Gia đình là đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành nhân cách con trẻ và có ảnh hưởng lâu dài trong suốt củaộc đời của mỗi cá nhân. Công củaộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đắt nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về chất lượng của con người. Đó là sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và nhân cáh của con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ.
Giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi của nội dung giáo dục. Nó giữ vị trí chủ đạo và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách để hình thành nên những phẩm chất đạo đức cho thiếu niên, giúp các em xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển và hình thành nhân cách.
Hiện nay, kinh tế đất nước có những biến chuyển tích cực và không ngừng phát triển, nên đời sống của gia đình cũng được cải thiện, nâng cao. Bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ của các bậc làm cha, mẹ mải lo kiếm tiền, ham lợi công danh, phó mặc con cái mình cho nhà trường, cho xã hội. Họ cho rằng chỉ cần đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho con về vật chất là con trẻ có thể sống thoải mái và được phát triển về mọi mặt. Chính vì điều đó họ đã quên đi, xao nhãng trách nhiệm dạy dỗ con cái của mình. Bên cạnh đó con trẻ đang chịu ảnh hưởng các hiện tượng sống buông thả, vô trách nhiệm, thực dụng, cư sử vô văn hoá hàng ngày hàng giờ. Thực tế cho thấy gần đây hiện tượng trẻ em hỗn láo với cha mẹ, vô lễ với thầy cô, gây gổ đánh lộn, lừa đảo, trộm cắp v.v. không còn là những trường hợp cá biệt.
39 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2385 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ Thành huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------
Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài:
Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức
cho thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ Thành huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Lê Khanh
Sinh viên : Bùi Thị Huyền
Lớp : K46-TLH
Hà Nội -2005
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Gia đình là đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành nhân cách con trẻ và có ảnh hưởng lâu dài trong suốt củaộc đời của mỗi cá nhân. Công củaộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đắt nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về chất lượng của con người. Đó là sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và nhân cáh của con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ.
Giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi của nội dung giáo dục. Nó giữ vị trí chủ đạo và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách để hình thành nên những phẩm chất đạo đức cho thiếu niên, giúp các em xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển và hình thành nhân cách.
Hiện nay, kinh tế đất nước có những biến chuyển tích cực và không ngừng phát triển, nên đời sống của gia đình cũng được cải thiện, nâng cao. Bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ của các bậc làm cha, mẹ mải lo kiếm tiền, ham lợi công danh, phó mặc con cái mình cho nhà trường, cho xã hội. Họ cho rằng chỉ cần đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho con về vật chất là con trẻ có thể sống thoải mái và được phát triển về mọi mặt. Chính vì điều đó họ đã quên đi, xao nhãng trách nhiệm dạy dỗ con cái của mình. Bên cạnh đó con trẻ đang chịu ảnh hưởng các hiện tượng sống buông thả, vô trách nhiệm, thực dụng, cư sử vô văn hoá hàng ngày hàng giờ. Thực tế cho thấy gần đây hiện tượng trẻ em hỗn láo với cha mẹ, vô lễ với thầy cô, gây gổ đánh lộn, lừa đảo, trộm cắp v.v.... không còn là những trường hợp cá biệt.
Thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình đang đặt ra hàng loạt những vấn đề bức xúc cần nghiên cứu và ga.
Xuất phát từ đó chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên ở xã Mỹ Thành, Lạc Sơn - Hoà Bình” là đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình tại xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
3. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình tại xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình hiện nay.
4. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài này có:
- 150 thiếu niên là học sinh trường trung học cơ sở xã Mỹ Thành - Lạc Sơn - Hoà Bình trong độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi.
- 150 bậc phụ huynh học sinh ở xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình, là chủ thể của công tác giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
- 20 thầy cô giáo chủ nhiệm lớp tại trường trung học xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình, cùng với các ông bà làm công tác quần chúng trong xã Mỹ Thành, những người trực tiếp tham gia phối hợp với gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài tập trung giải quyết hai nhiệm vụ:
- Nhiệm vụ lý luận: Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Nhiệm vụ thực tiễn: Khảo sát đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
Trên cơ sở đó đề xuất những khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho thiếu niên của gia đình.
6. Giả thuyết khoa học.
Hiện nay ở xã Mỹ Thành, vẫn còn một bộ phận không nhỏ các em thiếu niên trong các gia đình có những hành vi vi phạm đạo đức, nhiều gia đình vẫn còn sử dụng những phương pháp giáo dục đạo đức thiếu tính khoa học không phù hợp với lứa tuổi thiếu niên và chưa tích cực phối hợp với nhà trường, xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
7. Phạm vi nghiên cứu.
- Địa bàn được nghiên cứu là xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
8. Phương pháp nghiên cứu.
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản.
8.2. Phương pháp nghiên cứu bằng bảng hỏi.
Phương pháp này sử dụng để tìm hiểu thực trạng đạo đức cho thiêu niên trong các gia đình tại xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
Có 3 loại bảng hỏi:
1. Bảng hỏi dành cho bậc cha mẹ.
Gồm 17 câu hỏi trong đó:
+ Tìm hiểu sự hiểu biết của cha mẹ về quy luật phát triển tâm lí lứa tuổi thiếu niên và vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
+ Tìm hiểu các nội dung giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
+ Tìm hiểu các hình thức và các phương pháp giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
+ Tìm hiểu những khó khăn và những thuận lợi của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
+ Tìm hiểu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
2. Bảng hỏi dành cho các em thiếu niên:
Gồm 13 câu hỏi, trong đó:
+ Kiểm tra mức độ quan tâm của cha mẹ trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
+ Tìm hiểu các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho thiếu niên mà các gia đình thường áp dụng.
+ Tìm hiểu các mong muốn và thái độ của các em thiếu niên đối với sự giáo dục đạo đức của gia đình.
+ Tìm hiểu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
3. Bảng hỏi dành cho các thầy (cô) giáo chủ nhiệm.
* Phương pháp thống kê toán học.
Phương pháp này chủ yếu được dùng để chia tỉ lệ % tính điểm trung bình các số liệu thu thập được.
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
Trong những năm gần đây vấn đề giáo dục ở nước ta được nhiều người quan tâm, suy nghĩ và bàn cãi. Số người quan tâm rất lớn và phạm vi quan tâm rất rộng rãi, từ các bậc cha mẹ đến các thầy cô giáo, từ các cơ quan pháp luật đến các tổ chức đoàn thể xã hội, từ các nhà khoa học, nhà giáo dục đến các nhà lãnh đạo các cấp chính quyền.v.v...
Từ góc độ tâm lý học, giáo dục học, có nhiều chương trình đã nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho học sinh của nhiều tác giả trong nước đã công bố.
Ở những thập kỷ cuối thế kỷ XX, các tác giả Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong, và nhiều tác giả khác đã có những công trình nghiên cứu và đề xuất các giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học, từ đó giáo dục nhân sinh quan, thế giới quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh.
- Phạm Minh Hạc nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách và đề xuất việc thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh trong quá trình giáo dục nhân cách, xem đó là mục tiêu quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.
- Phạm Tất Dong nghiên cứu cơ sở tâm lý của việc giáo dục hướng nghiệp gắn với hoạt động giáo dục đạo đức, nhằm hình thành lí tưởng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ.
- Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục nhận thức khoa học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cáh trong lối sống từ đó đưa ra dự báo mô hình nhân cách thanh niên năm 2000.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học hết sức quan tâm hiện tượng suy thoái, thậm chí băng hoá đạo đức ở một bộ phận thanh thiếu niên do tác động tích cực từ những mặt trái của cơ chế thị trường nên đã có những chương trình khoa học đáng quan tâm như:
- Đề tài: “Cải tiến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh và sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân” do giáo sư Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm (mã số NN7). Đề tài này mang lại nhiều nội dung mới về giáo dục đạo đức chính trị, tư tưởng trong các trường học từ bậc tiểu học đến bậc đại học.
- Đề tài: “Giá trị định hướng giá trị, giáo dục giá trị” do giáo sư Phạm Minh Hạc chủ trì (mã số KX07, 1991-1995). Đề tài này nghiên cứu con người với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển, trong đó có đề cập khá nhiều đến vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách con người.
Ngoài ra còn rất nhiều chương trình nghiên cứu và nhiều bài viết khác về đề tài giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, khó có thể liệt kê ra hết được.
Trong khoá luận của mình, tôi đã cố gắng kế thừa kết qủa nghiên cứu của các công trình trên để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài của mình, góp tiếng nói khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho thế hệ tiếp nối, đó là trẻ em những chủ nhân tương lai của đất nước.
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI.
2.1. Khái niệm giáo dục.
Giáo dục là hoạt động đặc trưng của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định, thuật ngữ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Trong nghĩa rộng, bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ thống các tác động sư phạm khác diễn ra ở trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà trường cũng như trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là quá trình hình thành nhân cách con người, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo đức, phát triển trí tuệ, thể lực và tình cảm lao động, thẩm mỹ, chuẩn bị cho con người tham gia tích cực vào đời sống xã hội.
Từ những điều đó ta thấy khái niệm giáo dục có yêu cầu rất cao về phẩm chất con người.
Giáo dục theo nghĩa hẹp: Đó là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt đạo đức, tư tưởng và hành vi.... Nhằm hình thành lên những nhân cách này đến những nhân cách khác, tác động của giáo dục đến người được giáo dục cũng như tác động của những người được giáo dục với nhau. Chính thông qua các loại hình giáo dục được thực hiện trong những mối liên hệ xã hội nhất định mà nhân cách của người học được hình thành và phát triển.
2.2. Khái niệm đạo đức.
*Đinh nghĩa đạo đức:
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân củaộc sống con người. Trong đời sống mỗi con người, quy luật xã hội tất yếu đòi hỏi họ phải ý thức được ý nghĩa, mục đích hoạt động của mình trong qua khứ, hiện tại và nhu cầu phải làm gì trong tương lai. Những hoạt động đó bao giờ cũng có sự chi phối về mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội cho phép tới một giới hạn nhất định trong vòng trật tự chung của cộng đồng, của dân tộc nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các thành viên vươn lên tích cực, tự giác, tạo thành động lực phát triển của hội. Đó chính là quy tắc chuẩn mực hoàn toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các quan hệ xã hội, để từ đó đánh giá con người có đạo đức hay phi đạo đức.
Vì vậy, có thể hiểu đạo đức một cách khái quát theo một vài định nghĩa sau:
- Theo cuốn từ điển Bách khoa Việt Nam thì đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
- Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên.
- Đạo đức là hệ thống những quy tắc chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với con người với cộng đồng xã hội với tự nhiên và với cả bản thân mình.
- Có thể nói đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được hình thành rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp lên cao như những nấc thang giá trị của văn minh con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật chất và thông quá sự đấu tranh gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn. Trong củaộc sống hiện thực, đạo đức bao giờ cũng gồm ý thức, tình cảm và hành động thực tiễn. Cả ba mặt đó thường thì thống nhất với nhau nói lên năng lực phục vụ một cách tích cực, tự giác của cá nhân trong mối tương quan vì lợi ích của người khác và xã hội.
Do đó, việc giáo dục đạo đức phải bao gồm cả ba mặt nhằm hình thành những dạng đạo đức luôn luôn mang tính tích cực xã hội.
*Chức năng của đạo đức:
- Chức năng định hướng giáo dục: Con người muốn làm được điều thiện, tránh được điều ác, muốn cho những hành vi của mình được mọi người chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên án thì họ phải nắm được những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản, từ đó con người có thể tự do lựa chọn cho mình những hành vi phù hợp, đồng thời mới có khả năng đánh giá đúng đắn các hiện tượng hành vi trong quan hệ xã hội theo quan niệm đạo đức tiến bộ xã hội. Vì vậy công tác giáo dục đạo đứcgóp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển nhân cách.
Nhờ có chức năng giáo dục và khả năng tự giáo dục mà người ta học tập được ở những tấm gương đạo đức cao cả xả thân làm việc nghĩa, hi sinh quên mình cho đất nước, kiên cường đấu tranh cho chân lí.... Góp phần làm cho xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tiến bộ. Chính vì vậy mà khi xem xét nhân cách, người ta coi đạo đức và năng lực (đức và tài) là hai mặt cơ bản hợp thành nhân cách con người. Nhiều quan điểm cho rằng đạo đức là gốc của nhân cách, vì thế “tiên học lễ, hậu học văn”, hoặc như tục ngữ phương Tây “người thành đạt trong học thức mà không thành đạt trong đạo đức coi như không thành đạt”.
- Chức năng điều chỉnh hành vi.
Để đảm bảo cho xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp, tất yếu phải có một hệ thống quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp cách này hay cách khác lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy chức năng điều chỉnh của đạo đức gắn bó mật thiết với chức năng quản lí xã hội. Trong củaộc sống hiện thực, con người có nhiều mối quan hệ rất đa dạng phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết. Giải quyết mối quan hệ không chỉ ở trong suy nghĩ mà phải bằng hành động. Nhất là các mối quan hệ có liên quan đến lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, chúng luôn có những mâu thuẫn cấu xé nhau, cho nên chủ thể của đạo đức phải đấu tranh bản thân vô cùng quyết liệt, nếu không dựa vào một hệ thống nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực của xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn cân nhắc, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi của cá nhân do nhiều thiết chế xã hội như pháp luật, phong tục tập quán nhưng về phía đạo đức là do dư luận xã hội lên án hay đồng tình, do lương tâm thoải mái hay không thoải mái. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi tức là quá trình đấu tranh chiến thắng của cái thiện với cái ác v.v... Như vậy chức năng giáo dục và điều chỉnh của đạo đức luôn gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá. Trên cơ sở của những điều kiện kinh tế vật chất xã hội nhất định, thời đại nào cũng có những yêu cầu về tri thức đạo đức tương ứng làm nền tảng cho củaộc sống. Mỗi cá nhân vì củaộc sống của mình, vì hoạt động cho tiến bộ của xã hội đều phải có những phẩm chất đạo đức và năng lực nhất định. Vì vậy họ phải nắm được những tri thức phản ánh đời sống xã hội một cách tích cực, đó là những quan điểm tư tưởng, những nguyên tắc những chuẩn mực hành vi đạo đức tiến bộ. Nhờ đó mà chủ thể đạo đức phân biệt được cái tốt cái xấu, cái thiện, cái ác trong thực tiễn củaộc sống thường xuyên biến đổi và định hướng chính xác, tin tưởng vào hành vi của mình.
Những quan điểm đạo đức sai lầm, lạc hậu không giúp cho con người nhận thức đúng quy luật phát triển xã hội dẫn đến những hành vi sai lạc làm cho con người bi quan, chán nản, bế tắc trước củaộc sống hiện tại, mất định hướng trong tương lai.
Những tri thức đạo đức và những phẩm chất đạo đức tiến bộ không phải tự nhiên mà có, mà phải thông qua quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong lao động và đấu tranh bền bỉ hàng ngày như Bác Hồ đã dạy “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” mới có thể giữ vững và nâng cao được những phẩm chất tốt đẹp của cá nhân, phù hợp với lợi ích chung của xã hội.
2.3. Khái niệm gia đình.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên của mỗi người là tế bào hợp thành xã hội. Tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu, cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về gia đình:
* Định nghĩa gia đình:
- Từ góc độ xã hội học, gia đình được xem như một nhóm nhỏ của xã hội, gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân huyết thống. Xã hội chủ yếu nghiên cứu những vấn đề xã hội của gia đình như mối quan hệ bên trong gia đình tác động qua lại giữa gia đình, xã hội.
- Từ góc độ kinh tế học, gia đình được coi là một đơn vị kinh tế, đơn vị tiêu dùng nhằm thoả mãn các nhu cầu ăn, mặc, học hành, chăm sóc sức khoẻ.... của các thành viên trong gia đình.
- Từ góc độ của văn hoá học, gia đình là một thiết chế xã hội mang màu sắc dân tộc và đánh dấu tiến trình phát triển về văn hoá.
- Từ góc độ tâm lý học xã hội, gia đình được định nghĩa như sau:
“Gia đình là một nhóm nhỏ của xã hội, các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, cùng có chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định” (theo Lê Công Hoàn, tâm lý giáo dục.
* Đặc điểm của gia đình.
- Từ định nghĩa trên ta thấy gia đình có các đặc điểm sau đây:
+ Gia đình là một nhóm xã hội, một đơn vị kinh tế, là nơi tái sản xuất ra con người, các thành viên trong gia đình sống chung một mái nhà. Các thành viên trong gia đình có thể thuộc nhiều thế hệ, gắn bó với nhau bởi quan hệ tình cảm, huyết thống, chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp với nhau về nếp sống, sinh hoạt, phong tục.... tạo nên bản sắc văn hoá riêng của gia đình.
+ Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh lý, cha mẹ truyền lại cho con cái những đặc điểm thể chất qua kênh gen di chuyền sinh học và giáo dục con cái hình thành nếp sống theo văn hoá riêng của mỗi gia đình.
+ Các thành viên trong gia đình có quan hệ kinh tế, sống và hoạt động bằng một ngân sách chung do các thành viên trong gia đình lao động đem lại.
*Chức năng của gia đình:
Từ góc độ tâm lý học và giáo dục học, gia đình có chức năng sau đây:
- Chức năng sinh sản ra con người duy trì nòi giống:
Đây là một chức năng rất quan trọng của gia đình, vì con người là “sản phẩm” quý nhất của xã hội, là điều kiện và nhân tố không thể thiếu để xã hội tồn tại và phát triển. Việc sinh con không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu, mong ước của người chồng, người vợ còn là một vấn đề xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội loài người.
- Chức năng xã hội hoá và giáo dục con cái.
Trong lịch sử phát triển nhân loại, gia đình là nhân tố đầu tiên giáo dục thế hệ trẻ, góp phần quan trọng làm cho họ lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội lịch sử, có thái độ hành động phù hợp với yêu cầu của xã hội. Chính trong quá trình này mỗi cá nhân được xã hội hoá. Theo G.Andreeva đây là một quá trình gồm hai mặt, mặt cá nhân tiếp nhận khái niệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động các mối quan hệ xã hội qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội. Như vậy, trong quá trình xã hội hoá, cá nhân không chỉ đơn thuần thừa nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển nó thành giá trị tâm thế, xu hướng.... của cá nhân và trên cơ sở đó tham gia tái tạo sản xuất chúng trong xã hội.
Không thể phủ nhận vị trí quan trọng của giáo dục gia đình, bởi gia đình là môi trường xã hội, môi trường giáo dục đầu tiên, quan trọng vào bậc nhất của mỗi cá nhân. Trong quá trình sống, trước khi tiếp thu những yếu tố văn hoá chung của xã hội, mỗi người tiếp nhận đặc điểm văn hoá của gia đình mình. Những kinh nghiệm sống, các quy tắc ứng xử, các giá trị.... đầu tiên của con người được tiếp nhận từ chính quá trình quan hệ với các thành viên trong gia đình (với bố, mẹ, ông, bà). Một đặc điểm cơ bản trong việc lĩnh hội những nét văn hoá đặc trưng này củaatrer là bắt chước, noi theo, kết quả của sự bắt chước, noi theo của trẻ có thể diễn ra ngay thời điểm đó, nhưng cũng có thể xuất hiện bột phát trong ứng xử của trẻ tại một