Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của u nang thượng bì (UNTB) hố sọ sau. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu và hồi cứu mô tả hàng loạt ca. Mẫu nghiên cứu là tất cả bệnh nhân đã chẩn đoán UNTB hố sau được điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần kinh‐BV Chợ Rẫy từ tháng 1/2008 đến tháng 06/2012. Các đặc điểm về triệu chứng lâm sàng cũng như trên hình ảnh học CT scan và MRI được khảo sát. Tình trạng trước mổ được đánh giá bằng thang điểm Glasgow và Karnofsky. Kết quả phẫu thuật đánh giá lúc ra viện bằng điểm GOS, lấy hết u và biến chứng sau mổ. Kết quả: Nghiên cứu có 28 trường hợp UNTB hố sọ sau được phẫu thuật. Tuổi trung bình của 10 nam (36%) và 18 nữ (64%) là 40,7 ± 10,2 tuổi. Triệu chứng lâm sàng gồm: đau đầu (89%), đau dây V (46,5%), dấu tiểu não (50%). UNTB hố sau thường gặp ở góc cầu tiểu não (78,6 %), còn lại là ở não thất IV và tiểu não đều là 10,7%. Kết quả lấy toàn bộ u‐hết bao là 32%, có 1 trường hợp tử vong do mổ (3,6%), 2 trường hợp liệt dây IX, X (7,2%) và 1 liệt mặt ngoại biên (3,6%). Không có biến chứng viêm màng não hay dò dịch não tủy sau mổ. 93 % có kết quả tốt sau mổ với tỉ lệ hồi phục là 82,1% và di chứng vừa 10,7%. Kết luận: UNTB hố sọ sau tập trung chủ yếu ở vị trí góc cầu tiểu não. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chọn lựa có độ an toàn và hiệu quả cao. Kế hoạch phẫu thuật là lấy càng nhiều bao u càng tốt nhưng có thể để lại bao u dính vào cấu trúc quan trọng.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật u nang thượng bì hố sọ sau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 150
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U NANG THƯỢNG BÌ HỐ SỌ SAU
Huỳnh Lê Phương*, Trần Thiện Khiêm*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của u nang thượng bì
(UNTB) hố sọ sau.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu và hồi cứu mô tả hàng loạt ca. Mẫu nghiên cứu là tất cả bệnh nhân đã
chẩn đoán UNTB hố sau được điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần kinh‐BV Chợ Rẫy từ tháng 1/2008 đến
tháng 06/2012. Các đặc điểm về triệu chứng lâm sàng cũng như trên hình ảnh học CT scan và MRI được khảo
sát. Tình trạng trước mổ được đánh giá bằng thang điểm Glasgow và Karnofsky. Kết quả phẫu thuật đánh giá
lúc ra viện bằng điểm GOS, lấy hết u và biến chứng sau mổ.
Kết quả: Nghiên cứu có 28 trường hợp UNTB hố sọ sau được phẫu thuật. Tuổi trung bình của 10 nam
(36%) và 18 nữ (64%) là 40,7 ± 10,2 tuổi. Triệu chứng lâm sàng gồm: đau đầu (89%), đau dây V (46,5%), dấu
tiểu não (50%). UNTB hố sau thường gặp ở góc cầu tiểu não (78,6 %), còn lại là ở não thất IV và tiểu não đều là
10,7%. Kết quả lấy toàn bộ u‐hết bao là 32%, có 1 trường hợp tử vong do mổ (3,6%), 2 trường hợp liệt dây IX,
X (7,2%) và 1 liệt mặt ngoại biên (3,6%). Không có biến chứng viêm màng não hay dò dịch não tủy sau mổ. 93
% có kết quả tốt sau mổ với tỉ lệ hồi phục là 82,1% và di chứng vừa 10,7%.
Kết luận: UNTB hố sọ sau tập trung chủ yếu ở vị trí góc cầu tiểu não. Phẫu thuật là phương pháp điều trị
chọn lựa có độ an toàn và hiệu quả cao. Kế hoạch phẫu thuật là lấy càng nhiều bao u càng tốt nhưng có thể để lại
bao u dính vào cấu trúc quan trọng.
Từ khóa: U nang thượng bì, hố sọ sau, góc cầu tiểu não.
ABSTRACT
THE SURGICAL TREATMENT OF THE EPIDERMOID CYST IN POSTERIOR FOSSA
Huynh Le Phuong, Tran Thien Khiem
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 150 ‐ 156
Objective: To evaluate the clinical feature, radiology and results of surgical treatment of the epidermoid
cysts in the posterior fossa.
Methods: Prospective‐ Retrospective descriptive study. From 1/2008 to 6/2012, all the patients who had
been diagnosed the epidermois cyst and had underwent operation in Cho Ray hospital including this study. We
described clinical features of the posterior fossa epidermoid cysts, diagnosis were made by MRI of the brain. All
patients were assessed by the GCS and Karnofsky scale in the preoperative. The post‐operative results were
evaluated by GOS, total removed tumor and complication on the discharge time.
Results: Study had 28 patients with the posterior fossa epidermoid cysts who underwent surgery at the
Neurosurgery department of Cho Ray Hospital from 1/2008 to 06/2012. Mean age of the 10 male (36%) and 18
female (64%) patient was 40.7 ± 10.2 years (ranging 22 ‐ 57 years). Clinical features consisted of: headache
(89%), trigeminal neuralgia (46.5%), cerebellar signs (50%). The highest incidence of the posterior fossa
epidermoid cysts was cerebellopontine angle (78.6%), remaining position were cerebellum and the four ventricles
(10.7%). One patient died in this study. Complications in surgical group include two of the nerve IX, X palsy
(7.2%) and one case of the facial palsy (3.6%). There were no meningitis, or CFS leakage. 93% patients had post‐
* Khoa Ngoại Thần kinh, bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. BS Huỳnh Lê Phương ĐT: 0909225188 Email: phuongsds@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 151
operative good outcome (good recovery: 82.1% and moderate disability 10.7%).
Conclusions: The highest incidence of the posterior fossa epidermoid cysts was cerebellopontine angle. The
surgical treatment of posterior fossa epidermoid cysts was safe and effective treatment. The surgical plan is to
remove as much as possible but can leave capsule adherent to critical structures.
Key words: Epidermoid cyst, Posterior fossa, Cerebellopontine angle.
MỞ ĐẦU
U nang thượng bì (UNTB) là một thương tổn
bẩm sinh lành tính hiếm gặp, chiếm tỉ lệ từ 1‐2%
các loại u trong sọ(1, 4). UNTB có nguồn gốc từ
ngoại bì phôi và được hình thành do sự tách
không hoàn toàn giữa ngoại bì da và ngoại bì
thần kinh trong giai đoạn đóng ống thần kinh
xảy ra vào tuần thứ 3 đến tuần thứ 5 của thai kì.
Vì có nguồn gốc khiếm khuyết bẩm sinh trong
phôi thai, UNTB thường gặp ở những vị trí xa
đường giữa trong sọ. Tuy nhiên, cũng có thể gặp
UNTB ở nhiều vị trí khác như: vùng trên yên,
sàn não thất IV, vùng tuyến tùng, thể chai, trong
mô não, trong tủy sống và xương sọ. Trong đó
vùng hố sọ sau đặc biệt là góc cầu tiểu não
chiếm tỉ lệ cao nhất, khoảng 40%‐50% tổng số ca
UNTB nội sọ và đứng hàng thứ ba trong các loại
u não tại vùng này sau u sợi thần kinh và u
màng não.
UNTB không nhạy cảm với tia xạ, do đó
điều trị phẫu thuật là lựa chọn hàng đầu. Phẫu
thuật, lấy toàn bộ u là lý tưởng nhất và mục tiêu
của điều trị phẫu thuật là giảm được tỉ lệ tái
phát và biến chứng viêm màng não sau mổ. Từ
hơn nửa thế kỷ nay đã có nhiều báo cáo về phẫu
thuật UNTB nội sọ cho kết quả khả quan như
trong báo cáo của tác giả Yasargil năm 1989 với
tỉ lệ lấy toàn phần u là 95%. Tuy nhiên, đối với
UNTB vùng hố sọ sau ngoài việc u liên quan
mật thiết với các cấu trúc thần kinh mạch máu
quan trọng, vỏ bao của chúng còn dính chặt vào
các cấu trúc này làm cho phẫu thuật lấy toàn bộ
u vẫn là một thực tế khó khăn. Cho đến nay
trong y văn vẫn còn có những ý kiến trái ngược
nhau về vấn đề nên lấy hết u hay không. Nhiều
tác giả cho rằng lấy hết u để tránh tái phát, trong
khi vài tác giả lại khuyên không nên quá cố gắng
để tránh biến chứng do phẫu thuật, đây là vấn
đề còn bàn cãi.
Ở nước ta có rất ít các báo cáo về u này và số
lượng cỡ mẫu nhỏ(4). Bệnh viện Chợ Rẫy chúng
tôi ghi nhận hằng năm có từ 12~15 trường hợp
UNTB được chẩn đoán và điều trị phẫu thuật.
Trên cơ sở Khoa Ngoại thần kinh bệnh viện Chợ
Rẫy, tỉ lệ bệnh lý này tập trung là cơ sở để chúng
tôi tiến hành đề tài này nhằm 2 mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học
của UNTB hố sọ sau.
Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật UNTB
hố sọ sau.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
28 trường hợp UNTB hố sọ sau được phẫu
thuật từ tháng 01/2008‐ 06/2012.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp: tiến cứu và hồi cứu mô tả
hàng loạt ca.
Cách thức tiến hành
Thu thập các dữ liệu lâm sàng và cận lâm
sàng, kết quả phẫu thuật với mẫu bệnh án được
thiết kế sẵn cho tất cả bệnh nhân mổ u não có
kết quả giải phẫu bệnh là UNTB hố sọ sau
Các biến số nghiên cứu bao gồm
Thông tin cá nhân: tuổi, giới, nghề nghiệp.
Lý do nhập viện.
Thời gian bệnh sử, tiền sử.
Triệu chứng lâm sàng gồm cơ năng và thực
thể.
Tri giác được đánh giá theo thang điểm
Glasgow.
Tình trạng sức khỏe trước mổ đánh giá dựa
theo thang điểm Karnofsky.
Khảo sát hình thái u dựa trên CT scan, MRI:
vị trí, tính chất.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 152
Kỹ thuật mổ: lấy hết u, có sử dụng vi phẫu.
Biến chứng sau mổ, tình trạng xuất viện
được đánh giá theo thang điểm GOS.
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Trong thời gian 3,5 năm, chúng tôi đã phẫu
thuật 28 trường hợp UNTB não. Tuổi trung bình
của 10 nam (36%) và 18 nữ (64%) là 40,7 ± 10,2
tuổi (22‐ 57), tập trung nhiều nhất ở nhóm tuổi
từ 40‐ 49 tuổi (32%), nữ gần gấp đôi nam.
Những đặc điểm về bệnh lý của UNTB hố sọ sau
được trình bày dưới đây.
Bảng 1: Thời gian và lý do vào viện
Đặc Điểm Số lượng (%)
Bệnh sử kéo dài
< 3 tháng 6 (21,5%)
3- 6 tháng 3 (10,7%)
> 6 tháng 19 (67,8%)
Lý do nhập viện
Đau đầu 14 (50%)
Đau dây V 9 (32,1%)
Ói 5 (18%)
Yếu liệt nửa người 3 (10,7%)
Chóng mặt 1 (3,6%)
Các triệu chứng lâm sàng của UNTB vùng
hố sau này nổi bật là đau dây thần kinh V
(46,5%), còn lại là những triệu chứng tương tự
như những khối u vùng hố sau khác mà chúng
tôi trình bày trong bảng 2 dưới đây:
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng của UNTB hố sọ sau.
Đặc điểm Số lượng (%)
Đau đầu 25 (89%)
Chóng mặt 19 (68%)
Ói 5 (18%)
Hội chứng tiểu não 14 (50%)
Đau dây V 13 (46,5%)
Ù tai, giảm thính lực 4 (14%)
Yếu nửa người 3 (10,7%)
Liệt thần kinh sọ thấp 2 (7%)
Bình thường 3 (10,7%)
Tri giác của bệnh nhân trước mổ hầu hết đều
tỉnh, tất cả các trường hợp đều có điểm Glasgow
từ 13‐15 điểm. Tình trạng sức khỏe của bệnh
nhân trước mổ được chúng tôi đánh giá bằng
thang điểm Karnofsky thể hiện trong bảng 3:
Bảng 3: Tình trạng trước mổ
Điểm Karnofsky trước mổ Số lượng (%)
<70 1 (3,6%)
70-80 21 (75%)
90 6 (21,4%)
Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán bằng
MRI não và chỉ có 9 trường hợp bệnh nhân được
chụp CT trước mổ. UNTB hố sau thường gặp
nhất là vùng góc cầu tiểu não (78,6%) còn lại ở
các vị trí khác trình bày trong bảng 4.
Bảng 4. Vị trí UNTB hố sọ sau
Vị trí u N (%)
Góc cầu tiểu não 22 (78,6%)
Não thất IV 3 (10,7%)
Tiểu não 3 (10,7%)
Hầu hết chúng tôi chẩn đoán bằng hình ảnh
trước mổ khá chính xác 96,4%, chỉ có 1 trường
hợp chẩn đoán sai (u dây VIII dạng nang).
Chỉ có 9/28 bệnh nhân có chụp CT trước mổ
kết quả là tất cả 9 trường hợp này đều giảm đậm
độ, không bắt thuốc cản quang và không có hiện
tượng hóa vôi. Tính chất u được chúng tôi phân
tích chi tiết trên hình MRI cũng được phân tích
cụ thể trong bảng 5.
Bảng 5: Đặc điểm MRI của UNTB hố sau
Đặc điểm u trên MRI n=28
Giảm tín hiệu trên T1W 28 (100%)
T2W
Đồng tín hiệu 1 (3,6%)
Tăng tín hiệu 27(96,4%)
T2 khử nước
Tín hiệu cao 13 (46,4%)
Đồng tín hiệu 7 (25%)
Tín hiệu thấp 8 (28,6%)
Khuếch tán (n=18)
Hạn chế khuếch tán 18 (100%)
U bao bọc thần kinh 25 (89%)
U bao bọc mạch máu 24 (85,4%)
Kết quả phẫu thuật hết u được phẫu thuật
viên đánh giá trong lúc mổ kết hợp với CT sau
mổ được trình bày trong bảng 6 dưới đây:
Bảng 6. Kết quả phẫu thuật
Kết quả lấy u Số lượng (%)
Toàn bộ bao u 9 (32%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 153
Lấy u còn bao 17 (61%)
Bán phần 2 (7%)
CT não cản quang kiểm tra được thực hiện
trong vòng 24‐48 giờ đầu sau mổ, tình trạng phù
não cũng như biến chứng máu tụ sau mổ cũng
được đánh giá và điều trị kịp thời.
Bảng 7: Biến chứng sau mổ
Biến chứng sau mổ
Liệt dây IX, X 2 (7,2%)
Liệt VII ngoại biên 1 (3,6%)
Dập phù não hố mổ 1 (3,6%)
Kết quả sớm được đánh giá lúc ra viện (7‐15
ngày sau mổ) theo thang điểm GOS và được thể
hiện trong bảng 8.
Bảng 8: Kết quả lúc ra viện
Hồi phục 23 (82%)
Di chứng vừa 3 (10,7%)
Di chứng nặng 1 (3,6%)
Tử vong 1 (3,6%)
Tổng số 28 (100%)
Trước mổ: hình A và B,
UNTB chiếm vùng góc
cầu tiểu não, đẩy dây TK
V lên trên ra ngoài
Sau mổ: hình C và D,
UNTB đã được lấy đi. Dây
TK V đã được giải phóng về
vị trí thường gặp.
Trước mổ: hình E và F,
UNTB vùng não thất IV
Sau mổ: hình G và H,
UNTB đã được lấy đi.
Hình 1: Một số hình ảnh MRI của UNTB trước và sau phẫu thuật
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 40,7 tuổi, tập trung nhiều ở nhóm
tuổi từ 40‐ 49 tuổi (32%), tỉ lệ nam/nữ là 1/1,8.
Điều này cũng phù hợp với y văn ghi nhận
rằng u thường gặp ở người tuổi trưởng thành,
ít gặp ở trẻ em và không có sự khác biệt ở hai
giới(7, 9). Ngày nay đa số tác giả đều cho rằng
đây là loại thương tổn bẩm sinh do sư vùi của
những yếu tố ngoại bì trong giai đoạn đóng
ống thần kinh tại tuần thứ 3‐5 của phôi. Tuy
nhiên loại u này phát triển rất chậm do chúng
không phải tăng sinh như những u thực thụ
mà lớn lên bằng cách tích tụ những sản phẩm
của quá trình tróc vẩy của lớp biểu mô, do đó
khi bệnh lớn tuổi mới biểu hiện bệnh(2). Điều
này cũng tương tự với các nghiên cứu của các
tác giả khác như: Akar và cộng sự thì tuổi
trung bình là 40 dao động từ 22‐69 tuổi,
Yamakawa là 35,5 tuổi (19 ‐ 58) và Yasargil là
A
B
C
D
E
F
G
H
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 154
37,3 tuổi (18‐62)(10). Theo y văn không có sự
khác biệt về giới trong UNTB nội sọ(1,3,7,10),
nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi thấy nữ
chiếm ưu thế gần gấp đôi nam. Điều này có
thể do cỡ mẫu chưa đủ lớn, cách chọn mẫu
thuận tiện nên chưa phản ánh đúng tỉ lệ của cả
quần thể.
Về lâm sàng, tùy thuộc vào vị trí và mức độ
xâm lấn mà UNTB hố sọ sau, có những biểu
hiện lâm sàng khác nhau. Đau đầu là triệu
chứng khá thường gặp chiếm 89% nhưng không
đặc hiệu. Đau có thể do liên quan đến sự kéo
căng của sự đè ép màng cứng hoặc các dây thần
kinh kế cận, đôi khi do tăng áp lực nội sọ hay
đầu nước tắc nghẽn. Vùng góc cầu tiểu não
chiếm tỉ lệ cao nhất trong nghiên cứu của chúng
tôi với 22/28 (78,6%). Điều này cũng tương đồng
với nhiều báo cáo trong y văn cũng thấy vùng
góc cầu tiểu não chiếm ưu thế từ 40‐60% UNTB
nội sọ(10). Do đặc điểm giải phẫu vùng này phức
tạp gồm tiểu não, thân não và các thần kinh
mạch máu quan trọng nên chúng có biểu hiện
lâm sàng khá đa dạng, nổi bật nhất là đau dây V
(46,4%), hội chứng tiểu não (50%). Vì vậy trước
một bệnh nhân đau dây V chúng ta cần phải xác
định xem có UNTB ở góc cầu tiểu não hay
không. Có 4 trường hợp (14,2%) giảm thính lực,
ù tai do rối loạn chức năng dây VIII. Tuy nhiên,
các triệu chứng thay đổi trong nhiều nghiên cứu
khác nhau, tác giả Kotaba(3) trong lô nghiên cứu
263 ca cho thấy giảm thính lực được ghi nhận
36,7% các trường hợp, trong đó đau dây V chỉ
29,7% và các triệu chứng khác ít gặp hơn như
chóng mặt 19,4%, liệt mặt 19,4% và đau đầu
17,9%. Tác giả Schiefer ghi nhận đau đầu chiếm
67%, còn tác giả Samii M thì ghi nhận giảm
thính lực đến 55%. Trong nghiên cứu của chúng
tôi không có trường hợp nào co giật nửa mặt
như Kobata đã báo cáo(3).
Bản chất của UNTB là những mảnh vụn
keratin và cholesterol, đôi khi là protein và calci.
Đậm độ trên hình ảnh CT được quyết đỉnh bởi
nồng độ của các chất này. Osborn(5) nhận thấy
trong hầu hết các trường hợp đậm độ UNTB
giống như dịch não tủy và tín hiệu thường đồng
nhất. Trong 28 trường hợp nghiên cứu, chúng
tôi ghi nhận có 9 trường hợp được chụp CT
trước mổ và đậm độ của u giống dịch não tủy và
không bắt thuốc cản quang được thấy trong
100% trường hợp. Đối với nhiều loại u nội sọ
khác, hình ảnh CT scan tỏ ra hữu ích trong việc
đánh giá và chẩn đoán, nhưng với trường hợp
UNTB rất khó để chẩn đoán xác định. Đậm độ
của UNTB tương tự với dịch não tủy, hơn nữa vị
trí thường gặp của nang thượng bì lại là ở các
khoang dịch não tủy. Thêm nữa, hình ảnh
UNTB trên CT scan hầu hết không bắt thuốc cản
quang hay đôi khi có viền nhẹ nên việc chẩn
đoán phân biệt với nang màng nhện là cần thiết.
Trong lúc đó, MRI là phương tiện hình ảnh chẩn
đoán ưu việt trong chẩn đoán UNTB. Tất cả 28
trường hợp trong nghiên cứu đều được chẩn
đóan trước mổ bằng MRI. Chúng tôi thực hiện
các chuỗi xung T1W, T2W và T2 khử nước cho
thấy tín hiệu của UNTB hầu hết là giống với
dịch não tủy, không bắt thuốc và 100% không có
phù não quanh u. Nếu chỉ dựa vào MRI thông
thường để chẩn đoán cần chú ý đến bệnh sử vị
trí và hình dạng tổn thương, đẩy lệch cấu trúc
não mà không xâm lấn, không thấy phù não
xung quanh(3). Ngày nay, hầu hết các trường hợp
chụp MRI với chẩn đoán u não đều có kèm kiểu
xung khuếch tán. Xung khuếch tán cho thấy sự
khác biệt giữa dịch não tủy và nang màng nhện.
Tín hiệu của UNTB cao hơn nhiều so với dịch
não tũy và nhu mô não xung quanh. Trong 28
trường hợp chỉ có 18 chụp hình khuếch tán cho
thấy 100% các trường hợp có hiện tượng hạn chế
khuếch tán. Đây là hình ảnh có độ nhạy và độ
đặc hiệu cao và rất hữu ích trong việc đánh giá
còn u sau mổ hay không.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu hầu hết có
thang điểm Glassgow 13 ‐ 15 điểm (100%), và
tình trạng sức khỏe còn tốt, 96,4% có điểm
Karnofsky trước mổ trên 70 điểm. Điểm
Karnofsky và glassgow cao thể hiện tình trạng
thần kinh ổn định cũng như tình trạng tòan thân
còn khá tốt, nó là yếu tố tiên lượng rất có giá trị
cho kết quả điều trị phẫu thuật.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 155
Chúng tôi thực hiện chụp CT não cản quang
kiểm tra tất cả trường hợp trong vòng 24 ‐ 48 giờ
sau mổ. Do đó, các biến chứng như máu tụ
trong sọ, phù não sau mổ cũng được đánh giá
và điều trị tích cực. Tỉ lệ lấy toàn bộ bao u và lấy
u còn bao lần lượt là 32% và 61%. Như đã nói ở
trên, UNTB là một thương tổn lành tính, phát
triển rất chậm, không đáp ứng với các phương
thức xạ trị hay hóa trị, nên mục tiêu điều trị là
phẫu thuật lấy toàn bộ u(1,7,10). Nhưng lấy toàn bộ
u không phải lúc nào cũng đạt được. Khó khăn
lớn nhất khi phẫu thuật loại bệnh lý này là bao u
có khuynh hướng dính chặt vào cấu trúc quan
trọng xung quanh như thân não, thành não thất,
mạch máu và các dây thần kinh sọ liên quan.
Thực tế trong nghiên cứu của chúng tôi có 89%
u bao bọc thần kinh và 85,4% u bao bọc mạch
máu vì vậy chúng tôi chỉ bóc hết bao u trong
32% các trường hợp. thực tế cho thấy, dù sử
dụng kính vi phẫu trong mổ nhưng cũng khó
bóc hết được bao u, đặc biệt là u ở vùng góc cầu
tiểu não. Sự cố gắng bóc tách bao u thường sẽ để
lại biến chứng nặng nề. Trong y văn ghi nhận tỉ
lệ lấy toàn bộ u thay đổi rất nhiều từ 0 ‐ 97% tùy
theo tác giả và tùy vị trí u(1,3,7,10). Những khó khăn
chúng tôi nhận thấy khi phẫu thuật u này là:
Thứ nhất, UNTB hố sau thường ở vị trí khó như
các bể dịch não tuỷ vùng sàn sọ, góc cầu tiểu não
hay não thất IV. Thứ hai, vỏ bao u có khuynh
hướng dính vào các mô lân cận khiến việc lấy
toàn bộ u là một thách thức không nhỏ, chỉ có
9/28 trường hợp (32%) lấy toàn bộ u. Thứ ba, là u
thường xâm lấn ra khỏi vị trí nguyên phát nên
mục tiêu lấy toàn bộ u để giảm tái phát không
thể thực hiện được trên hầu hết các ca. Thứ tư, là
đôi khi u bao bọc mạch máu thần kinh khi lấy u
rất dể gây tổn thương, trong nghiên cứu của
chúng tôi u bao bọc thần kinh chiếm 89%, u bao
bọc mạch máu 85,4%. Tuy nhiên có những
thuận lợi trong phẫu thuật u này mà ít gặp ở
những loại u khác trong nội sọ như: Thứ nhất,
mô u dễ vỡ vụn, có thể lấy nhẹ nhàng tránh thao
tác quá mạnh. Thứ hai, là u không phát triển
mạng mạch máu nuôi là yếu tố thuận lợi quan
trọng nhất. Do điều này, việc cầm máu không
khó khăn trong lúc mổ và làm giảm biến chứng
tụ máu hố mổ. Trong lô nghiên cứu này, chúng
tôi không ghi nhận có trường hợp biến chứng
chảy máu tụ hố mổ. Thuận lợi thứ 3, được thấy
rõ ràng nhất với những u có kích thước lớn như
Yasargil (10), Samii(7) báo cáo là khi lấy toàn bộ u,
mô não không giản nở trở lại vùng bị chiếm chỗ
trước đó bởi u. Do đó tạo ra một kênh hành lang
phẫu thuật giúp duy trì việc lấy u ở vùng xa hay
bóc tách u mà không phải vén não nhiều. Thứ tư,
là cho dù u