Đề tài Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả, ứng dụng của lí thuyết đó tại Việt Nam

Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là vấn đề cấp thiết,mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia.Từ thời cổ đại đến xã hội hiện đại luôn tồn tại những hệ thống quan điểm kinh tế trong việc nghiên cứu các hình thái xã hội. Đặc biệt theo đà phát triển của kinh tế thị trường đã có nhiều học thuyết kinh tế làm cơ sở lí luận cho các chiến lược kinh tế nhà nước mà tiêu biểu có các lí thuyết về tiền tệ và giá cả của Keynes.Thông qua vai trò hay sự điều tiết vĩ mô để kích cầu quốc gia.Tức kích thích tiêu dùng làm tăng đầu tư tăng việc làm tăng thu nhập dẫn tới nâng cao đời sống cho người dân đồng thời giảm bớt hay hạn chế khủng hoảng,lạm phát trầm trọng. Ngoài ra với mô hình kinh tế hỗn hợp được nhiều quốc gia sử dụng hiện nay cho thấy bên cạnh "Bàn tay vô hình (cơ chế thị trường)- thì sự tồn tại của bàn tay hưu hình (Kinh tế nhà nước)" là vấn đề cần thiết. Bởi lẽ kinh tế thị trường tuy mở ra động lực cạnh tranh kích thích kinh tế nhưng sự phát triển luôn đi kèm với không ít những khuyết tật như khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp ô nhiễm, môi trường, độc quyền.Thì lúc này sự đóng góp của nhà nước là vô cùng quan trọng để điều tiết các tình trạng đó cũng như bảo vệ cạnh tranh bằng các chính sách tài khóa: thuế, chi tiêu, các luật lệ, chính sách pháp luật, đặc biệt là các chính sách tiền tệ Hơn nữa trong sự biến động không ngừng của nền kinh tế ngày nay thì tiền tệ và giá cả đóng vai trò cực kì quan trọng. Nó như chìa khóa mở ra cánh cửa tiêu dùng, kích thích tiêu dùng hiệu quả. Mà khi tiêu dùng tăng thì lẽ dĩ nhiên đầu tư sẽ tăng. Kéo theo đó là sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 3028 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả, ứng dụng của lí thuyết đó tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang A: PHẦN MỞ ĐẦU 2 1. Lí do chọn đề tài 2 2. Tình hình nghiên cứu 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 4 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 4 5. ý nghĩa 4 6. Bố cục 4 B: NỘI DUNG 5 I. Vài nét về John Meynard Keynes 5 II. Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả 5 III. Đánh giá chung về quan điểm của Keynes 9 1. Đóng góp 9 2. Hạn chế 9 3. Nguyên nhân đưa đến những hạn chế của Keynes 10 IV. SỰ VẬN DỤNG LÍ THUYẾT CỦA KEYNES TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 11 1. Tình hình kinh tế nước ta trong những năm qua 11 2. Giải pháp hoàn thành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 20 a. Dự trữ bắt buộc 20 b. Tái chiết khấu 21 c. Hoạt động thị trường mở 22 d. Lãi suất 23 e. Hạn mức tín dụng 24 C: KẾT LUẬN 26 D: TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 A :PHẦN MỞ ĐẦU 1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là vấn đề cấp thiết,mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia.Từ thời cổ đại đến xã hội hiện đại luôn tồn tại những hệ thống quan điểm kinh tế trong việc nghiên cứu các hình thái xã hội. Đặc biệt theo đà phát triển của kinh tế thị trường đã có nhiều học thuyết kinh tế làm cơ sở lí luận cho các chiến lược kinh tế nhà nước mà tiêu biểu có các lí thuyết về tiền tệ và giá cả của Keynes.Thông qua vai trò hay sự điều tiết vĩ mô để kích cầu quốc gia.Tức kích thích tiêu dùng làm tăng đầu tư tăng việc làm tăng thu nhập dẫn tới nâng cao đời sống cho người dân đồng thời giảm bớt hay hạn chế khủng hoảng,lạm phát trầm trọng. Ngoài ra với mô hình kinh tế hỗn hợp được nhiều quốc gia sử dụng hiện nay cho thấy bên cạnh "Bàn tay vô hình (cơ chế thị trường)- thì sự tồn tại của bàn tay hưu hình (Kinh tế nhà nước)" là vấn đề cần thiết. Bởi lẽ kinh tế thị trường tuy mở ra động lực cạnh tranh kích thích kinh tế nhưng sự phát triển luôn đi kèm với không ít những khuyết tật như khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp ô nhiễm, môi trường, độc quyền...Thì lúc này sự đóng góp của nhà nước là vô cùng quan trọng để điều tiết các tình trạng đó cũng như bảo vệ cạnh tranh bằng các chính sách tài khóa: thuế, chi tiêu, các luật lệ, chính sách pháp luật, đặc biệt là các chính sách tiền tệ…Hơn nữa trong sự biến động không ngừng của nền kinh tế ngày nay thì tiền tệ và giá cả đóng vai trò cực kì quan trọng. Nó như chìa khóa mở ra cánh cửa tiêu dùng, kích thích tiêu dùng hiệu quả. Mà khi tiêu dùng tăng thì lẽ dĩ nhiên đầu tư sẽ tăng. Kéo theo đó là sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội. Thế nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Trong những năm gần đây thị trường tài chính tiền tệ thế giới đang phải hứng chịu những cuộc khủng hoảng sâu sắc kể từ cuộc đại khủng hoảng thế giới 1929-1933, rồi khủng hoảng tài chính tiền tệ 1987-1989. Rồi mới đây thôi cuộc đại khủng hoảng không thua kém gì thời kì 1929-1930 là 2007-2008. Làm cho nền kinh tế rơi vào bế tắc. Có thể khẳng định rằng: ổn định tài chính, tiền tệ và giá cả là điều kiên cơ bản để phát triển kinh tế mỗi quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang trong thời kì hội nhập và phát triển như Việt Nam. Hơn nữa một sự thật mà ai trong chúng ta cũng đều nhìn thấy. Với sự thành công trong việc chặn đứng lạm phát phi mã năm 1989 nhờ áp dụng công cụ lãi suất ngân hàng (đưa lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm lên cao vượt tốc độ lạm phát), đã cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô nhằm đạt các mục tiêu ngắn hạn ổn định thị trường. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ tái lạm phát cao, do đó một công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như chính sách tiền tệ được tận dụng trước tiên với hiệu suất cao cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên gần đây ở Việt nam có dấu hiệu của sự lạm dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Điều này thể hiện sự yếu kém trong việc quản lý và sử dụng chính sách tiền tệ của nhà nước ta. Vì vậy đứng trước nguy cơ tiềm ẩn của lạm phát, việc nghiên cứu chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát là vô cùng cần thiết. Chính vì lẽ đó em đã chọn đề tài "Quan điểm của Keynes về lí thuyêt tiền tệ và giá cả và ý nghĩa, sự vận dụng của lí thuyêt đó đối với riêng Việt Nam ta". 2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Do Keynes là một nhà kinh tế lỗi lạc nên đã có vô số các tác gia với những phương pháp phân tích, đánh giá và vận dụng các lí thuyết của ông nói chung và lí thuyết về tiền tệ- giá cả nói riêng trong sản xuất- kinh doanh và cả trong nền kinh tế nhà nước (kinh tế vĩ mô). Tuy nhiên với phạm vi bài tiểu luận em không thể phân tích đánh giá một cách đầy đủ, sâu sắc nhất và vẫn tồn tại không ít những thiếu xót mong các thầy, các cô và các bạn đọc góp ý bổ sung. 3.MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Tìm hiểu phân tích lí thuyết về tiền tệ và giá cả của Keynes để biết được đặc trưng, hạn chế cũng như là tầm quan trọng mức độ ảnh hưởng của chính sách tiền tệ giá cả tác động tới nền kinh tế nói chung và nền kinh tế đổi mới, hội nhập mở cửa của việt nam nói riêng. Từ đó đưa ra các biện pháp, chính sách nhằm hạn chế khủng hoảng, lạm phát đưa nền kinh tế phát triển bền vững. 4.ĐỐI TƯỢNG,PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề về tiền tệ, giá cả trong lí thuyết Keynes và sự vận dụng trong nền kinh tế Việt nam. Phạm vi nghiên cứu: Lí thuyết tiền tệ- giá cả của Keynes. 5.Ý NGHĨA 5.1 ý nghĩa khoa học: Từ cơ sở lí thuyết đó áp dụng linh hoạt vào thực tiễn điều tiết nền kinh tế tăng trưởng Việt Nam với vấn đề kích cầu. 5.2 ý nghĩa thực tiễn: Thấy được vai trò của các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả đối với nền kinh tế. Từ đó xác định nhà nước phải làm gì để thị trường hoạt động đúng hướng, hiệu quả cao, trong tình hình suy thoái hiện nay. 6. BỐ CỤC Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì trong phần nội dung gồm các danh mục lớn: I. Vài nét về John Meynard Keynes. II. Quan điểm của Keynes về lí thuyết tiền tệ và giá cả. III. Đánh giá chung về quan điểm của Keynes. IV. Sự vận dụng lí thuyết của Keynes trong nền kinh tế Việt Nam. B: NỘI DUNG I. VÀI NÉT VỀ JOHN MEYNAD KEYNES J.M.Keynes sinh ngày 5/6/1883 tại Cambridge (Anh) trong một gia đình cố văn hóa và được chăm sóc đầy đủ. Bố ông là John Neville Keynes, giảng dạy tại một trường đai học ở Cambridge. Mẹ ông là Florence Ada, là một trong những người đầu tiên tốt nghiệp trường Newham. Năm 1932, bà được bầu làm thị trưởng Cambridge và nổi tiếng về chủ nghĩa nữ quyền. Có thể nói bố mẹ của Keynes là những công dân tiến bộ đậm màu sắc vị tha. J.M.Keynes là nhà kinh tế học người Anh, giáo sư trường đại học Cambridge, một nhà hoạt động xã hội, một chuyên gia trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, thống đốc ngân hàng Anh, cố vấn kinh tế chính phủ Anh về ngân khố quốc gia, chủ bút tạp chí nhà kinh tế. Năm 1925, ông kết hôn với một nữ diễn viên chính Liu Boves Kaia của đoàn múa bale nga, sinh được hai người con. Tác phẩm nổi tiếng của J.m.Keynes "Lí thuyết chung về việc làm, tiền tệ và giá cả" xuất bản năm 1936, Trong đó ông trình bày một số quan điểm cơ bản đặc biệt phê phán các quan điểm của trường phái cổ điển, tân cổ điển và một số vấn đề lý luận, chủ yếu là quan điểm thị trường tự điều chỉnh. Đồng thời, ông đã nêu lên quan điểm về vấn đề khủng hoảng, thất nghiệp và vai trò điều tiết của nhà nước. Ông được các học giả phương tây coi là người có tính sáng tạo, Là nhà kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đối với kinh tế học phương tây hiên đại và chính sách kinh tế của các chính phủ. II. QUAN ĐIỂM CỦA KEYNES VỀ LÍ THUYẾT TIỀN TỆ VÀ GIÁ CẢ Vào những năm 30 của thế kỉ 20 khủng hoảng và thất nghiệp ở các nước tư bản phương tây sảy ra thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 đã chứng tỏ lí thuyết của trường phái cổ điển và tân cổ điển bị mất sức thuyết phục làm tan rã tư tưởng tự do kinh tế. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội cao đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, tình trạng độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực Sự thành công trong quản lí nhà nước Xô Viết tác động vào tư tưởng các nhà kinh tế tư bản. Trong bối cảnh đó J.M.Keynes quan tâm đến khủng hoảng kinh tế đã từng diễn ra nhất là ở Mỹ và Anh. Ông đã từ bỏ phương pháp tư duy, diễn đạt truyền thống và học thuyêt của Keynes ra đời. Trường phái Keynes đã có ảnh hưởng nhiều trong đời sống các nước tư bản chủ nghĩa nhưng năm 1950-1960 nhất là chính sách của chính phủ. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, đặc biệt là tác phẩm "lí thuyết chung về việc làm, tiền tệ và giá cả" xuất bản năm 1936. Giới kinh tế học phương tây đánh giá quyển sách đã dẫn đến một cuộc cách mạng trong kinh tế học. Nó thể hiện được đầy đủ tư tưởng đặc điểm học thuyết của Keynes. Là hệ thống lí luận kinh tế vĩ mô lấy lí thuyết chung về tiền tệ việc làm, giá cả làm chung tâm. Lấy nguyên lí cầu hữu hiệu làm nền tảng. Ông hoàn toàn vứt bỏ định lí Say mà các nhà kinh tế học truyền thống vẫn tin theo "cung tạo cầu".Nguyên lí cầu hữu hiệu khẳng định rằng lượng cung hàng hóa do lượng cầu quyết định. Do đó vào những thời kì suy thoái kinh tế nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng thì sản xuất và việc làm tăng theo. Về nội dung đề cao vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước, dựa trên phương pháp phân tích vĩ mô hiện đại nghiên cứu các tổng lượng kinh tế như tổng cầu, tổng cung, tổng đầu tư, tổng việc làm, tổng thu nhập…Trong nền kinh tế thị trường phê phán tư tưởng tuyệt đối hóa thị trường tự do. Ông nêu ra hiện tượng gọi là " bẫy thanh khoản ", qua đó coi chính sách tài khóa là biện pháp chủ yếu giải quyết mọi vấn đề kinh tế. Keynes cho rằng thị trường không hoàn hảo mà tình trạng khủng hoảng thất nghiệp của nền kinh tế tư bản do những chính sách lỗi thời, bảo thủ thiếu sự can thiệp của nhà nước. Chính vì vậy ông luôn nêu cao vai trò của nhà nước để bình ổn kinh tế. Ngoài những chính sách đầu tư tăng việc làm cho người lao động ông còn quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng những hệ thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ. Tác động tới nhiều thành phần khác nhau trong đó có giá cả hàng hóa nhằm mục đích kích cầu có hiệu quả. Hay nói cách khác là điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Thứ nhất về hệ thống tài chính: Ông chủ trương sử dụng các công cụ thuế khóa. Theo ông cần phải tăng thuế đối với người lao động để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ và giảm thuế đối với các nhà kinh doanh, sản xuất. Từ chính sách đó có thể điều tiết sản xuất, khuyến khích tiêu dùng cá nhân. Qua đó mở rộng các hình thức tạo việc làm để nâng cao thu nhập, tăng sức mua, tăng cầu hiệu quả, phát triển thêm ngành nghề mới. Đồng thời tăng chi tiêu chính phủ hay tăng đầu tư công cộng để kích cầu có hiệu quả. Thứ hai: về công cụ tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Theo Keynes, cần tăng thêm khối lượng lớn tiền tệ vào trong lĩnh vực lưu thông. Làm tăng cung tư bản cho vay để giảm lãi suất. Khuyễn khích các nhà tư bản đầu tư vay vốn mở rộng sản xuất, tăng thêm khối lượng việc làm.Ông chủ trương chủ động bơm thêm tiền vào lưu thông thực hiện "Lạm phát có mức độ". Ông cho rằng đây là biện pháp hưu hiệu để kích thích thị trường mà không có nguy hiểm gì. Khi nền kinh tế đạt tới mức cân bằng với sản lượng và việc làm cao thì lam phát sẽ tự động dừng lại. Đồng thời với nó là khuyến khích đẩy nhanh chu kì chu chuyển của tiền tệ trong quá trình sản xuất cũng như là lưu thông. Và thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, qua các công cụ tài chính và phát hành công trái nhằm hạn chế số lượng tiền mặt đi vào lưu thông trên thị trường mà tập trung, dồn nén nó lại trong lĩnh vực sản xuất tạo giá trị thặng dư hay lợi nhuận lớn cho các nhà doanh nghiệp, hay cụ thể hơn là khuyến khích sản xuất phát triển mạnh. => Từ những điều trên Keynes cho rằng nhà nước cần dùng hệ thống tài chính, tín dụng, tiền tệ để kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của doanh nhân. Thứ ba: Về giá cả, tiền công. Một sự khác biệt rõ rệt nhất và cũng là quan điểm sai lệch nhất của Keynes so với các trường phái cổ điển và tân cổ điển đó là ông coi giá cả và tiền công (hay còn gọi là giá cả của sức lao động) luôn luôn ổn định hay cứng nhắc. Để làm rõ điều đó ta đi đến ba lập luận sau. Một: đấy là vấn đề hợp đồng lao động. Các nhà sản xuất hay chủ doanh nghiệp để giữ được lao động làm việc cho mình giữa họ đã hình thành những bản hợp đồng lao động dài hạn. Chính vì thế mà lương theo hợp đồng lao động không thể điều chỉnh đột ngột. Trong trường hợp có thay đổi hợp đồng vì không thể tất cả doanh nghiệp, các ngành sản xuất trong nền kinh tế cùng đồng loạt thay đổi hợp đồng vào cung một thời điểm. Nên chỉ có một bộ phận lao động được thay đổi tiền công. Nhưng nhìn chung, xét tổng quan trên toàn nền kinh tế thì tiền công là không đổi. Hai là về tiền công hiệu xuất. Tức là để khuyến khích sự nhiệt tình lao động và giữ lại những lao động lành nghề trong thời điểm thất nghiệp phát sinh các nhà doanh nghiệp vẫn có thể không cắt giảm tiền. Nhưng khi tiền công không bị cắt giảm khối lượng tiền mặt tham gia thị trường không bị hạn chế mà ngược lai ngày càng gia tăng làm cho nền kinh tế rơi vào bế tắc khủng hoảng thì lẽ dĩ nhiên thất nghiệp vẫn không thể được giải quyết, thị trường lao động vẫn mất cân bằng. Ba là về giá cả hàng hóa. Khi mà thị trường có sự cạnh tranh không hoàn hảo hay sảy ra tình trạng độc quyền thị trường thì cho dù thị trường có biến động đi chăng nữa thì các doanh nghiệp độc quyền đó chưa chắc hay nói đúng hơn là không muốn thay đổi giá bán của mình. Bởi các doanh nghiệp lo sợ khi giá bán thay đổi doanh nghiệp xẽ thu được khoản lợi nhuận ít đi, hoặc không thu được lợi nhuận gì và thậm chí có thể sẽ thua lỗ do doanh thu không bù lại những chi phí đã bỏ ra dể sản xuất ra hàng hóa đó. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM CỦA KEYNES 1. ĐÓNG GÓP Về mặt lí luận: Keynes đã có công trong việc điều chỉnh kinh tế học truyền thống, xây dựng hệ thống lí luận mới. Dùng các chính sách tiền tệ nói riêng và vai trò can thiệp của nhà nước nói chung tác động bình ổn nền kinh tế. Thay thế hoàn toàn tư tưởng tự do kinh doanh của các trường phái kinh tế trước đó. Về mặt chính sách: Keynes đã phủ định hoàn toàn tư tưởng kinh tế của các nhà cổ điển cho rằng tiền tệ chỉ là để làm vật trung gian, thước đo của giả trị của các hàng hóa mà không có tác động gì thêm. Ngược lại thông qua nhà nước Keynes coi các chính sách tài chính, tiền tệ là biện pháp chủ yếu giải quyết các vấn đề quan trọng của nền kinh tế và chủ trương áp dụng chính sách số hụt tài chính mở rộng. 2. HẠN CHẾ Trong một thời gian dài lí thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi tuy nhiên nó cũng thể hiện một số hạn chế: - Mục đích của lí thuyết Keynes là chống khủng hoảng và thất nghiệp song thực tế trong những năm thực hiện lí thuyết này thì cứ bốn năm lại có một lần chấn động kinh tế. - Nạn thất nghiệp không những không được khắc phục mà còn có xu hướng gia tăng. Tư tưởng "lạm phát có điều tiết" của Keynes góp phần làm tăng sự trầm trọng của lạm phát, một căn bệnh nan giải của nền kinh tế hiện đại. - Công cụ lãi xuất, tiền tệ điều tiết đầu tư không có hiệu quả và nhiều khi còn tác động ngược lại. - Nắm nhu cầu xã hội đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, Keynes đưa ra lí thuyết chủ nghĩa tư bản được điều tiết. Song khi đánh giá cao vai trò của nhà nước ông lại bỏ qua vai trò của tư tưởng tự do của bàn tay vô hình, của cân bằng tổng quát. - Lí luận "Tăng cầu hiệu quả" của keynes còn phiến diện. Song nguy hại hơn là kích thích lối sống hưởng thụ và đặc biệt hơn là kích chiến tranh, quân sự hóa nền kinh tế. Điều này lại càng thúc đẩy mạnh bởi Keynes quá đề cao vai trò của nhà nước trong việc can thiệp vào đời sống kinh tế. => Điều đó làm gia tăng xu hướng xu hướng phê phán lí thuyết của ông. 3. NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ CỦA KEYNES Ngay từ đầu trong cách tiếp cận vấn đề của Keynes, ông đã xuất phát và đi thẳng vào quan điểm giá cả, tiền lương ổn định, cứng nhắc, không có sự biến động. Theo quan điểm của Keynes, các chính sách tiền tệ và tài khóa có thể thay thế cho giá cả tiền lương linh hoạt, kích thích nền kinh tế trong thời kì suy thoái, làm giảm tổng cầu trong thời gian khủng hoảng kinh tế, nhằm ngăn chặn các xu hướng lạm phát. Những người thuộc trường phái Keynes tin tưởng rằng: chính phủ có thể tác động đến hoạt động kinh tế thực sự, bằng cách thi hành các chính sách tiền tệ hay tài khóa nhằm thay đổi tổng cầu trong hoạt động kinh tế bị đình trệ. Hoăc kìm chế chi tiêu trong thời kì lạm phát. Khi chi tiêu chính phủ tăng, giảm thuế hay tăng cung tiền, tất cả đều tạo sẩn phẩm hơn và vì vậy khuyến khích đầu tư. Trong khi thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Thị trường không đứng yên, nó không ngừng biến động giữa hai đại lượng cung và cầu hàng hóa. Khi cung không đổi mà cầu lại tăng thì lẽ đương nhiên giá hàng hóa sẽ phải tăng hay khi cung tăng cầu không đổi, giá hàng hóa sẽ giảm xuống. Các sự tác động ấy sẽ kéo cung- cầu về vị trí cân bằng, ổn định nền kinh tế. Về vấn đề tiền lương, khi cung hàng hóa tăng các nhà sản xuất cần một lượng lớn sức lao động, lúc này tiền lương sẽ tăng. Ngược lại, khi cung hàng hóa giảm làm giảm cầu về nguồn lao động dẫn tới tiền lương giảm. Nhưng đấy là sự điều tiết khách quan của thị trường mà Keynes đã không nhìn ra khi quá kì vọng vào bàn tay nhà nước. IV. SỰ VẬN DỤNG LÍ THUYẾT CỦA KEYNES TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1. TÌNH HÌNH KINH TẾ NƯỚC TA NHỮNG NĂM QUA Một đặc điểm quan trọng của Việt Nam là chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường từ một nền kinh tế hậu chiến, tuân theo mệnh lệnh và kế hoạch hóa. Chính vì thế khi chuyển đổi Việt Nam thiếu rất nhiều kinh nghiệm trong điều hành kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách kích thích động cơ của các chủ thể kinh tế. Theo thời gian, tính thị trường của nền kinh tế ngày càng phát triển, thì vai trò nhận thức nền kinh tế càng trở nên cấp thiết, Xét trên lĩnh vực chính sách kinh tế, mặc dù không có sự đồng thuận rõ ràng nào về một trường phái kinh tế theo đúng nghĩa đen của cụm từ này nằm sau các chính sách của Việt Nam sau 20 năm qua, nhưng dường như đã có một dạng thô sơ của chủ nghĩa Keynes trong các chính sách kinh tế của Việt Nam trong đó có các lí thuyết về tiền tệ và giá cả. Có hai lí do thực tế để đất nước ta theo chủ nghĩa Keynes đấy là. Thứ nhất: Những nhà chính sách có ảnh hưởng lớn nhất trong giai đoạn đầu đều là những người được đào tạo trong thời kế hoạch hóa, do đó họ tìm thấy ở kinh tế học trường phái Keynes một chỗ dựa khá thân quen và dễ chịu cho những gợi ý chính sách của mình. Thứ hai nền kinh tế Việt Nam được đặc trưng bởi vai trò chi phối của nhà nước ngay từ những ngày đầu chuyển đổi( Và cho đến tận bây giờ), đã trở thành "một mảnh đất màu mỡ" cho các loại chính sách can thiệp, xuất hiện và tồn tại vững chắc. Hai nhân tố trên tự hỗ trợ và tự tái tạo lẫn nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây nhà nước ta quy định giá cả thu mua nông sản của nông dân, giá cả đối với tất cả các loại hàng hóa, vật tư nguyên liệu, nhiên liệu là đầu vào của sản xuất nên giá cả của hàng hóa luôn luôn cứng nhắc không biến đổi, và quản lí, phân phối các loại hàng hóa này thông qua một hệ thống các cơ quan cung ứng vật tư của nhà nước. Giá cả hàng hóa nói chung đều do nhà nước quy định và phân phối bằng tem phiếu và thông qua hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán gọi là thị trường có tổ chức. Cơ chế giá cả đó đã làm cho nền kinh tế mang tính hiện vật, hạn chế tác dụng của các quy luật kinh tế thị trường và làm giảm hiệu quả kinh tê, dẫn tới tất yếu nền kinh tế giai đoạn này trì trệ, kém phát triển. Chính vì vậy nhà nước thi hành chính sách một giá kinh doanh, cuộc cải cách giá cả được thực hiện căn bản trong những năm 1987-1990: cụ thể là: + Xóa bỏ cơ chế định giá nông sản bán theo nghĩa vụ đối với nông dân. Nông dân sau khi hình thành nghĩa vụ về thuế, có quyền tự do bán sản phẩm trên thị trường. Năm 1987-1988, nhà nước dùng vật tư đổi lấy nông sản hoặc mua bằng tiền mặt theo khung giá do Trung ương chỉ đạo (giá mua nông sản đã được tăng lên). Đến năm 1988 nhà nước quy định khung giá cho toàn bộ cơ chế và giá mua bán nông sản đã do thị trường quyết định. + Điều chỉnh giá bán lẻ hàng tiêu dùng và dịch vụ những năm 1986-1988 được thực hiện theo chính sách hai giá: giá cu
Tài liệu liên quan