Gia tăng thời gian ngủ có liên quan với việc giảm tình trạng béo phì ở trẻ vị thành niên có thời gian ngủ ít?

Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định việc thay đổi thời gian ngủ có thể ảnh hưởng đến các chỉ số khách quan của tình trạng béo phì ở trẻ vị thành niên trong thời gian 5 năm hay không? Phương pháp: Một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu 5 năm được thực hiện từ năm 2004 đến năm 2009. Chiều cao, cân nặng, chu vi vòng eo, bề dày các nếp gấp da cùng với thời gian dành cho hoạt động thể lực, xem tivi và cho việc ngủ hàng ngày của trẻ cùng với thói quen ăn uống được thu thập hàng năm từ 759 học sinh cấp II TPHCM. Trẻ có thời gian ngủ ít hơn 6g/ngày vào lúc đầu nghiên cứu (64 trẻ/759 trẻ) được chia thành hai nhóm: nhóm tăng thời gian ngủ để đảm bảo đủ ≥8giờ/ngày vào lúc kết thúc nghiên cứu (n =34); và nhóm trẻ vẫn duy trì thói quen ngủ 6giờ/ngày hay ít hơn (n=30). Nhóm trẻ có thời gian ngủ đủ (≥8giờ/ngày) từ lúc đầu nghiên cứu cho đến kết thúc nghiên cứu (n=695) được xem như là “nhóm chứng”. Sự thay đổi của các chỉ số của tình trạng béo phì cho mỗi nhóm có thời gian ngủ khác nhau được so sánh bằng ANOVA. Mô hình hồi qui đa biến GLLAMM được áp dụng để khảo sát mối liên quan dọc giữa thay đổi BMI và các yếu tố nguy cơ bằng STATA 12.0 Kết quả: Hai nhóm trẻ có thời gian ngủ ngắn có các đặc điểm lúc bắt đầu nghiên cứu giống nhau. Tuy nhiên, qua 5 năm khảo sát nhóm trẻ có thời gian ngủ ít và vẫn tiếp tục duy trì tình trạng này cho đến kết thúc nghiên cứu có sự gia tăng BMI và mỡ cơ thể hơn nhóm trẻ có thời gian ngủ ít vào lúc bắt đầu nghiên cứu nhưng có cải thiện thời gian ngủ (1,21±0,33 kg/m2 và 2,36±0,54 kg, p<0,05), sau khi hiệu chỉnh cho các yếu tố liên quan khác. Chúng tôi không thấy sự khác biệt một cách có ý nghĩa trong các chỉ số của tình trạng béo phì giữa “nhóm chứng” và nhóm có thời gian ngủ ngắn nhưng tăng thời gian ngủ lên dần. Phân tích đa biến cho thấy sau khi hiệu chỉnh cho các yếu tố gây nhiễu khác, việc thay đổi thói quen ngủ làm BMI giảm đi 0,48. Kết luận: Nghiên cứu này gợi ý rằng việc thay đổi thời gian ngủ từ ít sang đầy đủ có thể làm nhẹ bớt tình trạng tăng lượng mỡ cơ thể.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gia tăng thời gian ngủ có liên quan với việc giảm tình trạng béo phì ở trẻ vị thành niên có thời gian ngủ ít?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  153 GIA TĂNG THỜI GIAN NGỦ CÓ LIÊN QUAN   VỚI VIỆC GIẢM TÌNH TRẠNG BÉO PHÌ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN   CÓ THỜI GIAN NGỦ ÍT?  Tăng Kim Hồng*   TÓM TẮT  Mục  tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định việc thay đổi thời gian ngủ có thể ảnh hưởng đến các chỉ số  khách quan của tình trạng béo phì ở trẻ vị thành niên trong thời gian 5 năm hay không?   Phương pháp: Một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu 5 năm được thực hiện từ năm 2004 đến năm 2009.  Chiều cao, cân nặng, chu vi vòng eo, bề dày các nếp gấp da cùng với thời gian dành cho hoạt động thể lực,  xem tivi và cho việc ngủ hàng ngày của trẻ cùng với thói quen ăn uống được thu thập hàng năm từ 759 học  sinh cấp II TPHCM. Trẻ có thời gian ngủ ít hơn 6g/ngày vào lúc đầu nghiên cứu (64 trẻ/759 trẻ) được chia  thành hai nhóm: nhóm tăng thời gian ngủ để đảm bảo đủ ≥8giờ/ngày vào lúc kết thúc nghiên cứu (n =34);  và  nhóm  trẻ  vẫn  duy  trì  thói  quen  ngủ  6giờ/ngày  hay  ít  hơn  (n=30). Nhóm  trẻ  có  thời  gian  ngủ  đủ  (≥8giờ/ngày) từ lúc đầu nghiên cứu cho đến kết thúc nghiên cứu (n=695) được xem như là “nhóm chứng”.  Sự thay đổi của các chỉ số của tình trạng béo phì cho mỗi nhóm có thời gian ngủ khác nhau được so sánh  bằng ANOVA. Mô hình hồi qui đa biến GLLAMM được áp dụng để khảo sát mối liên quan dọc giữa thay  đổi BMI và các yếu tố nguy cơ bằng STATA 12.0  Kết quả: Hai nhóm trẻ có thời gian ngủ ngắn có các đặc điểm lúc bắt đầu nghiên cứu giống nhau. Tuy  nhiên, qua 5 năm khảo sát nhóm trẻ có thời gian ngủ ít và vẫn tiếp tục duy trì tình trạng này cho đến kết thúc  nghiên cứu có sự gia tăng BMI và mỡ cơ thể hơn nhóm trẻ có thời gian ngủ ít vào lúc bắt đầu nghiên cứu nhưng  có cải thiện thời gian ngủ (1,21±0,33 kg/m2 và 2,36±0,54 kg, p<0,05), sau khi hiệu chỉnh cho các yếu tố liên quan  khác. Chúng tôi không thấy sự khác biệt một cách có ý nghĩa trong các chỉ số của tình trạng béo phì giữa “nhóm  chứng” và nhóm có thời gian ngủ ngắn nhưng tăng thời gian ngủ lên dần. Phân tích đa biến cho thấy sau khi  hiệu chỉnh cho các yếu tố gây nhiễu khác, việc thay đổi thói quen ngủ làm BMI giảm đi 0,48.  Kết luận: Nghiên cứu này gợi ý rằng việc thay đổi thời gian ngủ từ ít sang đầy đủ có thể làm nhẹ bớt tình  trạng tăng lượng mỡ cơ thể.   Từ khóa: tình trạng béo phì, mỡ cơ thể, thời gian ngủ, trẻ vị thành niên  ABSTRACT  LONGER SLEEP DURATION ASSOCIATES WITH LOWER ADIPOSITY GAIN   IN SHORT SLEEPER ADOLESCENTS  Tang Kim Hong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 153 ‐ 158  Objective: To verify whether an increase in sleep duration over 5 years could impact objective indicators of  adiposity in adolescents.  Methods: A 5‐year prospective cohort study was conducted between 2004 and 2009. Height, weight, waist  circumferences and skinfold measures as well as time spent for physical activity, TV viewing and sleeping time as  well as eating behaviors were collected annually among 759 junior high school students in Ho Chi Minh City.  Short sleeper with less than 6hours/day at the baseline (64/759 adolescents) were divided into two groups: those  * Bộ môn Dịch tễ học cơ bản ‐ dân số học ‐ Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.  Tác giả liên lạc: TS BS Tăng Kim Hồng , ĐT: 0903350503, Email: hongutc@yahoo.com      Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  154 who increased their sleep duration to 8hours/day or more at year 5 (n=34); and those who maintained their short  sleep duration habits (n=30). Students who reported sleeping ≥ 8hours/day at both baseline and year 5 (n=695)  were used as a control group. Change in adiposity indicators for each sleep‐duration group was compared using  ANOVA. Multivariate  regressions with  generalized  linear  latent  and mixed models were  applied  to  assess  longitudinal relationship between BMI and other risk factors using STATA 12.0.  Results: The two short‐sleep‐duration groups had similar baseline characteristics. However, short‐duration  sleepers who maintained their short sleep duration experienced a greater increase BMI and body fat over the 5‐ year  follow‐up  period  than  short  duration  sleepers who  increased  their  sleep  duration  (1,21±0,33  kg/m2  and  2,36±0,54 kg, respectively, p<0,05), after adjustment for other covariates. We found no significant difference in  adiposity changes between the control group and short‐duration sleepers who increased their sleep duration. After  adjustment  for  other  confounders  in  multivariate  analysis,  changing  sleeping  habit  was  associated  with  a  reduction in BMI of 0.48.  Conclusion: This study suggests that shifting sleep duration from a short to a healthier length is associated  with an attenuation of body fat gain.  Key words: Adiposity, body fat, sleep duration, adolescents  ĐẶT VẤN ĐỀ  Đã  có  nhiều  bằng  chứng  chứng minh  thời  gian ngủ ít là cũng một yếu tố nguy cơ của tình  trạng  béo  phì(14,13).  Kết  quả  của  những  nghiên  cứu  tiền  cứu  cũng  đã  cho  thấy  rằng  thời  gian  ngủ ít có liên quan với việc tăng cân và tăng tỷ  suất mới mắc béo phì  ở  trẻ em và  trẻ vị  thành  niên(1,7). Có nghiên cứu còn tìm thấy rằng cứ với  mỗi giờ ngủ  tăng  thêm  sẽ  làm giảm khả năng  béo phì 80%(8).   Ngủ đủ giấc là một yếu tố đánh giá sức khỏe  và  hành  vi  liên  quan  đến  sức  khỏe  của  trẻ  vị  thành  niên(3). Vì  thiếu  ngủ mãn  tính  đang  trở  thành một đặc  tính  thường  thấy của cuộc sống  hiện đại, những nghiên cứu nhằm khảo sát mối  liên  hệ  giữa  việc  ngủ  ít  và  béo  phì  là  rất  cần  thiết. Đồng thời, cũng cần có những nghiên cứu  khảo sát ảnh hưởng của việc gia tăng thời gian  ngủ với việc giảm nguy cơ tăng trọng để từ đó  có những khuyến cáo thích hợp về thời gian ngủ  hàng  ngày  cho  trẻ  em. Cho  đến  nay,  có  rất  ít  nghiên cứu quan sát khảo sát ảnh hưởng này, do  đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu cắt dọc trong  5 năm trên trẻ vị thành niên nhằm tìm hiểu xem  việc gia tăng thời gian ngủ có hiệu quả gì không.  Giả thiết nghiên cứu đặt ra là việc thay đổi thời  gian  ngủ  từ  ít  (≤  6giờ/ngày)  sang  đầy  đủ  (≥8giờ/ngày) có thể làm nhẹ bớt tình trạng tăng  lượng mỡ cơ thể.   PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Các  đối  tượng  được  khảo  sát  trong  đề  tài  này là những học sinh cấp II TPHCM tham gia  trong nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu 5 năm được  thực hiện từ năm 2004 đến năm 2009, với 5  lần  thu  thập  số  liệu, mỗi  lần  cách nhau một năm,  nhằm tìm các yếu tố nguy cơ của béo phì ở trẻ vị  thành niên. Chi tiết của nghiên cứu đoàn hệ này  cũng  như  việc  chọn mẫu  và  tính  cở mẫu  cần  thiết đã được trình bày trong một bài báo công  bố  trước đây(12). Thời gian  trung bình dành cho  ngủ nếu ≤ 6giờ/ngày thì được gọi là “ngủ ít”(15).  Những  học  sinh  “ngủ  ít”  vào  lúc  đầu  nghiên  cứu  (64  trẻ/759  trẻ) được chia  thành hai nhóm:  nhóm trẻ vẫn duy trì thói quen ngủ ít sau 5 năm  (n=30) là nhóm 1, và nhóm tăng thời gian ngủ để  đảm  bảo  đủ  (≥  8giờ/ngày)  vào  lúc  kết  thúc  nghiên cứu (n =34) là nhóm 2. Vì thời gian ngủ  đủ đã được chứng minh là có liên quan với việc  phòng  ngừa một  số  bệnh  thông  thường(6)  nên  trong nghiên  cứu này  chúng  tôi  so  sánh  thêm  với một “nhóm chứng” có  thời gian ngủ đủ  (≥  8giờ/ngày) (n=695) (nhóm 3).   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  155 Thu thập số liệu  Chiều cao học sinh được đo bằng thước đo  chiều  cao  đứng  (Microtoise) với  độ  chính xác  đến 0,1 cm khi học  sinh không mang giày và  đứng thẳng, tựa gót, mông, chẩm đầu vào mặt  phẳng cứng. Cân nặng học sinh được đo bằng  cân  điện  tử  (Tanita) với  độ  chính xác  đến 0,1  kg khi học sinh không mang giày và mặc đồng  phục nhẹ. Chu vi vòng eo (CVVE) được đo tại  đường  giữa  điểm  thấp  nhất  của  xương  sườn  và giới hạn  trên  của mào  chậu, với  độ  chính  xác đến 0,1 cm. Bề dày nếp gấp da  (BDNGD)  được đo tại 4 điểm: tam đầu, sau vai, bụng và  bắp chân, mỗi điểm đo 2 lần. BDNGD tại mỗi  điểm là trung bình cộng của 2 lần đo. Với mỗi  đối  tượng  nghiên  cứu,  số  đo  trung  bình  của  BDNGD là trung bình cộng của số đo BDNGD  tại 4 điểm nêu  trên. Trình độ học vấn của mẹ  và kinh tế gia (đánh giá qua các loại vật dụng  sẵn  có  trong  nhà)  được  thu  thập  bằng  bảng  câu hỏi  (BCH). BCH  cũng  được dùng  để  thu  thập  thông  tin  về  thời  gian  trung  bình  mỗi  ngày  dành  cho  hoạt  động  vừa  và  nặng,  cho  xem  tivi và  thời gian dành cho ngủ cũng như  thói quen về ăn uống của học sinh.   Phân tích số liệu  Đặc  tính  của  các  đối  tượng  vào  lúc  đầu  nghiên cứu được so sánh giữa 3 nhóm (có tăng  thời  gian  ngủ,  không  tăng  thời  gian  ngủ  và  nhóm chứng) bằng phép kiểm ANOVA (đối với  biến  số  định  lượng) hay  chi bình phương  (đối  với biến số định tính), sau đó phép kiểm Scheffe  được sử dụng để so sánh từng cặp (biến số định  lượng). Kinh tế gia đình được đánh giá dựa vào  chỉ số tài sản (Wealth Index) ‐ được tính dựa vào  phương  pháp  phân  tích  thành  phần  chủ  yếu  (principal  component  analysis)  và  có  cân  nhắc  đến  tỷ  trọng  của  từng  thành  phần  khi  tính  toán(4). Trình  độ  học  vấn  của mẹ  được  xem  là  “cao” khi mẹ  có  trình  độ học vấn  từ  cấp 3  trở  lên. Việc ăn rau/quả, uống nước ngọt được định  nghĩa là thường xuyên khi trẻ ăn hay uống gần  như mỗi ngày. Do nghiên cứu sử dụng phương  pháp  chọn mẫu  cụm nhiều  bậc  và  số  liệu  của  từng  đối  tượng  được  thu  thập nhiều  lần  trong  quá  trình nghiên  cứu  5 năm, mô hình hồi  qui  tuyến tính đa biến GLLAMM (generalized linear  latent and mixed models) được áp dụng nhằm  khảo sát mối liên quan dọc giữa thay đổi BMI và  các  yếu  tố  nguy  cơ.  Số  liệu  được  xử  lý  bằng  STATA 12.0.   KẾT QUẢ  Trong số 759 trẻ (của cả 3 nhóm) được khảo  sát vào năm 2004, chúng  tôi chỉ còn  lại 585  trẻ  vào  lúc  kết  thúc  nghiên  cứu. Tỷ  lệ  bỏ  cuộc  là  23%.  Phân  tích  các  đặc  tính  vào  lúc  bắt  đầu  nghiên cứu của nhóm trẻ bỏ cuộc và nhóm còn  lại  trong nghiên cứu  thì  thấy không khác nhau  một cách có ý nghĩa. Trong số trẻ bỏ cuộc không  tham gia nghiên cứu đến năm cuối cùng, có 3 trẻ  thuộc nhóm 1  (còn 27  trẻ), 7  trẻ  thuộc nhóm 2  (còn  27  trẻ)  và  164  trẻ  thuộc  nhóm  3  (còn  531  trẻ). Đặc tính của các đối tượng vào lúc bắt đầu  nghiên cứu được mô  tả ở Bảng 1. Kết quả cho  thấy  2  nhóm  có  thời  gian  ngủ  ít  có  đặc  tính  không  khác  biệt  nhau  một  cách  có  ý  nghĩa.  Ngược lại, nhóm chứng có thời gian ngủ dài hơn  rõ rệt. Thời gian dành cho hoạt động thể lực của  nhóm chứng hoàn toàn thấp hơn, trong khi thời  gian xem tivi thì nhiều hơn 2 nhóm có thời gian  ngủ ít vào lúc bắt đầu nghiên cứu.   Bảng 1: Đặc điểm của các nhóm đối tượng ‐ phân chia theo thời gian ngủ lúc bắt đầu nghiên cứu (n=759)   Nhóm có thời gian ngủ ít (≤ 6giờ/ngày) Nhóm có thời gian ngủ đủ (≥ 8giờ/ngày) (n=695) Không tăng thời gian ngủ vào cuối nghiên cứu (n=30) Có tăng thời gian ngủ vào cuối nghiên cứu (n=34) n ( %) n ( %) n ( %) Giới tính Nam Nữ 15 (50,0%) 15 (50,0%) 18 (52,2%) 16 (47,8%) 355 (51,1%) 340 (48,9%) TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  156 Nhóm có thời gian ngủ ít (≤ 6giờ/ngày) Nhóm có thời gian ngủ đủ (≥ 8giờ/ngày) (n=695) Không tăng thời gian ngủ vào cuối nghiên cứu (n=30) Có tăng thời gian ngủ vào cuối nghiên cứu (n=34) Tuổi (năm) 11,8 ± 0,6 11,7 ± 0,7 11,8 ± 0,6 Cân nặng (kg) BMI (kg/m2) BDNGD** (cm) CCVE*** (cm) 50,3 ± 12,6 19,1 ± 2,1 14,3 ± 5,9 65,8 ± 9,1 50,9 ± 12,7 18,9 ± 2,6 14,1 ± 5,6 63,9 ± 9,6 48,9 ± 13,3 17,7 ± 2,3 13,9 ± 5,6 60,5 ± 5,8 Thời gian ngủ (giờ/ngày) 5,6 ± 0,4 5,7 ± 0,2 8,1 ± 0,4 Thời gian dành cho hoạt động thể lực (phút/ngày) 44,8 ± 44,3 45,2 ± 41,2 39,4 ± 28,5 Thời gian xem tivi (phút/ngày) 75,7 ± 56,3 73,3 ± 55,4 85,3 ± 50,7 *TB± ĐLC = Trung bình±Độ lệch chuẩn, **BDNGD = Bề dày nếp gấp da, ***CVVE = Chu vi vòng eo  Qua 5 năm khảo sát, nhóm 1 có sự gia tăng  BMI và mỡ cơ thể hơn nhóm 2 (1,21±0,33 kg/m2  và 2,36±0,54 kg, p<0,05). Tuy nhiên CVVE không  khác biệt  có ý nghĩa giữa nhóm  1 và nhóm  2.  Các  chỉ  số  của  tình  trạng  béo  phì  không  khác  biệt một cách có ý nghĩa giữa nhóm 2 và nhóm  3. Thời gian dành cho hoạt động thể lực vừa và  nặng không khác biệt một cách có ý nghĩa giữa  nhóm 1 và 2. Thay đổi thời gian ngủ qua 5 năm  của nhóm 1 là 0,13±0,24 giờ/ngày và của nhóm 2  là 1,63±0,53 giờ/ngày (Bảng 2).  Bảng 2: Thay đổi về thời gian ngủ, BMI, bề dày nếp gấp da, chu vi vòng eo của các nhóm đối tượng trong thời  gian 5 năm  Nhóm có thời gian ngủ ít (≤ 6giờ/ngày) Nhóm có thời gian ngủ đủ (≥ 8giờ/ngày) (n=695) Không tăng thời gian ngủ vào cuối nghiên cứu (n=30) Có tăng thời gian ngủ vào cuối nghiên cứu (n=34) TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* Thay đổi thời gian ngủ (giờ/ngày) 0,13±0,24 1,63±0,53 2,22±0,36 Thay đổi BMI 2,16±0,55 0,95±0,49 0,78±0,43 Thay đổi BDNGD 3,78±1,86 1,47±0,78 1,13±0,89 Thay đổi CVVE 3,21±2,43 2,83±2,02 2,47±1,99 *TB± ĐLC = Trung bình±Độ lệch chuẩn, **BDNGD = Bề dày nếp gấp da, ***CVVE = Chu vi vòng eo  Bảng 3 trình bày mô hình thể hiện mối  liên  quan dọc giữa việc tăng thời gian ngủ (thay đổi  thói quen từ ngủ ít sang ngủ đủ) và BMI lúc kết  thúc nghiên cứu. Số  liệu được  trình bày với sự  có mặt (mô hình đa biến 2) và không có mặt của  biến số BMI (mô hình đa biến 1) ở thời điểm bắt  đầu nghiên cứu để đánh giá  tác động của việc  thay  đổi  thời gian ngủ  lên BMI  ở  lúc kết  thúc  nghiên cứu. Các biến số giới tính (nữ), trình độ  học vấn của mẹ (cao), kinh tế gia đình (khá giả),  thời  gian  xem  tivi,  thường  xuyên  uống  nước  ngọt  có ga  có  liên quan  thuận với  sự  thay  đổi  BMI,  trong  khi  các  biến  số  hoạt  động  thể  lực,  thay đổi  thói quen ngủ  (từ ngủ  ít sang ngủ đủ  vào  lúc kết  thúc nghiên cứu),  thường xuyên ăn  rau quả làm giảm BMI lúc kết thúc nghiên cứu.  Sau  khi  hiệu  chỉnh  cho  các  yếu  tố  gây  nhiễu  khác, việc thay đổi thói quen ngủ làm giảm BMI  khoảng 0,48.  Bảng 3: Hệ số hồi qui tuyến tính (và khoảng tin cậy 95%) của mô hình thể hiện mối liên quan dọc giữa thời gian  ngủ và BMI lúc kết thúc nghiên cứu với các biến số khác ở những trẻ ngủ ít (n=64)  Biến số Phân tích đơn biến Phân tích đa biến Hệ số beta (β) (KTC 95%) Mô hình 1* Hệ số beta (β) (KTC 95%) Mô hình 2* Hệ số beta (β) (KTC 95%) BMI lúc bắt đầu nghiên cứu 0,97 (0,87 - 1,15) - 0,91 (0,81 - 1,09) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  157 Biến số Phân tích đơn biến Phân tích đa biến Hệ số beta (β) (KTC 95%) Mô hình 1* Hệ số beta (β) (KTC 95%) Mô hình 2* Hệ số beta (β) (KTC 95%) Thời gian ngủ (vẫn ngủ ít so với tăng thời gian ngủ) −0,51 (−1,06 - −0,07) −0,48 (−0,96 - −0,01) −0,32 (−0,72 - −0,06) Giới tính (nữ so với nam) 0,45 (0,19 - 0,79) 0,53 (0,09 - 0,67) 0,65 (0,14 - 1,09) Trình độ học vấn của mẹ (cao so với thấp) 0,52 (0,09 - 1,23) 0,56 (0,12 - 1,38) 0,59 (0,08 - 0,93) Kinh tế gia đình (giàu so với không giàu) 0,10 (0,06 - 0,26) 0,12 (0,05 - 0,19) 0,11 (0,01 - 0,22) Thời gian dành cho hoạt động thể lực (phút/ngày) −0,25 (−1,12 - −0,55) −0,27 (−1,29 - −0,38) −0,19 (−1,21 - −0,34) Thời gian xem tivi (phút/ngày) 0,31 (0,03 – 0,61) 0,26 (0,06 – 0,48) 0,15 (0,01 - 0,22) Uống nước ngọt có ga (thường xuyên so với không thường xuyên) 1,25 (0,71 – 1,52) 1,28 (0,33 – 1,73) 1,19(0,58 – 1,54) Ăn rau quả (thường xuyên so với không thường xuyên) −0,14(−0,23 - −0,07) −0,12 (−0,24 - −0,06) −0,15 (−0,21 - −0,09) * Mô hình 1 không tính đến BMI của đối tượng lúc bắt đầu nghiên cứu, mô hình 2 có tính BMI lúc bắt đầu nghiên cứu  BÀN LUẬN  Nghiên  cứu  này  cho  thấy  việc  tăng  thời  gian ngủ  từ ngủ  ít  sang ngủ đủ  sẽ  làm giảm  nhẹ bớt tình trạng tăng trọng. Cơ chế giải thích  ảnh  hưởng  của  thời  gian  ngủ  ít  lên  sự  tăng  trọng của cơ  thể vẫn còn đang được xem xét.  Nhiều  báo  cáo  đã  chỉ  ra  rằng  việc  thiếu  ngủ  làm  giảm  lượng  leptin  trong máu,  đồng  thời  tăng lượng ghrelin và cortisol, làm mất sự cân  bằng  glucose  trong máu,  kích  hoạt  hệ  thống  orexin, và  tất  cả những  điều này  sẽ  làm  tăng  sự  ngon miệng  và  tác  động  lên  sự  điều  hòa  lượng thực phẩm lấy vào(17,16). Thiếu ngủ có thể  đưa đến tình trạng tăng trọng và béo phì bằng  cách gia tăng thời gian “dư thừa” để ăn và làm  cho việc duy  trì  lối  sống khỏe mạnh  tích  cực  trở nên khó khăn hơn. Đặc biệt nếu trong nhà  luôn có sẵn thức ăn, lượng năng lượng lấy vào  cơ  thể  có  thể  tỷ  lệ  thuận  với  thời  gian  thức,  nhất là khi trẻ có thói quen ăn vặt và phần lớn  thời gian thức  là dành cho các hoạt động  tĩnh  như xem tivi, lướt mạng internet v.v..(2). Thêm  vào đó, tình trạng mệt mỏi do thiếu ngủ có thể  làm  ảnh  hưởng  đến  hoạt  động  thể  lực  nói  chung.  Từ  những  bằng  chứng  cho  thấy  việc  ngủ đủ có  thể  là một yếu  tố quan  trọng giúp  làm giảm  cân,  chúng  ta  có  thể  thấy  rằng  can  thiệp để giải quyết béo phì không chỉ nên tập  trung vào ăn uống và hoạt động thể chất là đủ.   Trẻ ngủ ít thật sự bị tăng nguy cơ béo phì.  Trong nghiên cứu này với 1 giờ tăng thời gian  ngủ  trẻ sẽ giảm BMI 0,48 vào năm  thứ 5. Kết  quả  của  nghiên  cứu  này  tương  tự  với  nhiều  nghiên  cứu  cắt  dọc  khác,  trong  đó,  nguy  cơ  thừa  cân  béo  phì  của  trẻ  giảm  với  thời  gian  ngủ tăng  lên (nguy cơ  tương đối dao động  từ  0,65 đến 0,8)(11,9). Ngoài  ra các yếu  tố nguy cơ  của tăng BMI được tìm thấy trong nghiên cứu  này  cũng  tương  tự  như  những  nghiên  cứu  khác trên thế giới(5,1,7)  Điểm mạnh của nghiên cứu này  là  thiết kế  nghiên cứu cắt dọc và việc sử dụng nhiều chỉ số  đánh giá khách quan  tình  trạng béo phì của cơ  thể.  Tuy  vậy,  đề  tài  cũng  có một  số  hạn  chế.  Trước hết, việc đánh giá thời gian ngủ dựa vào  bảng câu hỏi nên ít nhiều cũng bị sai lệch do nhớ  lại. Ngoài  ra,  trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  không khảo sát tại sao và làm thế nào những đối  tượng ngủ ít lại tăng thời gian ngủ. Đây cũng là  một vấn đề lý thú cần tìm hiểu sâu thêm. Và một  số yếu  tố  khác  có  thể  liên  quan như  bệnh  đái  tháo đường không được khảo sát  trong nghiên  cứu này.  Tóm  lại, nghiên cứu này cho thấy việc tăng  thời gian ngủ từ ≤ 6giờ/ngày lên ≥ 8giờ/ngày đã  làm giảm bớt sự tăng trọng của cơ thể. Tuy vậy,  chúng ta thật sự cần phải thực hiện thêm các thử  nghiệm ngẫu nhiên  có  đối  chứng  để  đánh  giá  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  158 hiệu quả của việc tăng thời gian ngủ lên sự cân  bằng năng lượng, sự ngon miệng và chuyển hóa  của cơ thể.  Lời cảm ơn: Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự ủng hộ của Ban  Giám  hiệu  trường  Đại  học Y  khoa Phạm Ngọc Thạch  và Ban  Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM trong việc triển khai  đề tài. Chúng tôi hết sức cám ơn sự hỗ trợ tích cực của các nhân  viên  khoa Dinh  dưỡng Cộng  đồng  –  Trung  tâm Dinh  dưỡng  TPHCM, các bạn cộng tác viên của chương trình đã giúp chúng  tôi hoàn thành nghiên cứu. Xin chân thành cám ơn Sở Giáo dục  TPHCM, Ban Giám hiệu, Giáo viên chủ nhiệm các lớp thuộc 18  trường PTCS TPHCM  được  chọn  tham  gia  trong nghiên  cứu  này. Số  liệu phân tích trong bài báo này được rút ra từ kết quả  của  nghiên  cứu  đoàn 
Tài liệu liên quan