Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  153
GIA TĂNG THỜI GIAN NGỦ CÓ LIÊN QUAN  
VỚI VIỆC GIẢM TÌNH TRẠNG BÉO PHÌ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN  
CÓ THỜI GIAN NGỦ ÍT? 
Tăng Kim Hồng*  
TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định việc thay đổi thời gian ngủ có thể ảnh hưởng đến các chỉ số 
khách quan của tình trạng béo phì ở trẻ vị thành niên trong thời gian 5 năm hay không?  
Phương pháp: Một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu 5 năm được thực hiện từ năm 2004 đến năm 2009. 
Chiều cao, cân nặng, chu vi vòng eo, bề dày các nếp gấp da cùng với thời gian dành cho hoạt động thể lực, 
xem tivi và cho việc ngủ hàng ngày của trẻ cùng với thói quen ăn uống được thu thập hàng năm từ 759 học 
sinh cấp II TPHCM. Trẻ có thời gian ngủ ít hơn 6g/ngày vào lúc đầu nghiên cứu (64 trẻ/759 trẻ) được chia 
thành hai nhóm: nhóm tăng thời gian ngủ để đảm bảo đủ ≥8giờ/ngày vào lúc kết thúc nghiên cứu (n =34); 
và  nhóm  trẻ  vẫn  duy  trì  thói  quen  ngủ  6giờ/ngày  hay  ít  hơn  (n=30). Nhóm  trẻ  có  thời  gian  ngủ  đủ 
(≥8giờ/ngày) từ lúc đầu nghiên cứu cho đến kết thúc nghiên cứu (n=695) được xem như là “nhóm chứng”. 
Sự thay đổi của các chỉ số của tình trạng béo phì cho mỗi nhóm có thời gian ngủ khác nhau được so sánh 
bằng ANOVA. Mô hình hồi qui đa biến GLLAMM được áp dụng để khảo sát mối liên quan dọc giữa thay 
đổi BMI và các yếu tố nguy cơ bằng STATA 12.0 
Kết quả: Hai nhóm trẻ có thời gian ngủ ngắn có các đặc điểm lúc bắt đầu nghiên cứu giống nhau. Tuy 
nhiên, qua 5 năm khảo sát nhóm trẻ có thời gian ngủ ít và vẫn tiếp tục duy trì tình trạng này cho đến kết thúc 
nghiên cứu có sự gia tăng BMI và mỡ cơ thể hơn nhóm trẻ có thời gian ngủ ít vào lúc bắt đầu nghiên cứu nhưng 
có cải thiện thời gian ngủ (1,21±0,33 kg/m2 và 2,36±0,54 kg, p<0,05), sau khi hiệu chỉnh cho các yếu tố liên quan 
khác. Chúng tôi không thấy sự khác biệt một cách có ý nghĩa trong các chỉ số của tình trạng béo phì giữa “nhóm 
chứng” và nhóm có thời gian ngủ ngắn nhưng tăng thời gian ngủ lên dần. Phân tích đa biến cho thấy sau khi 
hiệu chỉnh cho các yếu tố gây nhiễu khác, việc thay đổi thói quen ngủ làm BMI giảm đi 0,48. 
Kết luận: Nghiên cứu này gợi ý rằng việc thay đổi thời gian ngủ từ ít sang đầy đủ có thể làm nhẹ bớt tình 
trạng tăng lượng mỡ cơ thể.  
Từ khóa: tình trạng béo phì, mỡ cơ thể, thời gian ngủ, trẻ vị thành niên 
ABSTRACT 
LONGER SLEEP DURATION ASSOCIATES WITH LOWER ADIPOSITY GAIN  
IN SHORT SLEEPER ADOLESCENTS 
Tang Kim Hong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 153 ‐ 158 
Objective: To verify whether an increase in sleep duration over 5 years could impact objective indicators of 
adiposity in adolescents. 
Methods: A 5‐year prospective cohort study was conducted between 2004 and 2009. Height, weight, waist 
circumferences and skinfold measures as well as time spent for physical activity, TV viewing and sleeping time as 
well as eating behaviors were collected annually among 759 junior high school students in Ho Chi Minh City. 
Short sleeper with less than 6hours/day at the baseline (64/759 adolescents) were divided into two groups: those 
* Bộ môn Dịch tễ học cơ bản ‐ dân số học ‐ Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. 
Tác giả liên lạc: TS BS Tăng Kim Hồng , ĐT: 0903350503, Email: 
[email protected]     
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  154
who increased their sleep duration to 8hours/day or more at year 5 (n=34); and those who maintained their short 
sleep duration habits (n=30). Students who reported sleeping ≥ 8hours/day at both baseline and year 5 (n=695) 
were used as a control group. Change in adiposity indicators for each sleep‐duration group was compared using 
ANOVA. Multivariate  regressions with  generalized  linear  latent  and mixed models were  applied  to  assess 
longitudinal relationship between BMI and other risk factors using STATA 12.0. 
Results: The two short‐sleep‐duration groups had similar baseline characteristics. However, short‐duration 
sleepers who maintained their short sleep duration experienced a greater increase BMI and body fat over the 5‐
year  follow‐up  period  than  short  duration  sleepers who  increased  their  sleep  duration  (1,21±0,33  kg/m2  and 
2,36±0,54 kg, respectively, p<0,05), after adjustment for other covariates. We found no significant difference in 
adiposity changes between the control group and short‐duration sleepers who increased their sleep duration. After 
adjustment  for  other  confounders  in  multivariate  analysis,  changing  sleeping  habit  was  associated  with  a 
reduction in BMI of 0.48. 
Conclusion: This study suggests that shifting sleep duration from a short to a healthier length is associated 
with an attenuation of body fat gain. 
Key words: Adiposity, body fat, sleep duration, adolescents 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đã  có  nhiều  bằng  chứng  chứng minh  thời 
gian ngủ ít là cũng một yếu tố nguy cơ của tình 
trạng  béo  phì(14,13).  Kết  quả  của  những  nghiên 
cứu  tiền  cứu  cũng  đã  cho  thấy  rằng  thời  gian 
ngủ ít có liên quan với việc tăng cân và tăng tỷ 
suất mới mắc béo phì  ở  trẻ em và  trẻ vị  thành 
niên(1,7). Có nghiên cứu còn tìm thấy rằng cứ với 
mỗi giờ ngủ  tăng  thêm  sẽ  làm giảm khả năng 
béo phì 80%(8).  
Ngủ đủ giấc là một yếu tố đánh giá sức khỏe 
và  hành  vi  liên  quan  đến  sức  khỏe  của  trẻ  vị 
thành  niên(3). Vì  thiếu  ngủ mãn  tính  đang  trở 
thành một đặc  tính  thường  thấy của cuộc sống 
hiện đại, những nghiên cứu nhằm khảo sát mối 
liên  hệ  giữa  việc  ngủ  ít  và  béo  phì  là  rất  cần 
thiết. Đồng thời, cũng cần có những nghiên cứu 
khảo sát ảnh hưởng của việc gia tăng thời gian 
ngủ với việc giảm nguy cơ tăng trọng để từ đó 
có những khuyến cáo thích hợp về thời gian ngủ 
hàng  ngày  cho  trẻ  em. Cho  đến  nay,  có  rất  ít 
nghiên cứu quan sát khảo sát ảnh hưởng này, do 
đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu cắt dọc trong 
5 năm trên trẻ vị thành niên nhằm tìm hiểu xem 
việc gia tăng thời gian ngủ có hiệu quả gì không. 
Giả thiết nghiên cứu đặt ra là việc thay đổi thời 
gian  ngủ  từ  ít  (≤  6giờ/ngày)  sang  đầy  đủ 
(≥8giờ/ngày) có thể làm nhẹ bớt tình trạng tăng 
lượng mỡ cơ thể.  
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các  đối  tượng  được  khảo  sát  trong  đề  tài 
này là những học sinh cấp II TPHCM tham gia 
trong nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu 5 năm được 
thực hiện từ năm 2004 đến năm 2009, với 5  lần 
thu  thập  số  liệu, mỗi  lần  cách nhau một năm, 
nhằm tìm các yếu tố nguy cơ của béo phì ở trẻ vị 
thành niên. Chi tiết của nghiên cứu đoàn hệ này 
cũng  như  việc  chọn mẫu  và  tính  cở mẫu  cần 
thiết đã được trình bày trong một bài báo công 
bố  trước đây(12). Thời gian  trung bình dành cho 
ngủ nếu ≤ 6giờ/ngày thì được gọi là “ngủ ít”(15). 
Những  học  sinh  “ngủ  ít”  vào  lúc  đầu  nghiên 
cứu  (64  trẻ/759  trẻ) được chia  thành hai nhóm: 
nhóm trẻ vẫn duy trì thói quen ngủ ít sau 5 năm 
(n=30) là nhóm 1, và nhóm tăng thời gian ngủ để 
đảm  bảo  đủ  (≥  8giờ/ngày)  vào  lúc  kết  thúc 
nghiên cứu (n =34) là nhóm 2. Vì thời gian ngủ 
đủ đã được chứng minh là có liên quan với việc 
phòng  ngừa một  số  bệnh  thông  thường(6)  nên 
trong nghiên  cứu này  chúng  tôi  so  sánh  thêm 
với một “nhóm chứng” có  thời gian ngủ đủ  (≥ 
8giờ/ngày) (n=695) (nhóm 3).  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  155
Thu thập số liệu 
Chiều cao học sinh được đo bằng thước đo 
chiều  cao  đứng  (Microtoise) với  độ  chính xác 
đến 0,1 cm khi học  sinh không mang giày và 
đứng thẳng, tựa gót, mông, chẩm đầu vào mặt 
phẳng cứng. Cân nặng học sinh được đo bằng 
cân  điện  tử  (Tanita) với  độ  chính xác  đến 0,1 
kg khi học sinh không mang giày và mặc đồng 
phục nhẹ. Chu vi vòng eo (CVVE) được đo tại 
đường  giữa  điểm  thấp  nhất  của  xương  sườn 
và giới hạn  trên  của mào  chậu, với  độ  chính 
xác đến 0,1 cm. Bề dày nếp gấp da  (BDNGD) 
được đo tại 4 điểm: tam đầu, sau vai, bụng và 
bắp chân, mỗi điểm đo 2 lần. BDNGD tại mỗi 
điểm là trung bình cộng của 2 lần đo. Với mỗi 
đối  tượng  nghiên  cứu,  số  đo  trung  bình  của 
BDNGD là trung bình cộng của số đo BDNGD 
tại 4 điểm nêu  trên. Trình độ học vấn của mẹ 
và kinh tế gia (đánh giá qua các loại vật dụng 
sẵn  có  trong  nhà)  được  thu  thập  bằng  bảng 
câu hỏi  (BCH). BCH  cũng  được dùng  để  thu 
thập  thông  tin  về  thời  gian  trung  bình  mỗi 
ngày  dành  cho  hoạt  động  vừa  và  nặng,  cho 
xem  tivi và  thời gian dành cho ngủ cũng như 
thói quen về ăn uống của học sinh.  
Phân tích số liệu 
Đặc  tính  của  các  đối  tượng  vào  lúc  đầu 
nghiên cứu được so sánh giữa 3 nhóm (có tăng 
thời  gian  ngủ,  không  tăng  thời  gian  ngủ  và 
nhóm chứng) bằng phép kiểm ANOVA (đối với 
biến  số  định  lượng) hay  chi bình phương  (đối 
với biến số định tính), sau đó phép kiểm Scheffe 
được sử dụng để so sánh từng cặp (biến số định 
lượng). Kinh tế gia đình được đánh giá dựa vào 
chỉ số tài sản (Wealth Index) ‐ được tính dựa vào 
phương  pháp  phân  tích  thành  phần  chủ  yếu 
(principal  component  analysis)  và  có  cân  nhắc 
đến  tỷ  trọng  của  từng  thành  phần  khi  tính 
toán(4). Trình  độ  học  vấn  của mẹ  được  xem  là 
“cao” khi mẹ  có  trình  độ học vấn  từ  cấp 3  trở 
lên. Việc ăn rau/quả, uống nước ngọt được định 
nghĩa là thường xuyên khi trẻ ăn hay uống gần 
như mỗi ngày. Do nghiên cứu sử dụng phương 
pháp  chọn mẫu  cụm nhiều  bậc  và  số  liệu  của 
từng  đối  tượng  được  thu  thập nhiều  lần  trong 
quá  trình nghiên  cứu  5 năm, mô hình hồi  qui 
tuyến tính đa biến GLLAMM (generalized linear 
latent and mixed models) được áp dụng nhằm 
khảo sát mối liên quan dọc giữa thay đổi BMI và 
các  yếu  tố  nguy  cơ.  Số  liệu  được  xử  lý  bằng 
STATA 12.0.  
KẾT QUẢ 
Trong số 759 trẻ (của cả 3 nhóm) được khảo 
sát vào năm 2004, chúng  tôi chỉ còn  lại 585  trẻ 
vào  lúc  kết  thúc  nghiên  cứu. Tỷ  lệ  bỏ  cuộc  là 
23%.  Phân  tích  các  đặc  tính  vào  lúc  bắt  đầu 
nghiên cứu của nhóm trẻ bỏ cuộc và nhóm còn 
lại  trong nghiên cứu  thì  thấy không khác nhau 
một cách có ý nghĩa. Trong số trẻ bỏ cuộc không 
tham gia nghiên cứu đến năm cuối cùng, có 3 trẻ 
thuộc nhóm 1  (còn 27  trẻ), 7  trẻ  thuộc nhóm 2 
(còn  27  trẻ)  và  164  trẻ  thuộc  nhóm  3  (còn  531 
trẻ). Đặc tính của các đối tượng vào lúc bắt đầu 
nghiên cứu được mô  tả ở Bảng 1. Kết quả cho 
thấy  2  nhóm  có  thời  gian  ngủ  ít  có  đặc  tính 
không  khác  biệt  nhau  một  cách  có  ý  nghĩa. 
Ngược lại, nhóm chứng có thời gian ngủ dài hơn 
rõ rệt. Thời gian dành cho hoạt động thể lực của 
nhóm chứng hoàn toàn thấp hơn, trong khi thời 
gian xem tivi thì nhiều hơn 2 nhóm có thời gian 
ngủ ít vào lúc bắt đầu nghiên cứu.  
Bảng 1: Đặc điểm của các nhóm đối tượng ‐ phân chia theo thời gian ngủ lúc bắt đầu nghiên cứu (n=759)  
 Nhóm có thời gian ngủ ít (≤ 6giờ/ngày) Nhóm có thời gian 
ngủ đủ (≥ 8giờ/ngày)
(n=695) 
 Không tăng thời gian ngủ vào 
cuối nghiên cứu (n=30) 
Có tăng thời gian ngủ vào 
cuối nghiên cứu (n=34) 
 n ( %) n ( %) n ( %) 
Giới tính 
Nam 
Nữ 
15 (50,0%) 
15 (50,0%) 
18 (52,2%) 
16 (47,8%) 
355 (51,1%) 
340 (48,9%) 
 TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  156
 Nhóm có thời gian ngủ ít (≤ 6giờ/ngày) Nhóm có thời gian 
ngủ đủ (≥ 8giờ/ngày)
(n=695) 
 Không tăng thời gian ngủ vào 
cuối nghiên cứu (n=30) 
Có tăng thời gian ngủ vào 
cuối nghiên cứu (n=34) 
Tuổi (năm) 11,8 ± 0,6 11,7 ± 0,7 11,8 ± 0,6 
Cân nặng (kg) 
BMI (kg/m2) 
BDNGD** (cm) 
CCVE*** (cm) 
50,3 ± 12,6 
19,1 ± 2,1 
14,3 ± 5,9 
65,8 ± 9,1 
50,9 ± 12,7 
18,9 ± 2,6 
14,1 ± 5,6 
63,9 ± 9,6 
48,9 ± 13,3 
17,7 ± 2,3 
13,9 ± 5,6 
60,5 ± 5,8 
Thời gian ngủ (giờ/ngày) 5,6 ± 0,4 5,7 ± 0,2 8,1 ± 0,4 
Thời gian dành cho hoạt động 
thể lực (phút/ngày) 
44,8 ± 44,3 45,2 ± 41,2 39,4 ± 28,5 
Thời gian xem tivi (phút/ngày) 75,7 ± 56,3 73,3 ± 55,4 85,3 ± 50,7 
*TB± ĐLC = Trung bình±Độ lệch chuẩn, **BDNGD = Bề dày nếp gấp da, ***CVVE = Chu vi vòng eo 
Qua 5 năm khảo sát, nhóm 1 có sự gia tăng 
BMI và mỡ cơ thể hơn nhóm 2 (1,21±0,33 kg/m2 
và 2,36±0,54 kg, p<0,05). Tuy nhiên CVVE không 
khác biệt  có ý nghĩa giữa nhóm  1 và nhóm  2. 
Các  chỉ  số  của  tình  trạng  béo  phì  không  khác 
biệt một cách có ý nghĩa giữa nhóm 2 và nhóm 
3. Thời gian dành cho hoạt động thể lực vừa và 
nặng không khác biệt một cách có ý nghĩa giữa 
nhóm 1 và 2. Thay đổi thời gian ngủ qua 5 năm 
của nhóm 1 là 0,13±0,24 giờ/ngày và của nhóm 2 
là 1,63±0,53 giờ/ngày (Bảng 2). 
Bảng 2: Thay đổi về thời gian ngủ, BMI, bề dày nếp gấp da, chu vi vòng eo của các nhóm đối tượng trong thời 
gian 5 năm 
 Nhóm có thời gian ngủ ít 
(≤ 6giờ/ngày) 
Nhóm có thời gian 
ngủ đủ (≥ 8giờ/ngày) 
(n=695) Không tăng thời gian ngủ 
vào cuối nghiên cứu (n=30)
Có tăng thời gian ngủ vào 
cuối nghiên cứu (n=34) 
TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* TB ± ĐLC* 
Thay đổi thời gian ngủ (giờ/ngày) 0,13±0,24 1,63±0,53 2,22±0,36 
Thay đổi BMI 2,16±0,55 0,95±0,49 0,78±0,43 
Thay đổi BDNGD 3,78±1,86 1,47±0,78 1,13±0,89 
Thay đổi CVVE 3,21±2,43 2,83±2,02 2,47±1,99 
*TB± ĐLC = Trung bình±Độ lệch chuẩn, **BDNGD = Bề dày nếp gấp da, ***CVVE = Chu vi vòng eo 
Bảng 3 trình bày mô hình thể hiện mối  liên 
quan dọc giữa việc tăng thời gian ngủ (thay đổi 
thói quen từ ngủ ít sang ngủ đủ) và BMI lúc kết 
thúc nghiên cứu. Số  liệu được  trình bày với sự 
có mặt (mô hình đa biến 2) và không có mặt của 
biến số BMI (mô hình đa biến 1) ở thời điểm bắt 
đầu nghiên cứu để đánh giá  tác động của việc 
thay  đổi  thời gian ngủ  lên BMI  ở  lúc kết  thúc 
nghiên cứu. Các biến số giới tính (nữ), trình độ 
học vấn của mẹ (cao), kinh tế gia đình (khá giả), 
thời  gian  xem  tivi,  thường  xuyên  uống  nước 
ngọt  có ga  có  liên quan  thuận với  sự  thay  đổi 
BMI,  trong  khi  các  biến  số  hoạt  động  thể  lực, 
thay đổi  thói quen ngủ  (từ ngủ  ít sang ngủ đủ 
vào  lúc kết  thúc nghiên cứu),  thường xuyên ăn 
rau quả làm giảm BMI lúc kết thúc nghiên cứu. 
Sau  khi  hiệu  chỉnh  cho  các  yếu  tố  gây  nhiễu 
khác, việc thay đổi thói quen ngủ làm giảm BMI 
khoảng 0,48. 
Bảng 3: Hệ số hồi qui tuyến tính (và khoảng tin cậy 95%) của mô hình thể hiện mối liên quan dọc giữa thời gian 
ngủ và BMI lúc kết thúc nghiên cứu với các biến số khác ở những trẻ ngủ ít (n=64) 
Biến số Phân tích đơn biến Phân tích đa biến 
 Hệ số beta (β) (KTC 95%) Mô hình 1* 
Hệ số beta (β) (KTC 95%) 
Mô hình 2* 
Hệ số beta (β) (KTC 95%)
BMI lúc bắt đầu nghiên cứu 0,97 (0,87 - 1,15) - 0,91 (0,81 - 1,09) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  157
Biến số Phân tích đơn biến Phân tích đa biến 
 Hệ số beta (β) (KTC 95%) Mô hình 1* 
Hệ số beta (β) (KTC 95%) 
Mô hình 2* 
Hệ số beta (β) (KTC 95%)
Thời gian ngủ (vẫn ngủ ít so với tăng 
thời gian ngủ) 
−0,51 (−1,06 - −0,07) −0,48 (−0,96 - −0,01) −0,32 (−0,72 - −0,06) 
Giới tính (nữ so với nam) 0,45 (0,19 - 0,79) 0,53 (0,09 - 0,67) 0,65 (0,14 - 1,09) 
Trình độ học vấn của mẹ (cao so với 
thấp) 
0,52 (0,09 - 1,23) 0,56 (0,12 - 1,38) 0,59 (0,08 - 0,93) 
Kinh tế gia đình (giàu so với không 
giàu) 
0,10 (0,06 - 0,26) 0,12 (0,05 - 0,19) 0,11 (0,01 - 0,22) 
Thời gian dành cho hoạt động thể lực 
(phút/ngày) 
−0,25 (−1,12 - −0,55) −0,27 (−1,29 - −0,38) −0,19 (−1,21 - −0,34) 
Thời gian xem tivi (phút/ngày) 0,31 (0,03 – 0,61) 0,26 (0,06 – 0,48) 0,15 (0,01 - 0,22) 
Uống nước ngọt có ga (thường xuyên 
so với không thường xuyên) 
1,25 (0,71 – 1,52) 1,28 (0,33 – 1,73) 1,19(0,58 – 1,54) 
Ăn rau quả (thường xuyên so với 
không thường xuyên) 
−0,14(−0,23 - −0,07) −0,12 (−0,24 - −0,06) −0,15 (−0,21 - −0,09) 
* Mô hình 1 không tính đến BMI của đối tượng lúc bắt đầu nghiên cứu, mô hình 2 có tính BMI lúc bắt đầu nghiên cứu 
BÀN LUẬN 
Nghiên  cứu  này  cho  thấy  việc  tăng  thời 
gian ngủ  từ ngủ  ít  sang ngủ đủ  sẽ  làm giảm 
nhẹ bớt tình trạng tăng trọng. Cơ chế giải thích 
ảnh  hưởng  của  thời  gian  ngủ  ít  lên  sự  tăng 
trọng của cơ  thể vẫn còn đang được xem xét. 
Nhiều  báo  cáo  đã  chỉ  ra  rằng  việc  thiếu  ngủ 
làm  giảm  lượng  leptin  trong máu,  đồng  thời 
tăng lượng ghrelin và cortisol, làm mất sự cân 
bằng  glucose  trong máu,  kích  hoạt  hệ  thống 
orexin, và  tất  cả những  điều này  sẽ  làm  tăng 
sự  ngon miệng  và  tác  động  lên  sự  điều  hòa 
lượng thực phẩm lấy vào(17,16). Thiếu ngủ có thể 
đưa đến tình trạng tăng trọng và béo phì bằng 
cách gia tăng thời gian “dư thừa” để ăn và làm 
cho việc duy  trì  lối  sống khỏe mạnh  tích  cực 
trở nên khó khăn hơn. Đặc biệt nếu trong nhà 
luôn có sẵn thức ăn, lượng năng lượng lấy vào 
cơ  thể  có  thể  tỷ  lệ  thuận  với  thời  gian  thức, 
nhất là khi trẻ có thói quen ăn vặt và phần lớn 
thời gian thức  là dành cho các hoạt động  tĩnh 
như xem tivi, lướt mạng internet v.v..(2). Thêm 
vào đó, tình trạng mệt mỏi do thiếu ngủ có thể 
làm  ảnh  hưởng  đến  hoạt  động  thể  lực  nói 
chung.  Từ  những  bằng  chứng  cho  thấy  việc 
ngủ đủ có  thể  là một yếu  tố quan  trọng giúp 
làm giảm  cân,  chúng  ta  có  thể  thấy  rằng  can 
thiệp để giải quyết béo phì không chỉ nên tập 
trung vào ăn uống và hoạt động thể chất là đủ.  
Trẻ ngủ ít thật sự bị tăng nguy cơ béo phì. 
Trong nghiên cứu này với 1 giờ tăng thời gian 
ngủ  trẻ sẽ giảm BMI 0,48 vào năm  thứ 5. Kết 
quả  của  nghiên  cứu  này  tương  tự  với  nhiều 
nghiên  cứu  cắt  dọc  khác,  trong  đó,  nguy  cơ 
thừa  cân  béo  phì  của  trẻ  giảm  với  thời  gian 
ngủ tăng  lên (nguy cơ  tương đối dao động  từ 
0,65 đến 0,8)(11,9). Ngoài  ra các yếu  tố nguy cơ 
của tăng BMI được tìm thấy trong nghiên cứu 
này  cũng  tương  tự  như  những  nghiên  cứu 
khác trên thế giới(5,1,7) 
Điểm mạnh của nghiên cứu này  là  thiết kế 
nghiên cứu cắt dọc và việc sử dụng nhiều chỉ số 
đánh giá khách quan  tình  trạng béo phì của cơ 
thể.  Tuy  vậy,  đề  tài  cũng  có một  số  hạn  chế. 
Trước hết, việc đánh giá thời gian ngủ dựa vào 
bảng câu hỏi nên ít nhiều cũng bị sai lệch do nhớ 
lại. Ngoài  ra,  trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi 
không khảo sát tại sao và làm thế nào những đối 
tượng ngủ ít lại tăng thời gian ngủ. Đây cũng là 
một vấn đề lý thú cần tìm hiểu sâu thêm. Và một 
số yếu  tố  khác  có  thể  liên  quan như  bệnh  đái 
tháo đường không được khảo sát  trong nghiên 
cứu này. 
Tóm  lại, nghiên cứu này cho thấy việc tăng 
thời gian ngủ từ ≤ 6giờ/ngày lên ≥ 8giờ/ngày đã 
làm giảm bớt sự tăng trọng của cơ thể. Tuy vậy, 
chúng ta thật sự cần phải thực hiện thêm các thử 
nghiệm ngẫu nhiên  có  đối  chứng  để  đánh  giá 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  158
hiệu quả của việc tăng thời gian ngủ lên sự cân 
bằng năng lượng, sự ngon miệng và chuyển hóa 
của cơ thể. 
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự ủng hộ của Ban 
Giám  hiệu  trường  Đại  học Y  khoa Phạm Ngọc Thạch  và Ban 
Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM trong việc triển khai 
đề tài. Chúng tôi hết sức cám ơn sự hỗ trợ tích cực của các nhân 
viên  khoa Dinh  dưỡng Cộng  đồng  –  Trung  tâm Dinh  dưỡng 
TPHCM, các bạn cộng tác viên của chương trình đã giúp chúng 
tôi hoàn thành nghiên cứu. Xin chân thành cám ơn Sở Giáo dục 
TPHCM, Ban Giám hiệu, Giáo viên chủ nhiệm các lớp thuộc 18 
trường PTCS TPHCM  được  chọn  tham  gia  trong nghiên  cứu 
này. Số  liệu phân tích trong bài báo này được rút ra từ kết quả 
của  nghiên  cứu  đoàn