng của ngành này là rõ rệt và hấp dẫn đầu tư. Và đã có sáng kiến thành lập công ty cổ phần (Stock Company). Doanh nghiệp này là do một nhóm người cùng nhau góp vốn để kinh doanh thành lập nên. Phần đóng góp về tài chính của mỗi người trong công ty gọi là cổ phần (share). Mỗi người giữ các văn tự chứng thực cho sự đóng góp cổ phần của mình gọi là cổ phiếu (shares). Những người có cổ phần đóng góp gọi là cổ đông ( share holders). Có hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường là những cổ phần theo đó việc hưởng lợi từ công ty phụ thuộc vào tình trạng kinh doanh của công ty. Những người nắm giữ cổ phần này có quyền tham gia vào việc ra các quyết định kinh doanh, do đó họ được hưởng lợi hay phải chịu rủi ro trong kinh doanh. Trái lại, cổ phiếu ưu đãi là những cổ phần dành cho những người không có khả năng hoặc không có điều kiện tham gia các hoạt động kinh doanh của công ty nhưng vẫn muốn đóng góp đầu tư để hưởng lợi và nếu trong trường hợp bị phá sản, toàn bộ tài sản của công ty sẽ được dùng để trả nợ (nếu còn) sẽ thanh toán cho các khoản đầu tư của cổ phiếu ưu đãi trước, và cuối cùng (nếu còn) mới thanh toán cho các cổ phiếu thường. Người sở hữu cổ phiếu có thể chuyển nhượng cho người khác.
+ Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán:
Với sự xuất hiện của công ty cổ phần, việc giao dịch mua bán chứng khoán đã bùng nổ và bước sang giai đoạn hoàn toàn mới. Điều này bắt nguồn từ nhiều lý do: thứ nhất, các lĩnh vực đầu tư đa dạng; thứ hai, mức độ kiếm lời và rủi ro của các lĩnh vực này lại khác nhau, do đó mức sinh lời cho đầu tư các lĩnh vực hay công ty khác nhau cũng khác nhau, thậm chí mức đầu tư còn phụ thuộc vào cả tình hình chính trị hay sự sống còn của một cá nhân có uy tín trong chính trường hay trong kinh doanh; thứ ba, tính chất đầu cơ trong giao dịch mua bán loại chứng khoán này xuất hiện; thứ tư, một khối lượng lớn giao dịch mua bán chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường trở nên thường xuyên với sự tham gia hết sức đông đảo của hầu hết các tầng lớp trong xã hội. Thị trường chứng khoán đến lúc đó thực sự bước sang một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới với sự phát triển cả về lượng cũng như về chất.
2.2 Bản chất, chức năng, nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
2.2.1 Bản chất của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán phái sinh). Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và diễn ra ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diển ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Xét về mặt bản chất của thị trường chứng khoán thì:
- Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sang trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lợi từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
- Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp, cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Ngược với cách tài trợ gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính, những người có vốn có đủ điều kiện về môi trường tài chính, pháp lý… sẽ trực tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không cần qua các trung gian tài chính mà chuyển nhượng vốn thông qua thị trường chứng khoán, một thị trường vốn trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn theo nguyên tắc đầu tư.
2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ra đời đã có vị trí rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
- Huy động vốn cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho mình loại hang hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đàu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc thành các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh toán (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ số của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được ví là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
2.2.3 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị truờng chứng khoán:
Sự vận động của bất kì một thị trường nào cho dù đơn giản hay phức tạp đều có nguyên tắc hoạt động riêng của nó. Các nguyên tắc này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thị trường theo những hướng nhất định. Đối với thị trường chứng khoán, cơ chế vận hành của nó được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là một loại hang hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên các thông tinh có liên quan. Vì vậy, thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công khai thông tin thị trường chứng khoán phải thoả mãn các yêu cầu: chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận.
Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ nhà đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.
- Nguyên tắc trung gian:
Thị trường chứng khoán hoạt động không phải do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán trực